Lăng chủ tịch hồ chí minh có kiến trúc bao nhiêu tầng

Năm mươi năm đã trôi qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ra đi về cõi vĩnh hằng và cũng đã 46 năm kể từ ngày khởi công xây dựng công trình Lăng gìn giữ thi hài của Người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được mệnh danh là “công trình lòng dân”, bởi công trình này được xây dựng bằng những vật liệu quý do nhân dân tuyển chọn đưa về từ khắp mọi miền đất nước. Thanh Hóa là một trong những địa phương vinh dự được đóng góp nhiều vật liệu và cây trồng quý để xây dựng Lăng – nơi an nghỉ cuối cùng của vị Cha già dân tộc Hồ Chí Minh.

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, danh nhân văn hóa thế giới đi vào cõi vĩnh hằng, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bè bạn quốc tế. Thể theo nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định: “Với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây lăng mộ của Người”.

Thực hiện quyết định ấy, ngày 2-9-1973, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công trên nền đất cũ của lễ đài Quảng trường Ba Đình, nơi mà ngày 2-9-1945, trước toàn thể quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Công trình Lăng có chiều dài 320m, rộng 100m, cao 21,6m. Tường và các hàng cột của Lăng được ốp đá hoa cương, chính giữa tầng cao nhất có hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” ốp bằng đá đỏ màu mận chín. Quanh Lăng là một khuôn viên thoáng rộng, trồng nhiều loại cây và hoa được lựa chọn và đưa về từ nhiều vùng miền của Tổ quốc, biểu trưng cho tấm lòng thành kính, yêu thương của nhân dân Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng, từ miền Nam đến miền Bắc đối với Bác Hồ.

Từ điển bách khoa thế giới của Anh đã giới thiệu Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh như một mẫu kiến trúc độc đáo nhất thế giới, vì không nơi nào có một lăng tẩm được xây dựng bằng chính những vật liệu do nhân dân mọi miền đất nước tuyển chọn và đưa đến cho công trình.

Thanh Hóa là một trong những tỉnh vinh dự được góp phần không nhỏ vào việc xây dựng công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với lòng biết ơn vô hạn đối với Bác, khi được Trung ương giao nhiệm vụ, đồng bào các dân tộc tỉnh Thanh đã tích cực đóng góp tinh thần và vật chất cùng nhân dân cả nước xây dựng công trình Lăng.

Thiết kế kiến trúc của Lăng Bác sử dụng khá nhiều vật liệu đá, vì vậy Thanh Hóa đã lựa chọn hàng trăm khối đá quý đưa về thủ đô để xây Lăng. Tư liệu ghi lời kể của chính những người tham gia làm công trình Lăng cho biết: Đá ốp tường của Lăng là loại đá đen lấy từ núi Nhồi, huyện Đông Sơn, đá ốp cột lấy từ núi Bền, huyện Vĩnh Lộc. Riêng hai lá cờ Đảng và cờ Tổ quốc nơi đặt linh cữu Bác, nền cờ đỏ được làm bằng đá Hồng Bảo Ngọc, được phát hiện tại Điền Lư, huyện Bá Thước; hình ngôi sao và biểu tượng búa liềm được làm bằng loại đá vàng lấy từ xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy. Để có đủ lượng đá làm 2 lá cờ, ngày đó, huyện Bá Thước đã tuyển chọn hàng ngàn đoàn viên, thanh niên ưu tú và dân quân, bộ đội đi tìm kiếm trong phạm vi mấy ki lô mét vuông, nhặt từng viên đá đỏ có tên gọi Hồng Bảo Ngọc, tổng cộng được gần 20 mét khối đá nguyên liệu. Thời đó, để xẻ những viên đá đỏ ra thành từng lát mỏng cỡ 6-7 mm là một kỹ thuật rất khó khăn. Đích thân đồng chí Đỗ Mười - lúc đó là Phó Thủ tướng, trưởng ban chỉ đạo xây dựng Lăng Bác đã chỉ đạo cho Nhà máy Cơ khí Sông Chu (Thanh Hóa) chế tạo cấp tốc một loại máy cưa để cưa đá. Gần 1 vạn miếng đá đỏ sau khi sơ chế chỉ chọn được 4.000 miếng để ghép thành 2 lá cờ trong Lăng Bác.

Chúng tôi đã tìm đến cụ Trương Phúc Chủ ở làng Duồng, xã Điền Hạ, huyện Bá Thước, người được giao công việc tổ chức cho nhân dân trong vùng tìm những viên đá đỏ làm nên bức Hồng kỳ trong Lăng Bác. Cụ cho biết lúc ấy bà con rất tích cực tìm kiếm đá, vì được dâng lên Bác những món quà tinh túy nhất của quê hương, đó là hành động thể hiện tình cảm thiêng liêng mà mỗi người dân, mỗi địa phương đều mong muốn được làm để bày tỏ tấm lòng đối với Bác. Hàng chục công nhân của Công ty Xây dựng 1 Thanh Hóa lúc bấy giờ đã được cử đi xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giờ đây khi nhắc lại, họ vẫn thấy vô cùng vinh dự và tự hào khi được góp sức để kiến tạo nên nơi an nghỉ cuối cùng của Người.

Kể từ khi Bác Hồ kính yêu về cõi vĩnh hằng, hàng ngàn loại cây quý trên khắp đất nước đã được các địa phương đem về trồng trong khu tưởng niệm Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch. Không chỉ dâng tặng các loại đá làm công trình lăng, Thanh Hóa còn đóng góp 5.000 khóm hoa mẫu đơn lấy từ huyện Hà Trung, 100 khóm luồng lấy từ các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh để đưa ra trồng quanh Lăng Bác.

Từ hơn chục năm trước, chúng tôi cũng đã tìm gặp những người thực hiện nhiệm vụ đặc biệt thay mặt cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa tổ chức việc đưa cây trồng ra Lăng Bác hồi ấy. Ông Thiều Sỹ Tước, là một cán bộ của ngành lâm nghiệp Thanh Hóa, lúc bấy giờ được giao nhiệm vụ triển khai ươm trồng các loại cây đủ số lượng và chất lượng theo yêu cầu và đảm bảo tiến độ để đưa ra Lăng Bác. Ông đã đến các lâm trường ở Hà Trung và Ngọc Lặc để tổ chức việc ươm trồng, tuyển chọn hai giống mẫu đơn và luồng, hai loại cây đặc trưng của Thanh Hóa, biểu đạt lòng thành kính, tri ân của đồng bào xứ Thanh từ miền núi đến miền xuôi đối với Bác. Còn ông Lê Quang Mưu, nguyên Thư ký Ủy ban hành chính tỉnh và ông Trịnh Ngọc Tích, một cán bộ của ngành lâm nghiệp Thanh Hóa, là hai trong số những người có mặt trong đoàn công tác đặc biệt đưa cây trồng ra Lăng Bác ngay trong thời điểm công trình còn đang được xây dựng. Ông Mưu được Thường trực Ủy ban hành chính tỉnh giao nhiệm vụ tổ chức triển khai việc ươm trồng và đưa cây ra Lăng. Ông Mưu cho biết: “Nhận nhiệm vụ đó, tôi rất phấn khởi, hăng hái. Tôi thường xuyên kiểm tra việc ươm trồng cây, gặp gỡ trao đổi với cán bộ ngành lâm nghiệp để triển khai nhiệm vụ chu đáo. Cán bộ ngành lâm nghiệp rất nhiệt tình, về tận trạm nghiên cứu luồng, lựa chọn giống, giám sát kỹ thuật ươm trồng đảm bảo cây sống tốt”. Ông Lê Quang Mưu và vợ mình là bà Lê Thị Hạt còn có một vinh dự lớn: Họ là những công dân đầu tiên của cả nước được đặc cách ra thăm Lăng Bác Hồ ngay sau khi khánh thành.

Rặng luồng Thanh Hóa bên Lăng Bác.

Ông Trịnh Ngọc Tích được ngành lâm nghiệp tỉnh giao nhiệm vụ chụp những bức ảnh tư liệu về quá trình tổ chức lễ đưa cây từ Thanh Hóa ra Lăng Bác. Ông đã chụp được một bộ ảnh ghi lại chi tiết lễ bàn giao cây trồng, cảnh vận chuyển cây lên xe, đoàn xe qua cầu Hàm Rồng. Ra đến Lăng Bác, cả đoàn chụp những bức ảnh kỷ niệm cùng với công trình Lăng đang xây. Ông nghĩ cần lưu lại những khoảnh khắc ấy để làm tư liệu, giúp đồng bào cả nước biết được tấm lòng của đồng bào Thanh Hóa đối với Bác. Vì vậy, suốt hơn 40 năm, ông Tích đã lưu giữ những bức ảnh tư liệu ấy và sau đó hiến tặng cho Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.

Ngày nay, muôn dân đất Việt cũng như bạn bè khắp năm châu đến viếng Bác, sẽ được chiêm ngưỡng một “công trình lòng dân” đứng trang nghiêm giữa vườn cây đầy hương sắc. “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ”, để tưởng niệm một con người vĩ đại, để nhắc nhở lòng mình hãy sống xứng đáng với sự hy sinh cao cả của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh vì độc lập tự do cho Tổ quốc.

Mai Anh

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước, quê hương có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Ngay từ nhỏ, Người đã được hấp thụ tinh thần yêu nước bất khuất của phong trào đấu tranh chống Pháp, Người thấu hiểu được nỗi thống khổ của người dân mất nước, không cam chịu để dân tộc mình sống cuộc đời nô lệ, lầm than dưới ách đô hộ của chế độ thực dân, phong kiến. Tình cảm yêu quê hương đất nước, căm thù giặc sâu sắc đã hun đúc lên hoài bão lớn lao của Người. Vượt khỏi tầm nhìn của những nhà yêu nước đương thời, năm 1911, Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Bằng thiên tài trí tuệ, lòng yêu nước thương dân mãnh liệt, ý chí gang thép, đạo đức vô song Hồ Chí Minh đã đáp ứng yêu cầu lịch sử. Sau 10 năm bôn ba, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn, đó là “con đường Cách mạng vô sản”. Hơn hai phần ba thế kỷ qua, cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đưa Việt Nam từ một dân tộc bị đô hộ, lên hàng các dân tộc cách mạng tiên phong trên thế giới, đã chứng minh tính khoa học, tính sáng tạo vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng là một tổn thất vô cùng lớn lao, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và bầu bạn quốc tế, nhất là đồng bào, chiến sỹ miền Nam đang ngày, đêm tranh đấu giành độc lập, tự do để mong sớm đón Bác vào thăm.

Sinh thời, Ng­ười không muốn một sự tôn thờ, sùng bái cá nhân nào. Tr­ước lúc đi xa, trong Di chúc, Ng­ười còn căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”[1]. Như­ng trong tâm khảm mỗi ng­ười dân Việt Nam, Bác Hồ là người Anh hùng giải phóng dân tộc, một “Thánh nhân” của đất n­ước. Sau khi Bác qua đời, trong khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt, nhân dân Cà Mau, Trà Vinh và rất nhiều nơi khác đã lập đền thờ Ng­ười và quyết tâm chống trả mọi sự phá hoại của Mỹ, Ngụy. Đồng bào ta từ Bắc chí Nam, đã tự nguyện lập bàn thờ Bác ngay trong gia đình. Tất cả những việc làm đó, đều xuất phát từ tình cảm biết ơn, ghi nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam.

Thấu hiểu sâu sắc và thể theo nguyện vọng rất thiết tha của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, Bộ Chính trị Trung ­ương Đảng đã quyết định: “Với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng của Người”.[2]

Việc thiết kế và chuẩn bị thi công xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiến hành khẩn trương ngay từ đầu năm 1970. Yêu cầu cao nhất đối với việc xây dựng Lăng là phải giữ gìn nguyên vẹn, lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, tránh được mọi ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, đồng thời đảm bảo sức khoẻ và đi lại thuận tiện của nhân dân khi đến viếng Bác. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh phải hiện đại, có cấu trúc hài hoà, mỹ thuật, có phong cách dân tộc, trang nghiêm mà giản dị.

Đông đảo kiến trúc sư, kỹ sư và cán bộ ở nhiều cơ quan thiết kế các ngành và quân đội… đã đem hết khả năng và trí tuệ của mình để nghiên cứu phương án thiết kế Lăng. Trong một thời gian ngắn, Ban Tổ chức cuộc thi đã nhận được hơn 200 phương án thiết kế của 16 đơn vị, ngành và cá nhân gửi dự thi; 24 phương án có nhiều ưu điểm nhất đã được sơ tuyển và trưng bày. Ban Tổ chức đã trưng bày, lấy ý kiến cùng một lúc tại 5 địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La và Nghệ An. Cuộc trưng bày ở 5 địa điểm trên đã thu hút 745.487 lượt người đến tham quan và có hơn 34 ngàn ý kiến tham gia. Nhiều ý kiến của các kiến trúc sư, nhà văn hoá, các bậc lão thành cách mạng, đồng bào và tầng lớp nhân dân ở hai miền Nam – Bắc, kiều bào Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã gửi về đóng góp và bổ sung cho các phương án thiết kế.

Tháng 4 năm 1971, trên cơ sở thiết kế của các chuyên gia Liên Xô và phương án thiết kế của ta, kết hợp với sự tham gia góp ý của đông đảo các tầng lớp nhân dân, Bộ Chính trị – Trung ương Đảng đã quyết định chọn phương án thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là phương án của sự kết hợp nhiều phương án tổng hợp lại: Khối chính của Lăng đặt trên bệ tam cấp gần gũi, thân thuộc phong cách kiến trúc Việt Nam; thân Lăng gợi hình dáng ngôi nhà 5 gian giản dị; mái Lăng có hình vát, gợi lên đường nét kiến trúc cổ kính đình làng, nơi hội tụ của mỗi tâm hồn quê hương Việt Nam.

Sau những lần phải trì hoãn do chiến tranh, ngày 2 tháng 9 năm 1973, công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khởi công xây dựng tại Quảng trường Ba Đình – nơi Người đã đọc bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam Á, đồng chí Đỗ Mười, Phó Thủ tướng Chính phủ được cử là Trưởng ban xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ Quốc phòng và Bộ Kiến trúc được giao là lực lượng chủ công, nòng cốt trong quá trình tổ chức thi công. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đã cử những chuyên gia giỏi sang Việt Nam giúp đỡ ta xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi việc giúp đỡ Việt Nam là nghĩa vụ, tình cảm quốc tế cao cả của những người cộng sản.

Ngày 29/8/1975, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành giữa Ba Đình lịch sử. Từ Quảng trường Ba Đình nhìn lên, Lăng Bác uy nghi mà giản dị, toàn bộ khối Lăng mang hình dáng cách điệu của một đài sen, được chia thành 3 phần: Mái, cột và nền. Mái và các cột bằng đá hoa cương màu xám bạc, chịu được nắng, mưa và khí hậu khắc nghiệt của miền nhiệt đới. Nền Lăng cấu trúc tam cấp được ốp bằng đá hoa cương màu xám đen. Sự khác nhau giữa hai màu đá tôn dáng của Lăng thêm vững chắc. Phía trong hàng cột là thân Lăng, đó là phòng đặt thi hài Bác, toàn bộ mặt ngoài được ốp đá hoa cương màu đỏ sẫm. Mái Lăng được xếp tam cấp, bốn góc chếch đầu đao, có dáng dấp như mái chùa cổ kính tôn nghiêm mà quen thuộc.

Công trình Lăng với dòng chữ: “CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH” trên mái Lăng được ghép bằng đá ngọc ở vùng Cao Bằng, cửa chính của Lăng được ốp bằng đá ngọc bích, các bậc cầu thang được lát bằng đá hoa cương, tất cả tường và cột phía trong được ốp bằng đá cẩm thạch. Riêng tường chính tiền sảnh ốp đá hoa cương vân đỏ hồng tương, làm nền cho dòng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chữ ký của Bác, dòng chữ và chữ ký được mạ vàng sáng nổi lên rực rỡ – đây cũng chính là ước nguyện, là khát vọng và là tư tưởng xuyên suốt của Bác từ khi rời Bến cảng Sài Gòn đi tìm đường cứu nước đến khi là vị Chủ tịch Nước, cả một đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc.

Phòng Bác yên nghỉ được ốp bằng đá cẩm thạch Hà Tây, Bác nằm đầu hướng về bức tường có lá cờ Tổ quốc và cờ Đảng. Cờ Đảng bên trái, cờ Tổ quốc bên phải, dài 5,9m, rộng 2,5m, ghép bằng 4.000 miếng đá hồng ngọc Thanh Hóa màu đỏ thắm, ngôi sao vàng năm cánh và búa liềm ghép bằng đá cẩm vân màu vàng sáng.

Góp phần vào hoàn thiện công trình Lăng Bác là những khối gỗ quý của đồng bào Nam Bộ, được các nghệ nhân tài hoa từ các tỉnh Nghệ An, Nam Hà, Hà Bắc xẻ bằng tay, với những kỹ thuật tinh xảo đóng thành 200 bộ cánh cửa. Cửa ra lễ đài được ốp đá, những cửa tiếp giáp với nắng được quét nhựa chống nứt. Ngoài đồ gỗ, trong Lăng còn dùng các kim loại để trang trí như nhôm làm trần, đồng làm tay vịn, lưới gió…Mỗi vật liệu đưa vào trang trí đều được Hội đồng thẩm định chất lượng kiểm tra thử nghiệm chặt chẽ.

Lễ đài chính dùng cho những cuộc diễu binh, duyệt binh lớn của cả nước được xây dựng gắn với Lăng, phía trên cửa chính của Lăng, so với phòng Bác nằm thấp hơn. Hai bên là hai lễ đài, đặt thẳng hàng với lễ đài chính tạo sự cân đối cho cả khối công trình.

Trước cửa Lăng có hai cây Đại, tượng trưng cho sự thanh khiết, thiêng liêng, trường tồn, do các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trồng khi khánh thành Lăng Bác, mỗi bên lễ đài trái, phải trồng 9 cây vạn tuế như hàng tiêu binh đứng trang nghiêm ngày đêm giữ yên giấc ngủ của Người.

Phía sau Lăng, ở hai bên là bức tường lưu niệm ốp bằng đá hoa cương đỏ, sau tường trồng 19 cây ngọc lan, hoàng lan tỏa hương thơm ngát, trước tường có 8 ô vuông trồng hoa hồng bốn mùa xanh tốt.

Phía trước Lăng là đường Hùng Vương và Quảng trường Ba Đình. Đường Hùng Vương dài hơn 1.000m. Phía trước, cách Lăng 49m là cột cờ với chiều cao 25m. Kể từ ngày 19/5/2001, nhân kỷ niệm 111 năm ngày sinh của Người, được phép của Thủ tướng Chính phủ, hàng năm 365 ngày đều đặn, không kể mưa hay nắng, nghi lễ chào cờ hàng ngày đã được tiến hành trọng thể, trang nghiêm trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tôn thêm giá trị văn hoá, tinh thần và ý nghĩa chính trị của công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thảm cỏ thiên nhiên trên Quảng trường Ba Đình dài 320m, rộng 100m, chia thành 240 ô cỏ xanh tươi là hình tượng những chiếc chiếu trải trên sân đình ở các làng quê Việt Nam xưa, giữa các ô có đường đi lại, rộng 1,4m được lát bằng những tấm bê tông sỏi nổi. Những viên sỏi mà các em học sinh của tỉnh miền núi phía Bắc nhặt từ lòng suối, rửa sạch sẽ để lát quanh Lăng và Quảng trường Ba Đình. Dưới các thảm cỏ của Quảng trường có các tầng lọc nước, mạng ống và mương ngầm, đi đôi với hệ thống thoát nước, có hệ thống cấp nước. Hệ thống cấp nước phục vụ cho các nhu cầu cần thiết của hệ thống kỹ thuật. Phía Bắc giáp đường Phan Đình Phùng, phía Nam giáp đường Trần Phú, phía Tây của Quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chủ tịch – Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn là nơi ở của Người, ao cá, vườn cây, rặng dừa, những hàng rào dâm bụt… Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam.

Trên mảnh đất Ba Đình lịch sử này – nơi Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà – nơi Bác đã ở và làm việc 15 năm cuối cùng của cuộc đời vì nước, vì dân. Bên cạnh công trình Lăng còn có Bảo tàng Hồ Chí Minh và Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, tạo nên một quần thể thống nhất Cụm Di tích lịch sử – văn hoá Ba Đình. Mặc dù chức năng, nhiệm vụ tổ chức khác nhau, nhưng có một điểm chung tổ chức đón tiếp, tuyên truyền. Ngày 16/6/1999 Thường vụ Bộ Chính trị đã ra thông báo số 224/TB-TW về tổ chức việc quản lý và các hoạt động của Cụm di tích lịch sử – văn hoá khu Ba Đình, ngày 25/2/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 28/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo phối hợp hoạt động Cụm Di tích lịch sử – văn hoá Ba Đình.

Hàng năm, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, hoa Mai vàng như thay cho lời chúc mừng năm mới của Đảng bộ, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và nhân dân Nam bộ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đáp lại tình cảm đó, hàng năm Ban Quản lý Lăng đã gửi tặng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và nhân dân Nam bộ sắc đỏ hoa đào thay lời cảm ơn và chúc mừng năm mới may mắn, tốt lành. Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội vẫn luôn có sắc thắm đỏ hoa đào, sắc vàng hoa mai như tượng trưng cho mối gắn kết keo sơn, tình nghĩa anh em ruột thịt của nhân dân hai miền Nam – Bắc. Và hơn thế nữa là tấm lòng thuỷ chung, đồng sức đồng lòng cùng hướng về Thủ đô, về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quảng trường Ba Đình lịch sử – nơi hội tụ tinh hoa của cả dân tộc, biểu tượng cho tinh thần đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân và quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh h»ng mong muốn.

Quyết định đúng đắn và sáng suốt của Bộ Chính trị đối với việc giữ gìn lâu dài thi hài Bác, xây dựng công trình Lăng của Người không những là quyết định hợp lòng dân mà còn là thể hiện một tư tưởng chính trị: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi nhân dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác đến chiêm ngưỡng để tỏ lòng biết ơn Hồ Chủ tịch, quyết tâm đi theo con đường cách mạng do Người vạch ra và kế tục sự nghiệp cách mạng của Người. Công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là biểu tượng tập trung nhất của ý chí chiến đấu quật cường vì độc lập dân tộc – “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, và là biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là tư tưởng lớn nhất, sâu sắc nhất, xuyên suốt nhất, làm nổi bật ý nghĩa chính trị tư tưởng của một công trình đặc biệt, và là tư tưởng chỉ đạo mọi hoạt động của công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày nối ngày, dòng người vẫn nối dài tưởng như bất tận để được vào Lăng viếng Bác, từ cụ già đến các cháu thiếu nhi, từ người dân bình thường đến cán bộ, công chức Nhà nước, tuy mỗi người có tâm trạng khác nhau nhưng khi về bên Bác đều thấy thanh thản, bình yên. Tính đến nay có hơn 40 triệu lượt người, trong đó có hơn 7 triệu lượt khách nước ngoài của hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng của Người, trở thành nơi hội tụ tình cảm, niềm tin của các thế hệ người Việt Nam đối với Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của Việt Nam. Đây còn là một điểm đến hấp dẫn của mỗi người nước ngoài khi tới Việt Nam. Nhiều người nước ngoài khi đến Việt Nam, đứng trước Lăng của Người đã từng thốt lên:“ Hiếm có Lãnh tụ nào trên thế giới được nhân dân mến mộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh”; “Lúc này chỉ cần nhìn vào dòng người đi viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể thấy được đất nước của các bạn ổn định, yên bình như thế nào”.

Những năm gần đây, nhờ thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế trong nước có sự tăng trưởng, hệ thống giao thông được mở mang, đời sống nhân dân được cải thiện, điều kiện đi lại của dân được thuận lợi hơn, nhưng không phải là điều quyết định, mà chính là do tình cảm, nguyện vọng tha thiết của nhân dân mong muốn được về bên Người. Đó chính là sự thành kính, lòng biết ơn vô hạn đối với Bác, nguyện trung thành, mãi mãi đi theo con đường mà Bác đã lựa chọn. Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói: “Chúng ta thật hạnh phúc vì có Bác, được thấy Bác nằm yên nghỉ trong Lăng giữa Ba Đình, như tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta vượt qua những khó khăn, xây dựng đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn như điều Bác hằng mong muốn”.

Ở Lăng Bác, ngoài việc tổ chức lễ viếng hàng ngày, còn diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của Đảng, Nhà nước; nơi tổ chức các buổi mít tinh, diễu binh, diễu hành mừng các ngày lễ lớn của đất nước, dân tộc; nơi thường xuyên tổ chức các sinh hoạt chính trị, văn hoá, nghệ thuật, báo công, giao ước thi đua, kết nạp Đảng, kết nạp Đoàn, kết nạp Đội… nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tình cảm kính yêu, biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và là nơi hun đúc chí khí cách mạng của các thế hệ người Việt Nam. Những năm gần đây, một số loại hình sinh hoạt chính trị mới như đặt hoa trư­ớc ngày cư­ới của nam nữ thanh niên, lễ tuyên thệ trư­ớc khi nhận nhiệm vụ mới, khai giảng năm học mới của các trư­ờng phổ thông, đặc biệt từ ngày 19/5/2001, được phép của Thủ tướng Chính phủ, nghi lễ chào cờ hàng ngày đã được tiến hành trọng thể, trang nghiêm trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy tốt tác dụng giáo dục truyền thống. Biểu tượng của Tổ quốc với hình ảnh của Lãnh tụ được hoà quyện vào nhau càng tôn thêm giá trị văn hoá, tinh thần và ý nghĩa chính trị của công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Là một công trình có ý nghĩa lịch sử, chính trị và văn hóa to lớn, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ trường tồn mãi cùng đất nước Việt Nam, là trái tim của trái tim Việt Nam, là nơi hội tụ những tinh hoa về kiến trúc và không gian văn hóa của Thủ đô Hà Nội – mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Là công trình trung tâm trong Cụm Di tích Lịch sử – Văn hoá Ba Đình, Lăng Bác đã trở thành địa chỉ hướng đến đầu tiên của du khách mỗi khi tới Thủ đô Hà Nội, là nơi hội tụ tình cảm và niềm tin của nhân dân cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và khách quốc tế đến Việt Nam.

Với công lao to lớn của Người, với tư tưởng đạo đức cách mạng và nhân cách trong sáng của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là một con người vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam anh hùng. Tấm gương hy sinh cả cuộc đời vì dân, vì nước; tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người luôn cổ vũ, động viên các thế hệ người Việt Nam vững bước đi theo con đường mà Người và dân tộc đã lựa chọn. Giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát huy ý nghĩa chính trị, văn hoá của Công trình Lăng trong giai đoạn mới là góp phần giữ gìn tư tưởng, đạo đức, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là giữ gìn một di sản vô giá của dân tộc và toàn nhân loại.

_________________________

[1] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội – 1989 trang 50.
[2] Nghị quyết BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 29/11/1969.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Cương Trưởng ban Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng

Video liên quan

Chủ đề