Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc

Thuyết đánh giá mang tính nhận thức của cảm xúc còn được gọi dưới tên ngắn gọn hơn – thuyết đánh giá (appraisal theory) hay thuyết Lazarus (Lazarus’s theory) là một lý thuyết thuộc tâm lý học nhận thức. Richard Lazarus là nhà tâm lý học đầu tiên kết hợp nhận thức và cảm xúc trong cùng một lý thuyết để giải thích cho các hiện tượng và sự thay đổi cảm xúc của con người liên quan đến nhận thức của họ khi họ gặp một tình huống kích thích hoặc biến cố.

Dưới góc nhìn của tâm lý học, sự nhận thức (cognition) nghĩa là tư duy, tìm kiếm và sử dụng tri thức; sự nhận thức bắt đầu với việc tập trung vào cái gì đó và sau đó xác định nó là gì (Kalat, 2008). Sự nhận thức liên quan ít hoặc nhiều đến quá trình suy nghĩ mà quá trình này bao gồm các hoạt động như cảm nhận, đưa ra quan điểm hoặc ý kiến và ghi nhớ (Plutchik và Kellerman, 1980).

Theo Dalgleish (2004), tác phẩm nghiên cứu đầu tiên nói về cảm xúc là công trình quan sát và ghi chép kéo dài hơn ba mươi năm của Charles Darwin. Darwin (1872)6 cho rằng cảm xúc (emotions) là sự thể hiện xúc cảm của con người (và con vật) ví dụ như tức giận, hoảng sợ, ngạc nhiên, buồn bã. Sau đó, James (1884)7 qua công trình “Cảm xúc là gì?” đề xuất cảm xúc là những biểu hiện của sự thay đổi cơ thể xuất hiện trong quá trình phản ứng của các kích thích mang tính xúc cảm. Ekman và cộng sự. (1972) công bố sáu phản ứng cảm xúc cơ bản của con người bao gồm: hạnh phúc (happy), buồn bã (sad), tức giận (angry), khinh ghét (disgust), ngạc nhiên (surprise), lo lắng/lo sợ (fear/worry).

Lazarus (1982) cho rằng nhận thức và cảm xúc gắn kết với nhau một cách tự nhiên. Trong đó, đánh giá mang tính nhận thức (cognitive appraisal) là cách thức mà con người giải thích khi họ rơi vào một hoàn cảnh nào đó ở một thời điểm nhất định và đánh giá này quyết định phản ứng cảm xúc của họ. Lazarus (1982, trang 1020) kết luận “đánh giá mang tính nhận thức là điều kiện cần và đủ của cảm xúc”. Kết luận này bác bỏ kết quả công bố trước đó của Zajonc (1980), nhà tâm lý học đã có những nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của các phản ứng cảm xúc không nhất thiết phải có sự hiện diện của hệ thống nhận thức.

Công bố của Lazarus đã khơi mào cho một cuộc tranh luận suốt thập niên 80 giữa ông và Zajonc. Zajonc và Markus (1982), trong một nghiên cứu liên quan đến hành vi lựa chọn thực phẩm của người tiêu dùng đã cho rằng trong vài trường hợp, thành phần nhận thức có thể chi phối cảm xúc. Ở một số trường hợp, nhận thức và cảm xúc có thể chi phối lẫn nhau; trong những trường hợp khác yếu tố cảm xúc đóng vai trò chi phối và chiếm vị trí quan trọng. Cuối cùng Zajonc và Markus (1982) khẳng định ở đa số các trường hợp các phản ứng cảm xúc xuất hiện trước nhận thức. Zajonc (1984) công bố bài báo với tựa đề “Tính ưu việt của cảm xúc” (On the Primacy of Affect). Ông cho rằng Lazarus đã hiểu sai bản chất của nhận thức khi định nghĩa nhận thức dưới một thuật ngữ mới với tên gọi “đánh giá.

mang tính nhận thức”, và “không tìm thấy bất cứ bằng chứng thực nghiệm nào trong bài báo của Lazarus cho thấy đánh giá mang tính nhận thức có trước cảm xúc” (Zajonc 1984, trang 121). Cùng năm này, Lazarus (1984) công bố bài báo “Tính ưu việt của nhận thức” (On the Primacy of Cognition), ông cho rằng Zajonc đã không thừa nhận hàng loạt các thí nghiệm8 mà ông và các đồng nghiệp đã thực hiện và công bố trước đó.

Có thể hiểu sự khác biệt giữa lập luận của Zajonc và Lazarus nằm ở luận điểm khi một biến cố hay một tình huống kích thích xảy ra đối với một người, người đó sẽ phản ứng cảm xúc ngay lập tức. Cảm xúc này sẽ ảnh hưởng đến ý định và hành vi của con người sau đó (lập luận của Zajonc). Ví dụ, một người dò vé số và biết mình trúng số, cảm xúc của anh ta lúc này là vô cùng hạnh phúc. Người trúng số lúc này có thể cho rằng mình may mắn, ở hiền gặp lành và hành vi sau đó có thể là mời mọi người ăn miễn phí, đi làm từ thiện. Cảm xúc đã xuất hiện trước nhận thức trong tình huống này. Tuy nhiên, Zajonc (1980) minh họa một ví dụ gây nhiều tranh luận liên quan đến hành vi tiêu dùng. Ông cho rằng “chúng ta mua những chiếc xe hơi mà chúng ta thích, lựa chọn những nghề nghiệp, nhà ở mà chúng ta thấy hấp dẫn, và sau đó đánh giá những sự lựa chọn này bởi hàng loạt lý do […] chúng ta không cần phải nghe theo bản thân chúng ta” (trang 155).

Rõ ràng lập luận trên của Zajonc phù hợp trong một số tình huống nhưng một số trường hợp khác lập luận này chưa thuyết phục. Nếu hành vi người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng chi trả, nhiều người có thể rất thích xe đẹp, nhà đẹp. Nhưng khả năng và nguồn lực của họ có hạn do đó họ sẽ đánh giá khả năng mua, cân nhắc giữa sở thích và ngân sách, họ sẽ cảm thấy hài lòng, vui và hạnh phúc với chiếc xe sau khi đã được đắn đo, đánh giá phù hợp. Đây chính là luận điểm của Lazarus. Lazarus (1991) cho rằng khi một tình huống/ biến cố xảy ra, con người sẽ đánh giá tình huống/biến cố đó (quá trình đánh giá mang tính nhận thức). Những đánh giá này sẽ tác động tích cực/ tiêu cực đến các các trạng thái cảm xúc khác nhau như hạnh phúc, vui vẻ, hy vọng hay giận dữ, bức xúc và lo lắng.

Sự tranh luận giữa hai nhà tâm lý học trong số một trăm nhà tâm lý học ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20 được Plutchik (1985) ví von như cuộc tranh luận giữa quả trứng và con gà. Từ đó đã hình thành nên hai trường phái xung đột nhau, một trường phái theo Zajonc và nhóm còn lại theo Lazarus điển hình như Smith và Ellsworth (1985b); Oatley và Johnson-laird (1987); Ellsworth và Smith (1988); Scherer (1988); Roseman (1991).

Liên quan trực tiếp đến luận án này, Harmeling và cộng sự. (2015) mượn thuyết đánh giá mang tính nhận thức của cảm xúc để giải thích cho mối quan hệ giữa các biến trong mô hình mà nhóm tác giả đề xuất. Nhóm Harmeling đã sử dụng bối cảnh tranh chấp đảo Senkaku/ Điếu Ngư giữa hai quốc gia Nhật và TQ so sánh với xung đột chính trị giữa Nga và Mỹ. Nhóm Harmeling nhận định đây có thể là các biến cố phù hợp để kiểm định và mở rộng mô hình nghiên cứu liên quan khái niệm “sự ác cảm của người tiêu dùng” được đề xuất trước đó bởi Klein và cộng sự. (1998). Khi hai quốc gia xung đột (trong quá khứ/ hiện tại), người dân sẽ biểu hiện “sự ác cảm” của họ và sự ác cảm này có dẫn đến việc họ có (1) “đánh giá tiêu cực” chất lượng sản phẩm xuất xứ từ quốc gia bị ác cảm hay không? Và (2) sự ác cảm này có dẫn đến việc người dân từ chối mua hàng hóa nói chung có xuất xứ từ quốc gia bị ác cảm hay không?

Harmeling và cộng sự. (2015) cho rằng các tác giả trước đã gom chung thành phần nhận thức và cảm xúc trong cùng một khái niệm được gọi là “sự ác cảm của người tiêu dùng”. Việc gom chung này đã dẫn đến những kết quả thiếu nhất quán khi các nhà nghiên cứu trả lời cho các câu hỏi trên. Nhóm Harmeling nhận định rằng, trong bối cảnh tranh chấp quốc tế giữa hai quốc gia, nhận thức (sự đánh giá liên quan đến nhận thức) của người dân ở một quốc gia về các biến cố (kinh tế, chính trị, chiến tranh) này sẽ dẫn đến các phản ứng cảm xúc tiêu cực của họ. Suy diễn này phù hợp với lý thuyết của Lazarus đề cập ở trên. Các phản ứng cảm xúc khác nhau này sẽ dẫn đến các ý định, hành vi khác nhau.

các tâm lý tình cảm nghiên cứu cách cảm xúc biểu hiện ở con người. Họ làm điều này thông qua kích hoạt sinh lý, phản ứng hành vi và xử lý nhận thức:

  • Mỗi cảm xúc gây ra một mức độ kích hoạt sinh lý xác định. Sự kích hoạt này biểu hiện với những thay đổi trong hệ thống thần kinh tự trị (ANS) và trong hệ thần kinh.
  • các phản ứng hành vi Họ có xu hướng vận động, đặc biệt là cơ mặt được kích hoạt.
  • các xử lý nhận thức được thực hiện trước và sau khi cảm nhận cảm xúc, trước để đánh giá tình huống và sau đó nhận thức được trạng thái cảm xúc mà chúng ta đang có.
Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc

các cảm xúc chúng là các mô hình hành vi, nhận thức và sinh lý xảy ra trong một kích thích nhất định. Các mô hình này khác nhau ở mỗi loài và cho phép chúng tôi điều chỉnh phản ứng của mình tùy thuộc vào kích thích, bối cảnh và kinh nghiệm trước đây của chúng tôi.

Ví dụ, nếu chúng ta thấy ai đó khóc, chúng ta có thể cảm thấy cả cảm xúc tích cực và tiêu cực và hành động tương ứng. Tôi có thể khóc vì đau buồn hoặc niềm vui. trong trường hợp đầu tiên chúng ta sẽ cảm thấy một cảm xúc tiêu cực và chúng ta sẽ đến để an ủi anh ấy và trong lần thứ hai chúng ta sẽ cảm thấy một cảm xúc tích cực và chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc.

Ở con người, cảm xúc là đặc biệt, bởi vì chúng đi kèm với cảm xúc. Cảm xúc là những trải nghiệm riêng tư và chủ quan, chúng hoàn toàn là nhận thức và không đi kèm với các hành vi. Một cảm giác là, ví dụ, những gì chúng ta cảm thấy (tha thứ cho sự dư thừa) khi chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoặc nghe một bài hát.

Người ta tin rằng cảm xúc là đặc trưng cho con người vì chúng không hoàn thành chức năng thích nghi, vì cảm xúc không có trước một phản ứng hành vi đối với các kích thích. Do đó, người ta tin rằng trong quá trình tiến hóa phát sinh (tiến hóa của loài), những cảm xúc xuất hiện đầu tiên và sau đó là cảm xúc.

Một chức năng khác của cảm xúc là điều chỉnh bộ nhớ, vì cách chúng ta lưu trữ thông tin phụ thuộc rất nhiều vào cảm xúc mà chúng ta cảm nhận khi có được nó. Ví dụ, chúng tôi sẽ nhớ tốt hơn điện thoại của một người mà chúng tôi thích của một ngôi nhà cho thuê.

Cảm xúc được khơi gợi bởi các kích thích có liên quan, vì tầm quan trọng sinh học của chúng, vì đặc điểm thể chất của chúng hoặc vì kinh nghiệm trước đây của cá nhân. Ở người, cảm xúc có thể được kích hoạt ngay cả bằng suy nghĩ hoặc ký ức.

3 thành phần của phản ứng cảm xúc

Phản ứng cảm xúc bao gồm ba thành phần: cơ xương, thần kinh và nội tiết. Các thành phần này dẫn chúng ta đến trạng thái kích hoạt (kích thích) quyết tâm chuẩn bị cơ thể để đưa ra phản ứng thích nghi với tác nhân kích thích và truyền đạt cho các cá nhân xung quanh cảm xúc của chúng ta.

Thành phần cơ xương bao gồm các mẫu phản ứng hành vi thích ứng với từng tình huống. Ngoài việc đưa ra câu trả lời cho tác nhân kích thích, những mô hình này còn phục vụ để cung cấp thông tin cho người khác về trạng thái tâm trí của chúng ta.

Ví dụ, nếu một người lạ xâm nhập vào một âm mưu và có một con chó cho thấy răng của anh ta, người đó sẽ biết rằng con chó đã xác định anh ta là một kẻ xâm nhập và nếu anh ta đi sâu hơn, anh ta có thể tấn công anh ta.

Thành phần thần kinh bao gồm các phản ứng của SNA. Những phản ứng này kích hoạt các nguồn năng lượng cần thiết để thực hiện các hành vi phù hợp cho tình huống mà người đó đang ở.

Lấy ví dụ trước, nhánh thông cảm của SNA của con chó sẽ tăng kích hoạt để chuẩn bị hệ cơ, sẽ bắt đầu nếu cuối cùng nó phải tấn công kẻ xâm nhập.

Chức năng chính của thành phần nội tiết là củng cố các hoạt động của SNA, tiết ra các hormone làm tăng hoặc giảm kích hoạt hệ thống này theo yêu cầu của tình huống. Trong số các hormone khác, catecholamine, như adrenaline và noradrenaline, và hormone steroid thường được tiết ra.

Lý thuyết về cảm xúc

Lý thuyết của Darwin

Xuyên suốt lịch sử, nhiều tác giả đã phát triển lý thuyết và thí nghiệm để cố gắng giải thích cảm xúc hoạt động như thế nào.

Một trong những lý thuyết đầu tiên được mô tả về vấn đề này được bao gồm trong cuốn sách Biểu hiện của cảm xúc ở người và động vật (Darwin, 1872). Trong cuốn sách này, nhà tự nhiên học người Anh giải thích lý thuyết của mình về sự tiến hóa của sự biểu lộ cảm xúc.

Lý thuyết này dựa trên hai tiền đề:

  1. Cách mà các loài hiện đang thể hiện cảm xúc (cử chỉ khuôn mặt và cơ thể) đã phát triển từ những hành vi đơn giản cho thấy phản ứng thường mang lại cho cá nhân.
  2. Các phản ứng cảm xúc là thích ứng và thực hiện chức năng giao tiếp, để chúng phục vụ để giao tiếp với các cá nhân khác những gì chúng ta cảm thấy và những hành vi chúng ta sẽ thực hiện. Vì cảm xúc là kết quả của sự tiến hóa, chúng sẽ tiếp tục tiến hóa thích nghi với hoàn cảnh và sẽ chịu đựng theo thời gian.

Sau đó, hai nhà tâm lý học đã phát triển hai lý thuyết về cảm xúc một cách riêng biệt. Người đầu tiên là nhà tâm lý học người Mỹ William James (1884) và người thứ hai là nhà tâm lý học người Đan Mạch Carl Lange. Những lý thuyết này đã được kết hợp thành một và ngày nay nó được gọi là lý thuyết James-Lange.

Lý thuyết của James-Lange

các Lý thuyết James-Lange Nó xác định rằng, khi chúng ta nhận được một kích thích, nó được xử lý cảm giác đầu tiên ở vỏ giác quan, sau đó vỏ giác quan gửi thông tin đến vỏ não vận động để kích hoạt phản ứng hành vi, và cuối cùng, cảm giác của cảm xúc trở nên ý thức khi tất cả thông tin về phản ứng sinh lý của chúng ta đạt đến vùng vỏ não mới (xem hình 1).

Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc


Hình 1. Lý thuyết về James-Lange (sự thích nghi của Redolar, 2014).

Mặc dù có những nghiên cứu có kết quả ủng hộ lý thuyết về James-Lange, nhưng dường như nó vẫn chưa hoàn chỉnh, vì không thể giải thích được tại sao trong một số trường hợp tê liệt trong đó không thể đưa ra phản ứng sinh lý, mọi người vẫn cảm thấy xúc động. cùng cường độ.

Lý thuyết về Cannon-Bard

Năm 1920, nhà sinh lý học người Mỹ Walter Cannon đã tạo ra một lý thuyết mới để bác bỏ James-Lange, dựa trên các thí nghiệm được thực hiện bởi Philip Bard.

Các thí nghiệm của Bard bao gồm thực hiện các tổn thương tiến triển ở mèo, từ vỏ não đến vùng dưới vỏ não và nghiên cứu hành vi của chúng khi được kích thích bằng cảm xúc..

Bard phát hiện ra rằng, khi chấn thương xảy ra ở đồi thị, động vật bị giảm biểu hiện cảm xúc. Đổi lại, nếu các tổn thương được tạo ra ở vỏ não, chúng có phản ứng phóng đại với các kích thích, so với các câu trả lời được đưa ra trước khi tổn thương được tạo ra..

Vì lý thuyết được thực hiện dựa trên những thí nghiệm này, nó được gọi là lý thuyết Cannon-Bard. Theo lý thuyết này, ở nơi đầu tiên, thông tin về kích thích cảm xúc sẽ được xử lý ở vùng thalamic, là đồi thị là người chịu trách nhiệm bắt đầu các phản ứng cảm xúc.

Thông tin cảm giác được xử lý cũng sẽ đến vỏ não thông qua các con đường thalamic tăng dần và thông tin cảm xúc đã được xử lý sẽ đi đến vỏ não thông qua các con đường dưới đồi.

Trong vỏ não, tất cả các thông tin sẽ được tích hợp và cảm xúc sẽ trở nên ý thức (xem hình 2).

Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc

Hình 2. Lý thuyết về Cannon-Bard (sự thích nghi của Redolar, 2014).

Lý thuyết này khác chủ yếu với lý thuyết của James-Lange, ở chỗ, trong khi người đầu tiên lập luận rằng cảm giác có ý thức của cảm giác sẽ có trước khi kích hoạt sinh lý, trong lý thuyết thứ hai, cảm giác có ý thức của cảm xúc sẽ được cảm nhận cùng lúc với kích hoạt sinh lý.

Mạch cụ thể đầu tiên cho cảm xúc

Mạch cụ thể đầu tiên cho cảm xúc được Papez chuẩn bị vào năm 1937. 

Papez dựa trên đề xuất của ông về các quan sát lâm sàng được thực hiện cho bệnh nhân bị tổn thương ở thùy thái dương trung gian và trong các nghiên cứu với động vật với vùng dưới đồi bị thương. Theo tác giả này, một khi thông tin về kích thích đến đồi thị, nó được chia thành hai tuyến (xem Hình 3):

  1. Cách suy nghĩ: Đưa thông tin cảm giác của kích thích từ đồi thị đến vùng vỏ não mới.
  2. Con đường của cảm giác: đưa thông tin của kích thích đến vùng dưới đồi (cụ thể là các cơ quan mamillary) nơi các hệ thống vận động, thần kinh và nội tiết được kích hoạt. Sau đó, thông tin được gửi đến vỏ não, sau đó là hai chiều (vùng dưới đồi hoặc vỏ não).
Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc


Hình 3. Mạch Papez (thích ứng của Redolar, 2014).

Về nhận thức về các kích thích cảm xúc, Papez quy định rằng nó có thể được thực hiện theo hai cách (xem Hình 3):

  1. Kích hoạt con đường tư tưởng. Việc kích hoạt con đường này sẽ giải phóng những ký ức về những trải nghiệm trước đó trong đó có cùng một kích thích, thông tin về kích thích và những ký ức trước đó sẽ được gửi đến vỏ não, nơi thông tin sẽ được tích hợp và nhận thức về kích thích cảm xúc sẽ trở nên ý thức. để kích thích sẽ được cảm nhận dựa trên những ký ức.
  2. Kích hoạt đường dẫn của cảm giác. Theo cách này, con đường hai chiều từ vùng dưới đồi đến vỏ não chỉ đơn giản sẽ được kích hoạt, mà không tính đến các kinh nghiệm trước đó..

Trong thập kỷ tiếp theo, cụ thể là vào năm 1949, Paul MacLean đã mở rộng lý thuyết của Papez bằng cách tạo ra mạch MacLean. Điều này dựa trên các nghiên cứu được thực hiện bởi Heinrich Klüver và Paul Bucy với những con khỉ rakesus đã bị thương ở thùy thái dương.

MacLean rất coi trọng vai trò của hải mã với tư cách là người tích hợp thông tin cảm giác và sinh lý. Ngoài ra, tôi bao gồm trong mạch của nó các khu vực khác như amygdala hoặc vỏ não trước trán, sẽ được kết nối với hệ thống limbic (xem Hình 4).

Học thuyết nào nói về lý thuyết cảm xúc

Hình 4. Mạch MacLean (thích ứng của Redolar, 2014).

Các lý thuyết hiện tại về cảm xúc

Hiện tại có ba nhóm lý thuyết tâm lý khác biệt về cảm xúc: lý thuyết phân loại, chiều và đa thành phần.

Lý thuyết phân loại

các lý thuyết phân loại Họ cố gắng phân biệt những cảm xúc cơ bản với những cảm xúc phức tạp. Những cảm xúc cơ bản là bẩm sinh và được tìm thấy ở nhiều loài. Con người chia sẻ chúng, bất kể văn hóa hay xã hội của chúng ta.

Những cảm xúc này là lâu đời nhất, nói theo tiến hóa và một số cách thể hiện chúng là phổ biến ở một số loài. Biểu hiện của những cảm xúc này được thực hiện thông qua các mẫu phản ứng đơn giản (thần kinh, nội tiết và hành vi).

Những cảm xúc phức tạp có được, nghĩa là chúng được học và mô hình hóa thông qua xã hội và văn hóa. Nói một cách rõ ràng, chúng mới hơn những cảm xúc cơ bản và đặc biệt quan trọng ở con người vì chúng có thể được định hình bằng ngôn ngữ.

Chúng xuất hiện và tinh chế khi con người lớn lên và được thể hiện thông qua các mẫu phản ứng phức tạp thường kết hợp một số mẫu phản ứng đơn giản.

Lý thuyết chiều

các lý thuyết chiều Họ tập trung vào việc mô tả cảm xúc như một sự liên tục hơn là về tất cả hoặc không có gì. Nghĩa là, những lý thuyết này thiết lập một khoảng với hai trục (ví dụ: hóa trị dương hoặc âm) và bao gồm các cảm xúc trong phạm vi đó.

Hầu hết các lý thuyết hiện có đều coi các trục là hóa trị hoặc kích thích (cường độ kích hoạt).

Lý thuyết về nhiều thành phần

các lý thuyết của nhiều thành phần họ cho rằng cảm xúc không cố định, vì cùng một cảm xúc có thể được cảm nhận nhiều hay ít tùy thuộc vào các yếu tố nhất định.

Một trong những yếu tố đã được nghiên cứu nhiều hơn trong các lý thuyết này là đánh giá nhận thức về cảm xúc, đó là ý nghĩa chúng ta đưa ra cho các sự kiện.

Một số lý thuyết có thể được bao gồm trong các loại này là lý thuyết về Schachter-Singer hoặc lý thuyết về hai yếu tố cảm xúc (1962) và lý thuyết về Antonio Damasio được mô tả trong cuốn sách của ông Lỗi của Descartes (1994).

Lý thuyết đầu tiên có tầm quan trọng lớn đối với nhận thức tại thời điểm xây dựng và giải thích cảm xúc, vì họ nhận ra rằng cùng một cảm xúc có thể được trải nghiệm có các kích hoạt thần kinh khác nhau.

Về phần mình, Damasio cố gắng thiết lập mối quan hệ giữa cảm xúc và lý trí. Vì theo lý thuyết của ông về dấu hiệu soma, cảm xúc có thể giúp chúng ta đưa ra quyết định, thậm chí họ có thể thay thế lý do trong một số tình huống mà chúng ta phải đưa ra phản hồi nhanh hoặc không phải tất cả các biến đều được biết.

Ví dụ, nếu ai đó ở trong tình huống nguy hiểm, điều bình thường là không suy nghĩ và lý do phải làm gì, nếu không thể hiện cảm xúc, sợ hãi và hành động tương ứng (chạy trốn, tấn công hoặc bị tê liệt).

Tài liệu tham khảo

  1. Pháo, W. (1987). Lý thuyết cảm xúc của James-Lange: một bài kiểm tra quan trọng và một lý thuyết thay thế. Am J Psychol, 100, 567-586.
  2. Damasio, A. (1996). Giả thuyết thị trường soma và các chức năng có thể có của vỏ não trước trán. Philos Trans R Soc Lond B Biol Sci, 351, 1413-1420.
  3. Papez, J. (1995). Một cơ chế đề xuất của cảm xúc. J Neuropsychiatry Clinic Neurosci, 7, 103-112.
  4. Phân cực, D. (2014). Nguyên tắc của cảm xúc và nhận thức xã hội. Trong D. Redolar, Khoa học thần kinh nhận thức (trang 635-647). Madrid: Panamericana Y tế.
  5. Schachter, S., & Ca sĩ, J. (1962). Các yếu tố nhận thức, xã hội và sinh lý của trạng thái cảm xúc. Thần kinh Rev, 69, 379-399.

Sách giới thiệu

Damasio A. Lỗi của Descartes. Barcelona: Phê bình, 2006.