Lượng nước trên thế giới chiếm bao nhiêu phần trăm?

Tuy nhiên, trong tổng lượng nước trên thế giới (bao phủ hơn 70% bề mặt trái đất), chỉ có 3% là nước ngọt mà con người có thể sử dụng được (Rinkesh, 2016). Khoảng 2/3 lượng nước ngọt trên trái đất tồn tại dưới dạng những khối băng lớn và không thể sử dụng. Ước tính có 1,1 tỷ người trên thế giới thiếu tiếp cận với nguồn nước ngọt và 2,7 tỷ người bị thiếu nước ít nhất 1 tháng trong 1 năm (WWF). WWF ủng hộ mạnh mẽ việc các hệ sinh thái nước ngọt – bao gồm sông, hồ, đất ngập nước và các mạch nước ngầm – được quản lý bền vững và sử dụng hợp lý để đáp ứng cả mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học và nhu cầu phát triển của con người.

Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nước đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân. Nhờ nước, nơi đây đã trở thành khu vực sản xuất nông sản và thủy sản năng suất cao. Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với những vấn đề dai dẳng về nguồn nước như lũ lụt, xâm nhập mặn, đất phèn hóa, ô nhiễm nguồn nước và hạn hán. Những vấn đề này đe dọa đến nền sản xuất nông nghiệp của khu vực, sinh kế của người dân và làm gia tăng hiểm hoạ đối với các loài động vật và sinh cảnh, được dự báo sẽ ngày càng trở nên tồi tệ hơn do biến đổi khí hậu và sự phát triển tại thượng nguồn. Mục tiêu của WWF là đảm bảo nguồn nước và chất lượng nước của hệ thống sông Cửu Long tại  khu vực Đồng bằng sông Cửu Long được duy trì hoặc phục hồi thông qua:

  • Cải thiện quản trị tài nguyên nước tại các hệ thống sông Cửu Long thông qua củng cố các chính sách, luật pháp và mô hình quản trị;
  • Đảm bảo áp dụng các phương pháp quản lý tài nguyên nước/sông và vận động các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực mục tiêu (như dệt may, khai thác cát, nuôi trồng thủy sản, vân vân…) tham gia xử lý các rủi ro về nguồn nước và cùng phát triển các bộ tiêu chuẩn về kinh doanh/sản xuất;
  • Giảm lượng xả thải ra hệ thống kênh rạch và sông ngòi thông qua (i) thúc đẩy và thí điểm phân loại rác tại các hộ gia đình (ii) thúc đẩy các phương pháp sản xuất (và khai thác) sạch hơn đối với các mặt hàng/ ngành nghề (nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp, đánh bắt cá, khai thác cát, v.v.).

© WWF-Viet Nam / Dao Quoc Binh

Các khu bảo tồn là một trong những công cụ hiệu quả nhất giúp bảo tồn các loài động vật và sinh cảnh tự nhiên; đồng thời đóng góp cho sinh kế và phúc lợi của cộng đồng địa phương. Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, WWF làm việc chặt chẽ với các khu bảo tồn đất ngập nước để duy trì hoặc phục hồi sinh cảnh vùng nước ngọt và bảo vệ các loài bị đe doạ nghiêm trọng như Sếu đầu đỏ, thông qua:

  • Nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật và kiểm lâm về quản lý thủy văn và sinh thái của đất ngập nước;
  • Củng cố việc thực thi pháp luật và các quy định về quản lý đất ngập nước;
  • Phục hồi sinh cảnh quan trọng cho các loài đang bị đe doạ nghiêm trọng (như Công đất, Sếu đầu đỏ, chim Giang Sen, Điên điển phương Đông, Rái cá, vân vân…);
  • Đề cử thêm các khu Ramsar, khu dự trữ sinh quyển, và Vườn Di sản ASEAN mới ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long;
  • Hỗ trợ các mô hình sinh kế bền vững cho cộng đồng ở trong và xung quanh các khu bảo tồn cũng như giúp họ tham gia vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên đất ngập nước.

© Martin Harvey / WWF

Hãy hành động!

Bạn có thể làm gì?

Lượng nước trên thế giới chiếm bao nhiêu phần trăm?

Xây dựng một tương lai trong đó con người sống hài hoà với thiên nhiên

Về chúng tôi

  • Tầm nhìn
  • Cơ chế Giải quyết Khiếu nại

Hoạt động

  • Rừng
  • Đại dương
  • Nước ngọt
  • Động vật Hoang dã
  • Khí hậu và Năng lượng
  • Thực phẩm
  • Tài chính Bền vững
  • Thoả thuận Mới vì Thiên nhiên và Con người

Tin tức

  • Cập nhật mới nhất
  • Ấn phẩm
  • Đăng ký nhận bản tin
  • Câu chuyện của chúng tôi

Tham gia

  • Đối tác
  • Tình nguyện viên
  • Việc làm
  • Panda Labs

© 2020 WWF - Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên© 1986 Biểu tượng Panda năm 1986 của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên - WWF (Tên cũ là Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới)

Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thuỷ quyển bao gồm đại dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết.

Khối lượng của thuỷ quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn bộ thuỷ quyển. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm 1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%. Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ quyển phân bố không đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.

Đại dương chiếm phần quan trọng của trái đất, gồm có Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Trong các đại dương, người ta lại chia ra các vùng biển có diện tích nhỏ hơn như biển Ban Tích, biển Bắc, biển Đông, biển Nam Trung Hoa v.v… Tuy nhiên, có một số biển không có liên hệ với đại dương như biển Caxpi, biển Aran được gọi là biển hồ. Một số phần đại dương hoặc biển ăn sâu vào đất liền được gọi là vịnh như vịnh Thái Lan hoặc vịnh Bắc Bộ.

Nước đóng vai trò quan trọng như thế nào?

Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên trái đất. Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít nước cho hoạt động công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con người. Để sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn nước và 1 tấn chất bột cần 1.000 tấn nước.

Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn là chất mang năng lượng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu, thực hiện các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con người và mọi sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.

Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3, tập trung trong thuỷ quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), còn lại trong khí quyển và thạch quyển. 94% lượng nước là nước mặn, 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở hai cực, 0,6% là nước ngầm, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí quyển khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng nước trên trái đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ nước mưa (lượng mưa trên trái đất 105.000km3/năm. Lượng nước con người sử dụng trong một năm khoảng 35.000 km3, trong đó 8% cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho hoạt động nông nghiệp).