Lẽ sống ân nghĩa thủy chung là gì

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy. Với những bài văn mẫu ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé!

Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy - Bài mẫu 1

Lẽ sống ân nghĩa thủy chung là gì

Người xưa có câu: Thi ngôn chí. Tức nghĩa: Thơ để nói lên cái chí ở đời. Chí ở đây không chỉ là chí hướng, nguyện vọng của con người khi đạt tới cái gì đó. Mà chí còn là những quan niệm , tư tưởng, nhân sinh quan và thế giới quan mà người nghệ sĩ mang trong lòng. Tác phẩm nghệ thuật bởi vậy không chỉ là tiếng thì thầm, lời nhắn nhủ mà còn là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm, quan niệm về cuộc sống và con người mà tác giả muốn truyền đạt tới bạn đọc. Và qua bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã để những tình cảm, cảm xúc và tư tưởng của mình kết tinh thành những giọt ngọc của thời đại thấm sâu vào hồn trí người đọc và gợi nhắc, củng cố họ thái độ sống Uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với quá khứ nghĩa tình.

Bài thơ được Nguyễn Duy một nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước viết trong một hoàn cảnh khá đặc biệt: năm 1978, tức ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng mở đầu bài thơ là những kí ức ngày thơ ấu:

Hồi nhỏ sông với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Bài thơ mở đầu bằng kí ức tuổi thơ và quá trình trưởng thành của con người bằng một từ hồi và ba lần từ với, không gian được mở rộng dần từ đồng đến sông rồi đến bể. Tuổi thơ đi nhiều cũng có vầng trăng, ánh trăng soi rọi làm tăng thêm vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên và như nhân lên nhiều lần niềm hạnh phúc của trẻ thơ. Nhưng, phải đến thời chiến tranh, nơi chiến trường ác liệt, vầng trăng mới trở thành người bạn tri kỉ của con người. Người chiến sĩ đứng gác giữa Rừng hoang sương muối đã có đầu súng trăng treo (Chính Hữu), ngủ dưới ánh trăng đã có gối khuya ngon giấc/ bên sông trăng nhòm ( Hồ Chí Minh). Tình bạn tri kỉ giữa người và trăng là tình bạn hồn nhiên, chân thật như cỏ cây, bền vững như đất trời. Con người gắn bó với vầng trăng và đinh ninh một lời hứa không bao giờ bội bạc. Ấy thế mà, cứ ngỡ như tình bạn ấy không thể phai nhạt, nhưng hoàn cảnh sống thay đổi, thì lòng người cũng dễ đổi thay:

Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Từ cuộc sống hồn nhiên như cây cỏ lúc thiếu thời hay cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nơi rừng núi, con người về sống nơi thành thị tiện nghi đầy đủ, lắm ánh điện, cửa gương , vầng trăng đâu còn thân thiết với con người nữa! Vầng trăng tri kỉ, vầng trăng nghĩa tình đã bị con người lãng quên. Trăng được nhân hóa là người bạn nghĩa tình, từ rừng núi về thị thành thăm lại cố nhân. Nhưng bây giờ, ngừơi ấy lại xem trăng là người dưng. Phép so sánh như người dưng qua đường gợi trong lòng người đọc biết bao sự xót xa. Tôi bỗng nhói lòng nhớ về những câu thơ của Vũ Đình Liên trong bài thơ Ông đồ:

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Có lẽ, chóng quên là căn bệnh khó chữa của người đời ! Giọng thơ thầm thì, giãi bày tâm sự, nhà thơ như đang tự nói với chính mình. Nhưng lại thấm thía người nghe về một biểu hiện của nhân tình thế thái chóng đổi thay ! Nhưng trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc bất thường ở khổ bốn chính là bước ngoặt, mà từ đó, tác giả bộc lộ cảm xúc chủ đạo của tác phẩm:

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn.

Nơi thành phố lắm ánh điện, cửa gương, người ta chẳng mấy lúc cần và cũng ít khi chú ý đến ánh trăng. Nhưng cuộc đời của con người đâu cứ mãi êm xuôi, đèn điện rồi cũng có lúc đột ngột tắt, cửa gương rồi cũng phải mở ra để đón lấy khí trời trong những đêm hè ngột ngạt. Lúc ấy, con người đột ngột gặp lại vầng trăng tròn. Bốn câu thơ với các từ : thình lình, vội, đột ngột đầy biểu cảm, thể hiện sự thay đổi bất ngờ, nhanh chóng của hoàn cảnh và sự ứng phó của con người với những hành động khẩn trương. Ấy nhưng, cái đột ngột không phải sự xuất hiện của vầng trăng mà là sự phát hiện của con người. Trăng vẫn thế, tròn đầy từ ngày chiến tranh, tròn đầy từ ngày người về thành thị và tròn đầy ngoài khung cửa sổ, chờ đợi con người. Lúc ấy, con người mới giật mình sám hối:

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

Đến cuối bài thơ, từ giật mình mới xuất hiện, nhưng nếu ngẫm kĩ, ta thấy lúc đột ngột nhìn thấy vầng trăng tròn ngoài cửa sổ, con người đã giật mình rồi. Từ ngửa được dùng thật hay, không phải là ngẩng mặt hay ngước mặt, mà là ngửa mặt, là phơi bày toàn bộ gương mặt mình hôm nay để đối diện với mặt trăng tri kỉ thuở xưa. Trăng chẳng hề nói năng, chẳng hề trách mắng nhưng cái tâm thế lặng im, ngửa mặt lên có phần thành kính của con người lại bộc lộ một cảm xúc tha thiến đến nao lòng. Cái giây phút ấy, cả quá khứ như chợt sống dậy, cả tuổi thơ rong chơi trên đồng, trên sông, trên bể với trăng, cả thời chiến tranh gian lao, vất vả ở rừng có trăng bầu bạn, tất cả như hiện về trong nỗi nhớ, trong nỗi xúc động xen lẫn xót xa và ân hận. Với biện pháp tu từ so sánh cùng với phép điệp từ và điệp cấu trúc tinh tế, khéo léo đã làm hai câu thơ cuối khổ song hành, làm bật lên cái cảm giác xốn xang, day dứt của con người đang sám hối để tự hoàn thiện, tự vươn lên và hướng tâm hồn mình ra thứ ánh sáng đẹp đẽ của trăng. Cảm xúc chân thành và giọng thơ đầy tâm sự đã giúp cho đoạn thơ vào lòng người một cách nhẹ nhàng và thấm thía:

Trăng cứ trong vành vạch

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.

Bài thơ kết thúc bằng một khổ thơ mang hàm nghĩa sâu xa, độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, đẹp đẽ, hơn thế, còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống. Nó cứ tròn vành vạnh như quá khứ thủy chung, nguyên vẹn, đẹp đẽ chẳng phai mờ. Vầng trăng ấy không hề trách móc những kẻ vô tình. Là biểu tượng của tấm lòng bao dung, độ lượng, của quá khứ nghĩa tình không so đo tính toán thiệt hơn. Nhưng ánh nhìn im phăng phắc của vầng trăng hay chính là ánh nhìn nghiêm khắc của lương tâm, mà để cho người bạn ngày xưa giật mình xem lại thái độ sống cũng như tình cảm, thái độ của mình ? Dù không trách móc cũng đủ để nhà thơ và chúng ta giật mình, nhìn lại chính bản thân và đánh giá lại thái độ sống của mình! Và cái tinh tế của Nguyễn Duy là ở chỗ, nếu như ở những khổ thơ trên, chủ thể trữ tình ẩn nấp, giấu mình đi thì lúc này, cái giật mình này không còn của riêng ai nữa, mà là của ta, ta ở đây là nhà thơ và cũng là tôi, là bạn, là tất cả mọi người. Sự xuất hiện ấy không hề gượng gạo, giả dối mà lại vô cùng tự nhiên, đó như là một lời nhắn gửi, một lời khuyên nhỏ nhẹ, không hô hào, không khoa trương mà lại thấm sâu vào trong tình cảm, suy nghĩ của mỗi người !

Bài thơ mang dáng dấp của một câu chuyện nhỏ, được kể theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại và xuyên suốt khoảng thời gian cũng như bài thơ là hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng, được xem như là niềm thôi thúc của tác giả nhớ về cội nguồn và ý thức trước lẽ sống thủy chung uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta hàng ngàn đời truyền lại. Và từ câu chuyện riêng của nhà thơ Nguyễn Duy, bài thơ cất lên lời nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, vất vả, đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, nghĩa tình. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa với riêng thế hệ từng trải qua trong chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên nay sống trong hòa bình dễ lãng quên quá khứ. Bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề là thái độ sống với quá khứ, với những người đã khuất và với cả chính mình. Ánh trăng với thể thơ năm chữ kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, kết hợp với giọng điệu thơ tâm tình, khi ngân nga, thiết tha khi lại trầm buồn, sâu lắng đã góp phần lớn vào việc làm nổi bật ý nghĩa của cả bài thơ, khiến bài thơ khắc sâu và hồn trí người đọc.

Trở lại với cuộc sống ngày hôm nay, trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mưu toan, của nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền mà vô tình quên đi những ân tình, những kỉ niệm của quá khứ. Con người cứ thờ ơ và vô cảm. Biết trách ai đây? Trách cuộc sống phát triển quá nhanh? Hay trách con người quá tiến bộ? Chẳng ai biết, cuộc sống quá mức bận rộn, con người chẳng lấy đâu ra thời gian mà giật mình, mà sống thủy chung được nữa! Nhưng xin đừng quên rằng: Những thứ chúng ta có được ngày hôm nay, đều là từ ngày hôm qua cả, nếu chúng ta không biết trân trọng và giữ gìn thì đừng hối hận hay luyến tiếc, nếu sau này ta mất đi những thứ đó! Có những điều vẫn ở đó, ngay cạnh ta, thuộc về ta. Nhưng đến một ngày, khi ta nhận ra sự hiện diện của nó quan trọng, mọi thứ đã thay đổi. Tại sao vầng trăng tròn, quá khứ nghĩa tình vẫn ở đó, sát bên, liền kề chúng ta đây, mà ta lại không trân trọng? Lẽ sống Uống nước nhớ nguồn nhân dân ta truyền lại từ bao đời, lẽ nào lại để mai một dần? Không, mỗi người chúng ta luôn phải có ý thức trước lẽ sống, đạo lí tốt đẹp, cao cả ấy. Ta là ai? Là người già? Là trẻ nhỏ? Là thanh niên? Chung lại, ta chính là con người Việt Nam, sống trên dải đất hình chữ S với truyền thống bốn ngàn năm lịch sử này, lẽ nào ta nhẫn tâm quay lưng lại với quá khứ? Với lịch sử? Vậy để luôn giữ gìn truyền thống tốt đẹp này, chúng ta cần phải làm gì? Đối với người dân Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ nói riêng, ta luôn cần trân trọng, giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhận thức được những suy nghĩ, hành động của chính bản thân. Hãy luôn sống và luôn nhớ về cội nguồn của mình, đừng sống như những kẻ vô tình, bạc bẽo, quay lưng với quá khứ nghĩa tình.

Qua bài thơ Ánh trăng của mình, Nguyễn Duy đã giáng một hồi chuông cảnh tỉnh trước một biểu hiện của nhân tình thế thái nhanh chóng đổi thay, đồng thời làm người đọc rung động mạnh mẽ với giọng thơ nhẹ nhàng nhưng lại thấm sâu trong hồn trí ngừoi ta. Cảm ơn ông, Nguyễn Duy, đã mang Ánh trăng đến với người đọc, gợi nhắc về đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Vậy gấp lại những vần thơ của Ánh trăng, bạn, tôi và mọi người đã, đang và sẽ làm gì?

Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy - Bài mẫu 2

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước. Bài thơ Ánh trăng được sáng tác năm 1978. Bài thơ là một khoảnh khắc đối diện quá khứ nghĩa tình để tự vấn lương tâm; và cũng từ đó nhắc nhở mọi người về thái độ sống Uống nước nhớ nguồn, thủy chung cùng quá khứ. Chắc chắn rằng, khổ thơ 4 và 6 chứa đựng chủ đề và cảm xúc của toàn bài thơ. Đó là hai khổ thơ có sức ám ảnh trong lòng người đọc.

Cả bài thơ có sự kết hợp giữa hình thức tự sự và chiều sâu cảm xúc. Trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc ở các khổ 1, 2, 3 bằng lặng trôi nhưng khổ thứ 4 đột ngột xuất hiện một sự kiện tạo nên bước ngoặt để nhà thơ bộc lộ cảm xúc, thê hiện chủ đê tác phàm. Vầng trăng hiện ra soi sáng không chỉ không gian hiện tại mà còn gợi nhớ kỉ niệm trong quá khứ chẳng thể nào quên. Cái giật mình ở khổ thơ thứ 6 là lời nhắc nhở thủy chung.

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn .

Vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn tri kỉ suốt thời tuổi nhỏ rồi thời chiến tranh ở rừng, ngỡ như không bao giờ quên được vầng trăng nghĩa tình ấy. Thế nhưng, khi hoàn cảnh thay đổi, tất cả mọi thứ dường như chao đảo. Con người vô tình quên đi người bạn thân thiết, quên đi nghĩa tình năm xưa.

Thình lình, tắt, vội, đột ngột:Những từ gợi sự bất chợt đặt liền nhau khiến giọng thơ tràn đầy cảm xúc ngỡ ngàng, thảng thốt. Cái cảm giác thảng thốt đó chính là sự thức tỉnh của tác giả vì đã dửng dưng với vầng trăng nghĩa tình (như người dưng qua đường).

Sự xuất hiện bất chợt của vầng trăng thực này đã đánh thức vầng trăng bị lãng quên, nghĩa là cái quá khứ nghĩa tình mà đã bị ánh điện, cửa gương xóa nhòa, vầng trăng không chỉ là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình mà còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng (cứ tròn vành vạnh, im phăng phắc) như là nhân chứng nhắc nhở con người.

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Sự lặng im phăng phắc đó là lời nhắc nhở nghiêm khắc về sự thủy chung. Người ta phải giật mình vì suốt cả thời bình, sống ở thành phố, đầy đủ tiện nghi (ánh điện,cửa gương), đã có lúc không còn nhớ đến những gian lao, nghĩa tình.

Trong một bài thơ khác,Nghe tắc kè kêu trong phố (1978), Nguyễn Duy cũng có giây phútgiật mìnhnhư vậy:

Tôi giật mình
Nghe
Trên cành me gốc đường Công Lý cũ
Cái âm thanh của rừng lạc về

Sự gặp gỡ tình cờ với trăng (chỉ khi đèn điện làm ùa dậy bao kỉ niệm khiến con người nhận ra sự vô tình của mình. Vầng trăng tròn là hình ảnh ẩn dụ sâu sắc thể hiện một quá khứ nghĩa tình mà hôm nay vẫn nguyên vẹn, tròn đầy, không hề thay đổi. Đây là khổ thơ dẫn dắt người đọc đi vào suy ngẫm của nhân vật trữ tình trước người bạn tri kỉ ngày nào (ánh trăng).

Bài thơ như một câu chuyện, có sự kết họp hài hòa tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ khi thì trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư. Kết cấu, giọng điệu bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc, gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Mỗi người đều có một quá khứ. Trong quá khứ có quê hương, có người thân, có bạn bè tất cả một thời gắn bó với ta ân tình, ân nghĩa. Do đó, phải biết trân trọng quá khứ nghĩa tình của mình, biết cài hoa vào quá khứ, biết hướng về tương lai để tiếp tục hành trình sống tốt đẹp hơn. Điều này thể hiện thái độ sống uống nước nhớ nguồn của mỗi người.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân tình thủy chung cùng quá khứ.

Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy - Bài mẫu 3

Lẽ sống ân nghĩa thủy chung là gì

Nguyễn Duyđược xem là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong giai đoạn thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Duy vừa mộc mạc gần gũi, vừa có tính chiều sâu tư tưởng, nó nói lên những băn khoăn trăn trở của nhà thơ trước cuộc đời vốn nhiều biến đống, đổi thay.Bài thơ Ánh trăngđược Nguyễn Duy viết vào năm 1978, ba năm sau khi đất nước sạch bóng quân thù. Toàn bài thơ là những hoài niệm đẹp đẽ về những năm tháng đã qua và là lời nói tự cảnh tỉnh chính mình về lẽ sống ân nghĩa, thuỷ chung cao đẹp trong cuộc đời của mỗi con người.

Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, trong đó ánh trăng là hình tượng xuyên suốt, giàu ý nghĩa biểu tượng. Ánh trăng không chỉ là tiếng lòng, là những suy ngẫm riêng tư của Nguyễn Duy mà là của cả một lớp người, một thế hệ đang tự cảnh tình, tự nhắc nhở mình về lối sống ân nghĩa thuỷ chung đối với quá khứ của dân tộc.

Mở đầu bài thơ là những hồi ức, hoài niệm đẹp đẽ của tác giả về những năm tháng tuổi thơ bên đồng quê ngập tràn ánh trăng, những năm tháng sống ở chiến trường nơi núi rừng hoang vắng, bóng trăng soi vằng vặc trên đầu núi:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ

Không gian sống của tuổi thơ làđồng, làsông, làbể, là một không gian làng quê êm ả, thanh bình. Không gian ấy đã nuôi lớn tâm hồn của con người gắn liền với những năm tháng hồn nhiên, những kỉ niệm êm đềm bên cạnh những người thân yêu ruột thịt. Không gian ấy rất đỗi thiêng liêng, nên thơ và tuyệt đẹp. Nó trở đi trở lại trong thơ của Nguyễn Duy bằng những hình ảnh vô cùng mộc mạc bình dị, đặc trưng cho làng quê Việt Nam. Hình ảnh dòng sông, con đò, cây đa, bến nước, đồng ruộng mênh mông, biển khơi xa thẳm, sung chát đào chua, cánh cò, câu ca mẹ hát là nguồn sống cuộn trào trong kí ức không bao giờ mờ phai

Trong không gian ấy, vầng vầng trăng hiện hữu lung linh mờ tỏ. Đối với tuổi thơ, vầng trăng trên cao vẫn là cái gì đó xa xôi vời vợi. Mãi đến khi trở thành một người lính cầm súng xa nhà đi chiến đấu ở núi rừng hoang vu, quạnh vắng thì lúc ấy vầng trăng mới trở nên gắn bó, đi vào tâm hồn người chiến sĩ.

Trăng trở thành người bạn chia sẻ với con người những buồn vui, gian khổ đời lính. Ánh trăng lung linh mờ ảo bàng bạc cả không gian. Ánh trăng nên thơ tuyệt đẹp giúp con người quên đi những nhọc nhằn, vất vả sau một ngày hành quân gian khổ, giúp con người không cảm thấy trống trải, buồn bã, cô đơn giữa núi rừng heo hút. Ánh trăng làm vơi đi nỗi nhớ quê nhà bởi trong lòng người chiến sĩ vầng trăng sẻ chia.

Trăng ở núi rừng hay trăng ở quê nhà thì cũng chỉ là một vầng trăng ấy mà thôi. Con người nhìn vầng trăng mà nguôi ngoai thương nhớ. Và không biết tự bao giờ trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ, gắn bó với con người. Từhồilặp đi lặp lại hai lần nhấn mạnh hai giai đoạn từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành của con người với biết bao thăng trầm biến động.

Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hồn hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thànhvầng trăng tình nghĩabiểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung:

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.

Từ láytrần trụigợi lên một cách sống mộc mạc, chân chất, bình dị, gần gũi gắn bó với thiên nhiên. Tâm hồn vô tư,hồn nhiên như cây cỏchân chất, thiệt thà, không tính toan vụ lợi. Với những năm tháng sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên biết bao nghĩa tình cùng tâm hồn thuỷ chung, trong sáng, hồn hậu của một con người gắn bó với đồng, với sông, với bể, thi sĩ đã từngngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩaấy. Cái vầng trăng đã một thời gắn bó sẻ chia những buồn vui gian khổ, cái vầng trăng đã đánh thức trong con người những rung động, những xúc cảm trước cái đẹp, trước cái chân thiện mĩ hiện hữu diệu kì.

Nhưng rồi thơi gian trôi qua, cuộc sống đổi thay, chiến tranh lùi xa vào dĩ vãng, con người từ giã núi rừng trở về thành phố, vết thương khít lại, con người bắt đầu đổi thay:

Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.

Cuộc sống đã khác nhiều, không còn là nơi núi rừng hoang vu quạnh vắng với cuộc sống gian khổ, khó khăn, thiếu thốn mà là thành phố rực rỡ ánh đèn với nhà cao cửa rộng, đầy đủ những tiện nghi vật chất. Con người đã quen rồi với ánh điện, cửa gương nơi phồn hoa đô hội và như Tố Hữu đã từng bâng khuân:

Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.

Cho nên không biết tự lúc nào và tự bao giờ, con người trở nên vô tình, vô cảm:

Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Vầng trăng vẫn hiện hữu, vẫn mỗi ngày và mỗi đêm lung linh toả sáng. Còn con người dường như dửng dưng, vô tình không hay biết. Trăng vẫn đẹp, vẫn nên thơ và toả rạng rạn trên bầu trời còn con người thì hờ hững không đoái hoài đến.

Phép đối giữa hai khổ thơ giữa một bên làcái vầng trăng tình nghĩamột thời gắn bó, ơn sâu nghĩa nặng đối lập với vầng trăng hoàn toàn xa lạ như người dưng qua đường. Từ đó, tác giả muốn nói lên cái vô tâm, bạc bẽo của lòng người, dễ dàng quên lãng những tháng năm gắn bó đã qua.

Hình ảnh nhân hoávầng trăng đi qua ngõlàm cho thiên nhiên trở nên vô cùng gần gũi. Ánh trăng như chủ động âm thầm, lặng lẽ dõi theo và tìm cách gặp gỡ người bạn năm cũ. Ta tự hỏi đã bao lần vầng trăng đi qua ngõ để được gặp gỡ, hội ngộ cùng người nhưng con người thì vẫn khép chặt khung cửa, dửng dưng không hay biết. Song, cuộc đời với những bất ngờ không báo trước, một sự cố xảy đến và trong phút giây con người hội ngộ với vầng trăng xưa cũ:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Đèn điện tắt, căn phòng tối om, ngột ngạt, bức bối, con ngườivội bật tung cửa sổvới mong muốn thoát khỏi cái vùng tối của không gian đang vây bủa chính mình. Đột ngột vầng trăng tròn xuất hiện. Từ láyđột ngộtmiêu tả sự việc vầng trăng xuất hiện một cách bất ngờ, thình lình, nhanh chóng khiến cho con người cũng cảm thấy bàng hoàng, ngỡ ngàng. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm, nghĩa tình.

Sau phút bàng hoàng vì bất ngờ ấy là cả một nỗi niềm xót xa, xúc động dâng trào mãnh liệt trong tâm hồn tác giả khi đối diện với vầng trăng tròn, khi cả một quá khứ xa xưa chợt hiện về trong kí ức:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng

Mặt đối mặt, con người đối diện với vầng trăng với người bạn xưa cũ, với những năm tháng tươi đẹp đã qua hay cũng là đối diện với chính lòng mình, với con người của những tháng ngày xưa cũ, những năm tháng đạn bom ác liệt đầy mất mát, đau thương nhưng thấm đượm nghĩa tình đồng đội, đồng chí.

Từ láyrưng rưnggợi lên trạng thái cảm xúc vô cùng xúc động của nhà thơ khi cả một quá khứ xa xưa chợt hiện về trong tâm trí. Điệp từnhư làlặp đi lặp lại 2 lần diễn tả một cách tinh tế tâm trạng của một con người đang thả lòng mình trong quá khứ xa xưa. Đây cánh đồng, đây dòng sông, đây bể khơi mênh mông xa thẳm của những năm tháng tuổi thơ. Đây là núi rừng của những năm đánh giặc. Tất cả, tất cả như sống dậy và vẫn vẹn nguyên trong trái tim, trong nỗi nhớ của người chiến sĩ.

Cấu trúc song hành của hai câu thơ kết hợp với nhịp điệu thơ dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ, nhân hoá và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị và đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc, chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm nhưcó cái gì rưng rưng, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Nói sao hết nỗi mừng vui xúc động pha cả sự xót xa ngậm ngùi, ân hận của một con người đã bấy lâu nay sống vô tâm, hờ hững, lãng quên quá khữ, bạn bè, đồng đội thì nay tìm lại được chính mình, tìm lại được những gì mà một thời mình đã từng coi là thiêng liêng cao đẹp, là suốt đời ngỡ không bao giờ quên. Trong giây phút được sống lại những năm tháng tươi đẹp của quá khứ xa xưa, thấy được sự vô tâm hờ hững, sự đổi thay của chính mình thì cũng là lúc con người nhận ra:

Trăng cứ tròn vành vạch
Kể chi người vô tình
Ánh trắng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình

Trăng cứ tròn vành vạchvẫn đẹp một cách viên mãn tròn đầy, vẫn ngày ngày âm thầm lặng lẽ toả sáng, làm đẹp cuộc đời mặc cho con người cứvô tìnhhờ hững.Ánh trăng im phăng phắclà hình ảnh nhân hoá khiến cho ánh trăng giống như một con người bao dung, độ lượng không hề hờn dỗi trách móc trước sự đổi thay của lòng dạ con người.

Sự im lặng mạnh mẽ ấy đủ sức thức tỉnh lương tâm con người vốn đã ngập ngụa trong đời sống tiện nghi. Nó đủ khiến con người giật mình nhận ra sự thay đổi của bản thân mình, mình đã đánh mất chính mình, đánh mất những gì tốt đẹp trong con người mình mà mình không hề hay biết. Mình đã quên đi thiên nhiên tươi đẹp, quên đi quá khữ nghĩa tình. Mình đã để cho những bộn bề, lo toan của cuộc sống nơi chốn thành phố xa hoa rực rỡ, nhà cao cửa rộng nó lôi kéo làm cho mình mờ mắt chìm đắm nên không còn nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, của hiện hữu nhiệm màu. Mình chỉ sống ở hiện tại mà hoàn toàn quên lãng quá khứ, quên đi những an nghĩa, những gì tốt đẹp đã qua. Giật mình để thức tỉnh, để sửa đổi, làm con người mình trở nên tốt đẹp hơn.

Bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa tự sự và trữ tình; giọng thơ tâm tình, suy tư trầm lắng; ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí. Nhà thơ đã rất thành công hình tượng ánh trăng, hình tượng thơ đa nghĩa tượng trưng cho cái đẹp của thiện nhiên, của sự sống, sự thanh cao trong sáng thuần khiết, vẻ đẹp tâm hồn của con người; quá khứ tươi đẹp, những năm tháng chiến tranh gian khổ thắm đượm nghĩa tình đồng đội đồi chí, tình quân dân cá nước.

Bài thơ cất lên như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở chân thành, không chỉ có ý nghĩa đối với một lớp người, một thế hệ vừa đi qua chiến tranh mà còn có ý nghĩa đối với nhiều người vì nó đặt ra một vấn đề đó là thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và với cả chính mình: Đừng bao giờ lãng quên quá khứ, hãy trân trọng nghĩa tình của quê hương đất nước, đừng đánh mất những điều tốt đẹp trong con người mình chỉ vì cuộc sống kim tiền xa hoa, phù phiếm

Ánh trănglà bài thơ hay, khơi gợi những suy nghĩ về đạo lí, truyền thống Uống nước nhớ nguồn đẹp đẽ của dân tộc. Ánh trăng thật sự là một tấm gương soi để ta thấy được con người thật của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi của tâm hồn mình mà đôi khi ta đã đánh mất mà không hề hay biết.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn DuyTop lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!