Lối sống tư sản là lối sống như thế nào

Tư sản mại bản (tiếng Anh: comprador hoặc comprador bourgeoisie; gốc latinh: comparātor có nghĩa là "người mua") là thuật ngữ gắn với chủ nghĩa Marx để chỉ những cá nhân hoặc nhóm thương gia làm trung gian với các thế lực nước ngoài buôn bán tài nguyên, quyền lợi của nhân dân quốc gia để thủ lợi riêng. Tự họ không thể kinh doanh làm giàu theo phương cách tư bản. Họ cần dựa vào thế lực của đế quốc bên ngoài để làm giàu.

Tư sản nói chung là những người kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa để kiếm lời, gây tài sản cho riêng mình. Những người này bị xem là đi ngược lại với đường hướng của chủ nghĩa cộng sản. Mại bản là đem lợi ích của quốc gia bản xứ, nhân dân bản xứ để đánh đổi với thế lực nước ngoài lấy lợi tức riêng. Cụm từ tư sản mại bản do đó có tính cách cáo buộc và chỉ có ý nghĩa khi dùng trong khuôn khổ cách mạng xã hội chủ nghĩa tại các nước thuộc địa hoặc các nước bị nước ngoài can thiệp sâu vào nền kinh tế - chính trị.

Một số định nghĩa:

  • Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:

"... bộ phận thoả hiệp của giai cấp tư sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm trung gian giữa tư bản nước ngoài và thị trường trong nước, gắn chặt lợi ích của mình với lợi ích của tư bản nước ngoài, thực chất là làm tay sai cho các thế lực đế quốc bóc lột nước mình. Tư sản mại bản một mặt cấu kết chặt chẽ với tư bản nước ngoài, mặt khác cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến phản động trong nước để bóc lột nhân dân lao động, duy trì địa vị và lợi ích của mình. Vì vậy, Tư sản mại bản cũng là đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, Tư sản mại bản xuất hiện dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp đầu thế kỉ 20, đã hoàn toàn xoá bỏ về mặt chính trị và kinh tế sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954) và trên cả nước (1975)..."

  • Từ Tạp chí Văn hóa Doanh nhân

"...khái niệm mà các văn kiện chính trị thường hay nhắc đến như một thành phần xã hội mang yếu tố phản động trong cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chỉ ở giai đoạn sau của lịch sử, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam sau 1954 mới hình thành tầng lớp mại bản ăn theo cuộc chiến tranh của Mỹ..."

Trong khoảng năm 1977, hai năm sau khi kết thúc chiến tranh thống nhất Việt Nam, chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát động cuộc tố cáo và truy nã các thành phần tư sản mại bản tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam Việt Nam - phần lớn là các thương gia gốc Hoa. Tài sản của những người bị quy là tư sản mại bản bị tịch thu. Đôi khi, ngay cả tài sản của những người có công với cách mạng, hay các nhân viên tình báo cũng bị quốc hữu hóa.[1]

Những thành phần này bị cáo buộc:

  1. Buôn bán với đế quốc Mỹ và chính quyền Ngụy
  2. Làm giàu bằng cách nhập cảng, phát hành tài liệu đồi trụy ru ngủ nhân dân
  3. Nhập cảng súng đạn và nhu liệu quân sự chống lại nhân dân
  4. Đầu cơ tích trữ, tạo lũng đọan kinh tế của nhà nước
  5. Sau giải phóng, vẫn ngoan cố dụ dỗ, lôi kéo các cán bộ nhà nước làm ăn bất hợp pháp

Trong thời gian vài năm sau đó, những gia đình gốc Hoa này tổ chức vượt biển hàng loạt trốn sang nước ngoài, phần lớn với sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam đổi lại Chính phủ Việt Nam sẽ nhận được một số vàng và bất động sản của những người này - gọi là "vượt biên bán chính thức"[2].

Thời của Marx chưa có các tổ chức kinh tế toàn cầu như WTO hoặc các hiệp định về thuế quan và mậu dịch như GATT, Liên minh châu Âu, hoặc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều tham dự ở nhiều cấp độ khác nhau vào các tổ chức kinh tế toàn cầu hoặc hiệp định thuế quan mậu dịch để dựa vào đó trao đổi mua bán cho nên khái niệm tư sản mại bản không còn được sử dụng nữa.

Sau năm 1975, tại miền Nam Việt Nam nhà nước Việt Nam sử dụng thuật ngữ tư sản mại bản chủ yếu để lấy cớ trừng phạt, truy tố và loại bỏ các doanh nhân có liên hệ với nước ngoài mà không xem xét những lợi ích kinh tế mà họ mang lại. Ngày nay, thành ngữ trên ít được nhắc đến vì sợ gợi lại những ký ức cũ.

Ngày nay các doanh nhân được quyền giao thương trực tiếp với các cá nhân tổ chức quốc tế mà không gặp nhiều rào cản từ chính sách kinh tế. Đây là kết quả của chính sách Đổi mới của hệ thống chính trị cầm quyền. Tại nhiều quốc gia, các hoạt động nhạy cảm như xuất nhập khẩu mua bán vũ khí được các công ty trực thuộc nhà nước hoặc lực lượng vũ trang như Cảnh sát và Quân đội thực hiện thay vì giao cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

  • Cải tạo công thương nghiệp
  • Tư bản nhóm lợi ích

  1. ^ Những chuyện ai cũng muốn quên Tuổi trẻ OnLine
  2. ^ Chuyến vượt biên định mệnh trên tàu MT065 Lưu trữ 2009-08-28 tại Wayback Machine, Thanh Quang, RFA, 2009-04-27

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tư_sản_mại_bản&oldid=68198650”

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ Tịch ngay từ thời niên thiếu.

Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:

Một là: Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, dân tộc, đó là: Truyền thống yêu nước và ý chí kiên cường đấu tranh dựng nước, giữ nước; truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân, tương ái; truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo.

Hai là: Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin: Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin trang bị thế giới quan khoa học và phương pháp luận duy vật biện chứng cho Người, từ đó Hồ Chí Minh nhận thức rõ: cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Ba là: Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại:

+ Tiếp thu tinh hoa phương Đông:

Tư tưởng Nho giáo: đề cao triết lý hành động, thương dân, cứu dân; đề cao văn hóa, lễ giáo, khuyến khích truyền thống hiếu học, tu thân dưỡng tính.

Tư tưởng Phật giáo: tư tưởng vị tha, từ bi, thương người như thể thương thân; đề cao lao động, chống lười biếng.

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc - độc lập, dân quyền - tự do, dân sinh - hạnh phúc.

+ Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây: Tư tưởng nhân quyền trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Tư tưởng nhân ái, đức hy sinh của Thiên Chúa giáo. Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và dân chủ của cuộc đại Cách mạng tư sản Pháp năm 1789.

Bốn là: Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sống có hoài bão, có lý tưởng; tư chất thông minh và tư duy độc lập, sáng tạo, tự chủ; tinh thần kiên cường, bất khuất; trái tim nhân ái, yêu thương con người.

I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”[1].

Người phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết”2. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”3. Người chỉ ra: “Trong Đảng ta có một số không ít đồng chí mắc bệnh công thần, cho rằng mình đã tham gia cách mạng lâu năm mà tự kiêu, tự mãn. Hoạt động cách mạng lâu năm là tốt, nhưng phải khiêm tốn học tập để tiến bộ mãi”[2].

II. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG PHONG CÁCH, TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU, CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

1. Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ, đảng  viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

1.1. Phong cách dân chủ, quần chúng

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện “ Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan nhà nước trong chế độ ta”[3] và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”[4]. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”[5]. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.

Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.

1.2. Phong cách khoa học

Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài.

Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”[6]

1.3. Phong cách nêu gương

Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất cả các cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”[7].

Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới"[8]. Người khẳng định: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có.Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”[9]. Tháng 6-1968, Người chỉ đạo xuất bản sách “Người tốt, việc tốt” để mọi người học tập, làm theo, lan tỏa cái tốt, cái đẹp trong xã hội.

2. Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo

Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn. Tính bất biến, mục tiêu trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong bản Di chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung của cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[10]. Tuy nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước đi, mỗi bước tiến lên của cách mạng.

III. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỐ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC TÔN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN

Tôn trọng Nhân dân trước hết phải có thái độ đánh giá cao vai trò, vị trí của Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “vô luận việc gì đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người chỉ ra rằng: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”[11]. Theo Người, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng… Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[12].

Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ “làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a,b,c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”[13]. Về tư cách người đảng viên, lãnh đạo, Người nói: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan”nhân dân[14], không ra lệnh, ra oai, không làm quan cách mạng. Quan điểm “mỗi đảng viên và cán bộ phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” cần được hiểu đích cuối cùng là phục vụ nhân dân. Bởi vì, “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”[15]. Hồ Chí Minh giải thích chế độ dân chủ và Đảng lãnh đạo rất rõ ràng: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương, đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”[16].

Sau khi đã giành được độc lập rồi thì vấn đề kiến quốc là hết sức quan trọng. Bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[17]. Với nhận thức đó, cùng với chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí Minh tập trung vào nhiệm vụ kiến quốc. Kháng chiến và kiến quốc gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn kháng chiến thành công thì phải có sức dân, lòng dân. Muốn có sức dân, lòng dân thì phải chăm lo đời sống của dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”[18].

Một yêu cầu quan trọng trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh đạo là phải có sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới. “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất chính trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”[19].

Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích. Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”[20]. Một trong những kinh nghiệm quý trong thực hiện phong cách phát huy dân chủ là “cơ quan nào mà trong lúc khai hội, cấp trên để cho mọi người nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm thì thào” cũng hết”[21]. Người chỉ rõ: “để phát huy ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng phải bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay”[22].

Khẳng định vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[23], nên lý luận mà xa rời thực tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở, nên người cán bộ lãnh đạo phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm làm việc, phải hiểu rõ sự vận động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua đó dự báo được những biến đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó mới có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm “đầu tiên là công việc đối với con người”. Người dặn trong Di chúc “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân là chủ, Nhân dân làm chủ; tin tưởng ở trí tuệ của Nhân dân, tin vào sức mạnh và lực lượng của Nhân dân để làm cách mạng.

IV. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỐ CHÍ MINH VỀ  TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng, các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân. Trong các tác phẩm của mình, Bác có tới trên 400 bài nói và bài viết về đoàn kết. Tư tưởng về đoàn kết của Người được thể hiện nổi bật là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh” ; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” ; “Đoàn kết là thắng lợi” ; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” ; “... một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết” ; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” .

vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[24]; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”1... Để lý giải một nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại những thế lực có ưu thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[25]. Theo Bác, đoàn kết trong Đảng là tiền đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế. Đó là đường lối chiến lược kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam; vì “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”[26].

Song song với việc xây những đức tính tốt để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, phải chống những cái xấu, những căn bệnh gây chia rẽ, mất đoàn kết. Phải chống chủ nghĩa cá nhân. Những người có tư tưởng này, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ, đảng viên sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa; tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành; tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế, quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền. Người chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”[27].

Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người cũng thể hiện mong muốn tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[28].

Về tư tưởng “Đoàn kết toàn dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quan sơn muôn dặm một nhà/Vì trong bốn biển đều là anh em”[29]. Người cho biết: “Đảng chúng tôi luôn luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho quần chúng nhân dân lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản”[30]. Và, sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[31]. Bởi vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta cần có tinh thần quốc tế trong sáng.

Người khẳng định, Đảng ta với phong cách vì dân, vì nước nên: “không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề, nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”[32] để đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

Bằng cách nào để toàn Đảng đoàn kết, nhất trí? Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp cơ bản là: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[33].

Về tư tưởng xây dựng Đảng về đạo đức: Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”. Không như vậy, Đảng sẽ rơi vào thoái hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng.

Đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt là phải vừa có đức, vừa có tài, Người nhấn mạnh, trong đó, đạo đức là gốc: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[34].

Để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng. Nói về mối quan hệ giữa Đảng ta với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức, đó là đường lối xây dựng Đảng. Đó không những là công việc của Đảng và của đảng viên mà cũng là của toàn dân ta. Nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng, hưởng ứng những lời kêu gọi của Đảng, ra sức cho Đảng rõ tình hình trong nhân dân, đối với công tác của Đảng thì thật thà phê bình và nêu ý kiến của mình. Đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”[35].

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Người nhận thức rõ vị trí, vai trò của người cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách mạng. “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[36].

Bác căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[37]. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”[38]. Vì vậy, muốn đoàn kết thống nhất, phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.

V. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phát điểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.

Sinh thời trong cảnh nước nhà bị nô dịch, lầm than, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã sớm thức tỉnh, đau đáu nỗi niềm cứu nước, cứu dân. Người chọn hướng đi sang các nước tư bản phương Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình. Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người bắt đầu chuyến hành trình trên con tàu Amiral Latouche Tresville, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho To quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiếu”[39]. Điều này sớm đã thế hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Đạo đức Hồ Chí Minh: là đạo đức cách mạng, là những phẩm chất cao quý của một người cách mạng. Đó là Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cần: Là cần cù, chăm chỉ, tận tuỵ, hết lòng hết sức vì công việc chung, vì nước, vì dân. Kiệm: Là tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí, nhấy là đối với của công. Liêm: Là thanh liêm, giữ liêm sỉ, danh dự, trong sạch, trong sáng. Chính: Là chính trực, ngay thẳng, khẳng khái, không quỵ luỵ, cúi luồn, giữ chí khí của một người quân tử, chính khách. Chí công vô tư: Là làm việc vì sự nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi, không vì lợi ích riêng.

Phong cách Hồ Chí Minh: Là lối sống, tác phong khiêm tốn, giản dị, cầu thị, gần dân, trọng dân, tin dân, học dân, làm việc gì cũng vì lợi ích nhân dân; là đầy tớ của dân chứ không phải “làm quan nhân dân”, không được lên mặt “làm quan cách mạng”. Mối cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập, ra sức tu dưỡng, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, trở thành những con người có văn hoá, có liêm sỉ, “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[40].

Trong thời gian qua, việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được Đảng ta chỉ đạo từ rất sớm, bằng nhiều chỉ thị, nghị quyết, qua nhiều thời kỳ. Gần đây nhất là Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 xủa Bộ Chính trị khoá XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, có sức lan toả sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội, được Đại hội XIII của Đảng đánh giá cao, nổi bật là: Công tác lãnh đạo chỉ đạo việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện một cách nghiêm túc,, bài bản, chất lượng. Việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, gắn với trách nhiệm nêu gương có chuyển biến tích cực. Các cấp uỷ, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, nhất là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã thực hiện nêu gương bằng những việc làm, hành động cụ thể, với phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “học tập đi đôi với làm theo”…

Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác, để quần chúng nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo kho học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuyệ tập thể, theo tinh thần Bác đã dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[41].

Học tập Bác: Là học tập tư tưởng, thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng, đạo đức cách mạng và phong cách của người chiến sĩ cộng sản chân chính. Thúc đẩy việc học tập Bác trở thành lối sống, nếp nghĩ, cách làm của từng cán bộ, đảng viên và người dân. Làm cho tư tưởng, đạo đức, đạo đức, phong cách của Chủ tích Hồ Chí Minh thực sự thấm sâu vào đời sống xã hội, thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, cội nguồn sức mạnh to lớn, để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

Làm theo Bác: Là thúc đẩy, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ “học tập” sang “làm theo”, hiện thực hoá bằng những chương trình hành động cụ thể, việc làm cụ thể, thiết thực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đề cao chức trách, đạo đức công vụ của mỗi cán bộ, đảng viên; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn, trên nền tảng, kim chỉ nam là tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin trong mọi hành động.

1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường

1.1. Độc lập, tự chủ, không trông chờ, ỷ lại, phụ thuộc vào bên  ngoài.

Trong khi hầu hết các đảng cộng sản châu Âu đều có quan điểm cho rằng, cách mạng các nước thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng ở các nước tư bản (chính quốc), cách mạng các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc chưa thắng lợi thì Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng, với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng các nưc thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thng lợi, không phụ thuộc vào việc cách mạng chính quốc có thắng lợi hay không.

Người nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”, độc lập, tự chủ, không trông chờ, lại, phụ thuộc vào hên ngoài, “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tư giúp lấy mình đã”. Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đ thì không xứng đáng được độc lập[42].

1.2. Phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân

Trong tư tưng Hồ Chí Minh, nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[43]. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”[44].

Vai trò và sức mạnh của nhân dân luôn được Đảng ta phát huy cao độ trong hai cuộc trưng kỳ kháng chiến cũng như trong thi kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hòa bình lập lại đến nay, tạo nên những thành tựu vô cùng quan trọng về kinh tế - xã hội, đem lại những thay đổi lớn lao về diện mạo đất nước trong tiến trình thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.3. Có sự tổ chức chặt chẽ, có phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Mùa Xuân năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạn thảo. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”[45], “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[46]. Sự ra đời của Đảng đánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trở thành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫn dắt, lãnh đạo nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọi mặt, đưa tới sự thành công của cách mạng.

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc. Người chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, cần kíp về việc chuẩn bị các điều kiện đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng, như: xây dựng lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang); căn cứ địa cách mạng; tập dượt cho quần chúng đấu tranh, xác định phương pháp đấu tranh khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền; chuẩn bị bộ máy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ chín muồi và dự kiến các công việc sau khi giành được chính quyền.

1.4. Kết hợp nội lực và ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đi.

Ý chí tự lực, tự cường đã giúp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính, bao gồm chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc có thể tạo nên sức mạnh nội lực lớn lao giúp một dân tộc bị áp bức, bóc lột tự đứng lên chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân, giải phóng mình. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối... nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa”[47].

Người chỉ rõ, trong mối quan hệ giữa sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh nội lực, sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh, giữ vai trò quyết định; sức mạnh ngoại lực, sức mạnh thời đại là nguồn lực từ bên ngoài, quan trọng, bổ trợ, gia tăng thêm sức mạnh của dân tộc, phát huy tác động thông qua nguồn lực từ bên trong.

Ngay sau khi trở về nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (1941). Ngoài những chủ trương lớn về giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cách mạng chủ yếu, Hội nghị còn chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng, tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh cuộc vận động giải phóng dân tộc. Đồng thời, nhanh nhạy nắm bắt diễn biến của tình hình quốc tế, tranh thủ thời cơ thuận lợi, sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, xúc tiến khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là minh chứng sống động nhất về sự kết hợp nội lực và ngoại lực, dân tộc và thời đại, trở thành nhân tố quy tụ, thúc đẩy, kết tinh mọi nguồn lực trong và ngoài, đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

1.5. Quyết tâm bảo vệ, giữ vững độc lập dân tộc; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, xây dựng, phát triển đất nước.

Sau khi nước nhà được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự lúc giành quyền độc lập đến nay, xứ Việt Nam ta vẫn hết sức cố gắng để một mặt yên nội trị, một mặt gây thực lực chống xâm lăng và tranh thủ ngoại giao được thắng lợi. Sức cố gắng ấy đã đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan”[48]. Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc trên tất cả các lĩnh vực, điển hình là phong trào “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”... tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, cổ vũ động viên nhân dân cả nước vượt mọi khó khăn, gian khổ trong những năm đầu mới lập nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ý chí tự lực, tự cường, thi đua sản xuất, chiến đấu chống đế quốc thực dân được khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng và nhân dân hai miền Nam - Bắc nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo toàn nền độc lập, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phong trào thi đua lao động ở các ngành, các giới đã được phát động, tổ chức theo tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”. Phong trào “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tay búa, tay súng”, “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, “Ba đảm đang”... được dấy lên trên khắp cả nước. Thời gian này, Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng lực, xây dựng vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện tiền tuyến miền Nam, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ý chí quyết tâm bảo vệ, giữ vững nền độc lập dân tộc; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, xây dựng và phát triển đt nước đến nay còn nguyên giá trị, soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nhân dân ta gặt hái nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong công cuộc dổi mái đất nước 35 năm qua.

2. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

2.1. Xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc; giữ vững quốc phòng, an ninh.

Thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, đồng thời giữ vững quốc phòng, an ninh nhằm không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân. Người chỉ rõ, kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng kinh tế làm cơ sở cho sự phát triển văn hóa - xã hội.

Đất  nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội trở nên cấp thiết. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 78/SL về việc thiết lập “uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc” của Chính phủ. Phát biểu trong phiên họp đầu tiên của ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh mong muốn mọi người “đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội”[49], “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”[50].

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”[51], “Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”[52]. Người khuyến khích: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân mun giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải hợp tác xã”[53].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta. Người viết: “Đời sống nhân dânchỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp.  Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép, than, dầu...”[54].

Cùng với đẩy mạnh sản xuất, phát triển vững chắc nền tảng kinh tế - xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của quốc phòng, an ninh nhằm đảm bảo và giữ vững thành quả cách mạng của dân tộc. Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Người chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[55].

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn nhắc nhở: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng[56]. Ngay sau khi thành lập chính quyền cách mạng, Người cùng Chính phủ bắt tay vào việc chỉ đạo chuẩn bị lực lượng kháng chiến, bảo vệ thành qủa cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người luôn căn dặn các lực lượng vũ trang và nhân dân không được lơ là, mất cảnh giác, vừa phải tập trung sản xuất, vừa phải giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Mọi sự lơ là, mất cảnh giác đều dẫn đến hậu quả nguy hại cho cách mạng, sự tồn vong của Tổ quốc. Người viết: “trong khi ra sức sản xuất, nhân dân ta phải luôn luôn sẵn sàng đập tan âm mưu địch phá hoại thành quả lao động của chúng ta. Quân đội, công an, dân quân cần tiếp tục phát huy truyền thống chiến đấu dũng cảm, củng cố quốc phòng, trật tự, an ninh”[57].

2.2. Phát triển văn hóa - giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh.

Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách, Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng sức dân, thực hành “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới... phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. Người nhấn mạnh, phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước phải nắm vững khoa học kỹ thuật, mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học - kỹ thuật, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, nông dân phải biết văn hoá, ai cũng phải biết văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”[58].

Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (05/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh cổ vũ, khích lệ: “Non sông Vỉệt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[59].

2.3.  Tất cả lợi ích đều vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.

Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã mang trong mình khát vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Ngưi khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho c ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[60].

Khi nước nhà độc lập, khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trở thành động lực và mục tiêu hành động của toàn Đảng, I Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[61]. Người cũng khẳng định: “Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”[62]. Tất cả mục tiêu, giá trị tiến bộ, nhân văn của xã hội mà chúng ta đang xây dựng đều dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội. Trong xã hội đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích, hạnh phúc của nhân dân.

- Phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trên cơ sở phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế, giá trị chung của nhân loại.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ hoàn cảnh một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”[63], “làm sao cho dân giàu nước mạnh”[64].

Độc lập, tự chủ và sáng tạo trong tư duy, quan điểm, chủ trương và hành động để thực hiện khát vọng phát triển là phong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng, phát triển đất nước theo con đưòng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”[65].

“Chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những dặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”[66].

VI. MỘT SỐ BÀI NÓI, BÀI VIẾT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

1. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và ngay sau lễ Độc lập, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Chính phủ lâm thời, đề ra các nhiệm vụ cấp bách, trong đó Bác đề nghị Chính phủ tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Bác cho rằng một trong những cơ sở cần có đầu tiên của một Nhà nước là Hiến pháp mà muốn có Hiến pháp thì phải có Quốc hội. Bác nói: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống...".

Ngày 5-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”[67].

Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, toàn thể nhân dân Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, không phân biệt gái trai, già trẻ đã dành trọn ngày lịch sử - ngày 6-1-1946: Toàn dân đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội.

2. Cách mạng tháng Tám thành công, ba năm sau, trong bộn bề công việc, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai đoạn gay go, quyết liệt, nhưng Bác Hồ vẫn luôn dành thời gian quý hiếm của mình để nghĩ về vấn đề thi đua. Ngày 11/6/1948, Người đã viết “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Đó là sự tổng kết thực tiễn sâu sắc và đồng thời nêu ra những yêu cầu quan trọng, cấp thiết đối với phong trào cách mạng nước ta.

3. Ngày 11/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu 12. Trong đó chứa đựng tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt của Bác dành cho lực lượng Công an nhân dân.

"Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính/ Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ/ Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành/ Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép/ Đối với công việc, phải tận tụy/ Đối với địch, phải kiên quyết, khôn khéo".

Từ đó, những lời dạy quý báu của Người được triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc và trở thành một phong trào thi đua lớn, được phát động rộng rãi trong toàn lực lượng Công an nhân dân - Phong trào thi đua học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy.

4. Căn cứ kháng chiến Nà Thuộc bao gồm địa bàn 3 xã Kiên Mộc, Bính Xá, Bắc Xa, đây là nơi tập kết, huấn luyện bộ đội, du kích trên địa bàn trong những năm 1945 - 1954. Ngày 14/4/1947, quân và dân Nà Thuộc đã ra quân trận đầu, cùng nhau đẩy lùi cuộc tiến công của thực dân Pháp xâm lược ngay tại khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc. Tháng  2/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng quân dân Nà Thuộc, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn bức trướng “Ủng hộ kháng chiến”.

Với những đóng góp to lớn trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc huyện Đình Lập đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, đình Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập là nơi diễn ra hội thề của đội quân du kích Nà Thuộc đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh (năm 2002).

5. “Tôi thay mặt Chính phủ khen ngợi các đơn vị bộ đội và dân quân vừa mới thắng địch tại mặt trận Lạng Sơn, tiêu diệt đồn Kỳ Cùng, Đèo Khách, Ba Sơn, phá cầu Bản Trại, tiêu hủy đoàn vận tải của địch trong trận Thất Khê. Trong công việc đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, các chú bắt đầu như thế là tốt, các chú cố gắng cứ theo đà này mà tiến lên để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa”.

(Trích thư khen ngợi các đơn vị bộ đội và dân quân chiến thắng trên mặt trận Lạng Sơn - in trên Báo Cứu quốc số 1240 ngày 11 tháng 5 năm 1949)

6. Trong chiến dịch giải phóng biên giới năm 1950, Bác trực tiếp ra mặt trận để lãnh đạo, chỉ đạo, chiến dịch. Ngày 10/10/1950, thị trấn Thất Khê được giải phóng, Bác Hồ đã vào thăm thị trấn Thất Khê, thị sát tình hình ở đây. Sau đó Bác trở lại gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ chiến sĩ tham gia chiến dịch tại một địa điểm cách thị trấn Thất Khê 2,5km, qua cánh đồng về phía đường quốc lộ 4A, gần nghĩa trang Bông Lau…

7. Ngày 28.3.1951, Bác Hồ đến thăm Liên phân đội 312 đang thi công đường và cầu Nà Cù, làng Nà Tu, xã Cẩm Giàng, H.Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Bác chuyện trò thân mật và tặng 4 câu thơ cho lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam: “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”.

8. “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người cố gắng làm tròn nhiệm vụ”[68]. Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đến dự và phát biểu tại “Lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, ngày 13-9-1958. 

9. Ngày 23/02/1960, tỉnh Lạng Sơn vinh dự và tự hào được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Bác đã ân cần nói chuyện với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn tại sân vận động Đông Kinh. “Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ thân ái thăm hỏi đồng bào các dân tộc, bộ đội công an, dân quân, cán bộ, các chiến sĩ thi đua, các gia đình quân nhân, các cháu thanh niên và nhi đồng. Trong thời kỳ kháng chiến, đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã anh dũng đánh giặc, cứu nước giữ làng. Từ ngày hòa bình trở lại, đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã có nhiều cố gắng và thành tích. Đó là những ưu điểm. Trung ương và Chính phủ vui lòng khen ngợi toàn thể cán bộ và đồng bào[69].

10. “Ngày 21/2/1961, sau khi thăm tỉnh Cao Bằng, trở về Hà Nội, Bác Hồ đi xe ô tô từ Cao Bằng xuống đến gần thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định. Bác Hồ dừng chân và nghỉ trưa ở ngôi nhà trạm khí tượng thuỷ văn. Tại cuộc mít tinh trước Cổng Đồn – Thất Khê, Bác Hồ nói: “Hôm nay là ngày tết, Bác cùng các đồng chí Tố Hữu, Lê Quảng Ba, Nguyễn Khai, uỷ viên Trung ương Đảng lên thăm đồng bào…”[70]

11. Nhân Lễ kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Đội Thiếu niên tiền phong Việt Nam 15/5/1941 - 15/5/1961 (nay là Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh), theo đề nghị của Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (nay là Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho thiếu niên, nhi đồng. Trong thư Bác căn dặn: “Các cháu cũng tham gia đấu tranh bằng cách thực hiện mấy điều sau đây: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào / Học tập tốt, lao động tốt / Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt / Giữ gìn vệ sinh thật tốt / Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.

Năm điều Bác dạy thiếu niên, nhi đồng đã được phổ biến rộng khắp trong các trường học ở Việt Nam. Nghe theo lời dạy của Người, thiếu niên, nhi đồng Việt Nam hăng hái thi đua tham gia phong trào “Hai tốt”, phong trào “Thiếu nhi làm nghìn việc tốt”. Chính những đóng góp nhỏ bé của các em đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự nghiệp dựng xây đất nước. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, 5 điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng vẫn là bài học thuộc lòng quý giá để mỗi em ghi nhớ, học tập, rèn luyện và noi theo.

12. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đang diễn ra hết sức quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước anh dũng tiến lên chống Mỹ, cứu nước. Ngày 17/7/1966, lời kêu gọi của Người được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và được đăng trên báo Nhân Dân số 4484 ngày 17/7/1966. Trong lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Quân và dân miền Nam đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng đã thắng lợi vẻ vang, thực hiện mục tiêu quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà. Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành bất hủ, không chỉ phản ánh ý chí, khát vọng của toàn dân tộc mà còn trở thành động lực, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam trong suốt hành trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước./.

                                         BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ LẠNG SƠN

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.333.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.379.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.149.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.283

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.611-612

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.672, 663

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.672, 663

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.153

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.286.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64-65.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.670.

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.292.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.292.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.83-84.

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64.

[18] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.175.

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.27, 603

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.421.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.284.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.526.

[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.27, 95

[24],1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.27, 186.

[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.178-179.

[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.49.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547.

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.624.

[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.558.

[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.396

[31] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.256.

[32] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50.

[33] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611.

[34] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292.

[35] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280-281.

[36] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309, 313.

[37] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622.

[38] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17.

[39] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, H, 1975, tr. 5 - 6.

[40] Hổ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.4, tr.619.

[41] Hổ Chí Minh: Toàn  tập, Sđd, t.1, tr.284.

[42] Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd, t.7, tr.455.

[43] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t10, tr.453.

[44] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t12, tr.492.

[45] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t3, tr.1

[46] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t3, tr.1

[47] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t1, tr.511

[48] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.148

[49] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr. 175

[50] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr. 175

[51] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.53, 134

[52] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.53, 134

[53] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.246

[54] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.12, tr.445

[55] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.3

[56] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.9, tr.226

[57] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.13, tr.389

[58] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.11, tr.92

[59] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.35

[60] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.187

[61] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.64

[62] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.64

[63] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.10, tr.390

[64] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.10, tr.390

[65] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.10, tr.391

[66] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.11, tr.92

[67] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.4, tr.145

[68] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.9, tr.72

[69] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sdd, t.10, tr.145

[70] Bác Hồ với Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, tr294-295, NXB VHTT năm 1995