Nếu một phẫu thuật cấp cứu được chỉ định (ví dụ: chảy máu trong ổ bụng, thủng tạng rỗng, viêm tụy hoại tử), thường không có thời gian để đánh giá đầy đủ trước khi mổ. Tuy nhiên, tiền sử bệnh của bệnh nhân cần được xem xét càng nhanh càng tốt, đặc biệt là đối với tiền sử dị ứng và để giúp xác định các yếu tố làm tăng nguy cơ phẫu thuật cấp cứu (ví dụ như tiền sử bệnh chảy máu hoặc các phản ứng phụ với thuốc tê). Trước phẫu thuật, nhóm phẫu thuật có thể tham khảo ý kiến bác sỹ nội khoa để đánh giá trước mổ nhằm giảm thiểu nguy cơ bằng cách xác định các bất thường có thể sửa được và bằng cách xác định có cần phải theo dõi và điều trị thêm trước phẫu thuật hay không. Ngoài ra, các phẫu thuật nên được trì hoãn khi có thể để xác định kỹ các rối loạn bệnh kèm theo (ví dụ, cao huyết áp, tiểu đường, bất thường huyết học) có thể được kiểm soát tối ưu. Đánh giá trước phẫu thuật định kỳ thay đổi đáng kể từ bệnh nhân này đến bệnh nhân khác vì nguy cơ phẫu thuật thay đổi tùy theo yếu tố nguy cơ của bệnh nhân Các yếu tố nguy cơ thuộc về bệnh nhân Nếu một phẫu thuật cấp cứu được chỉ định (ví dụ: chảy máu trong ổ bụng, thủng tạng rỗng, viêm tụy hoại tử), thường không có thời gian để đánh giá đầy đủ trước khi mổ. Tuy nhiên, tiền sử bệnh... đọc thêm , và rủi ro của phẫu thuật Các yếu tố nguy cơ của phẫu thuật Nếu một phẫu thuật cấp cứu được chỉ định (ví dụ: chảy máu trong ổ bụng, thủng tạng rỗng, viêm tụy hoại tử), thường không có thời gian để đánh giá đầy đủ trước khi mổ. Tuy nhiên, tiền sử bệnh... đọc thêm . Tiền sửTiền sử trước mổ bao gồm thông tin về tất cả những điều sau đây:
Nếu cần đặt ống thông bàng quang, bệnh nhân cần được hỏi về việc đi tiểu hàng ngày và phẫu thuật tiền liệt tuyến trước đó. Khám lâm sàngKhám thực thể không chỉ nhắm đến những vùng bị ảnh hưởng bởi phẫu thuật mà còn cả hệ thống tim phổi cũng như tìm kiếm các dấu hiệu nhiễm trùng đang diễn ra (ví dụ như đường hô hấp trên, da). Khi gây tê tủy sống có thể sẽ được sử dụng, bệnh nhân cần được đánh giá về chứng vẹo cột sống và các bất thường về mặt giải phẫu khác có thể làm phức tạp việc chọc tủy sống. Bất kỳ rối loạn nhận thức nào, đặc biệt ở những bệnh nhân cao tuổi người mà sẽ được gây mê nói chung, đều cần phải chú ý. Triệu chứng rối loạn chức năng cơ quan trước đó có thể trở nên rõ ràng hơn sau phẫu thuật, và nếu không phát hiện trước, có thể được hiểu sai như là một biến chứng phẫu thuật. Xét nghiệmKhông cần xét nghiệm trước phẫu thuật ở những bệnh nhân khỏe mạnh trải qua các hoạt động có nguy cơ chảy máu hoặc các biến chứng khác rất thấp; kết quả bất thường có nhiều khả năng là dương tính giả hơn ở bệnh nhân có các triệu chứng hoặc các yếu tố nguy cơ. Ở bệnh nhân có triệu chứng hoặc ở những bệnh nhân trải qua các phẫu thuật có nguy cơ cao bị chảy máu nhiều hoặc các biến chứng khác, đánh giá có thể bao gồm các xét nghiệm sau:
Bệnh nhân có triệu chứng của bệnh mạch vành cần thêm các xét nghiệm (thí dụ stress testing, chụp mạch vành) trước phẫu thuật. Các yếu tố nguy cơ của phẫu thuậtRủi ro về phẫu thuật cao nhất với những điều sau:
Bệnh nhân trải qua phẫu thuật có nguy cơ chảy máu nhiều nên xem xét truyền máu đồng loại. Truyền máu đồng loại làm giảm nguy cơ nhiễm trùng và phản ứng truyền máu. Phẫu thuật khẩn cấp có nguy cơ tử vong cao hơn phẫu thuật theo lịch có sự chuẩn bị đầy đủ. Các yếu tố nguy cơ thuộc về bệnh nhânCác yếu tố nguy cơ bệnh nhân được phân tầng bởi một số bác sĩ lâm sàng sử dụng các tiêu chí được công bố. Tuổi cao có liên quan đến việc giảm dự trữ sinh lý và bệnh tật cao hơn nếu xảy ra biến chứng. Tuy nhiên, các rối loạn mãn tính có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong hơn là chỉ riêng tuổi đơn thuần. Tuổi già không phải là một chống chỉ định tuyệt đối cho phẫu thuật. Các yếu tố nguy cơ tim mạchCác yếu tố nguy cơ tim mạch tăng đáng kể nguy cơ cho phẫu thuật. Nguy cơ tim mạch thường được đánh giá bằng cách sử dụng Chỉ số Nguy cơ Tim mạch đã được Sửa đổi của Hiệp hội Tim mạch Mỹ (American Heart Association)xem Hình: Thuật toán phân chia rủi ro cho phẫu thuật không phải tim mạch Thuật toán phân chia rủi ro cho phẫu thuật không phải tim mạch Nếu một phẫu thuật cấp cứu được chỉ định (ví dụ: chảy máu trong ổ bụng, thủng tạng rỗng, viêm tụy hoại tử), thường không có thời gian để đánh giá đầy đủ trước khi mổ. Tuy nhiên, tiền sử bệnh... đọc thêm ). Nó xem xét các yếu tố độc lập sau đây về nguy cơ tim:
Nguy cơ biến chứng tim tăng cùng với sự gia tăng các yếu tố nguy cơ:
Phẫu thuật có nguy cơ cao (ví dụ phẫu thuật mạch máu, mở ngực hoặc mở bụng) cũng không phụ thuộc nguy cơ tim mạch cao trong mổ. Bệnh nhân có các triệu chứng tim mạch (ví dụ như suy tim hoặc đau thắt ngực không ổn định) có nguy cơ đặc biệt cao trong mổ. Bệnh nhân có đau thắt ngực không ổn định Đau thắt ngực không ổn định Chứng đau thắt ngực là một hội chứng lâm sàng về cảm giác khó chịu hoặc áp lực trước thời gian do thiếu máu cơ tim thoáng qua mà không phải nhồi máu. Cơn đau thắt ngực thường xuất hiện bởi gắng... đọc thêm có khoảng 28% nguy cơ nhồi máu cơ tim trong mổ. Ở những bệnh nhân bị đau thắt ngực ổn định, nguy cơ tương ứng với mức độ luyện tập. Bệnh nhân có các triệu chứng tim hoạt động do đó cần phải đánh giá kỹ lưỡng. Ví dụ, nguyên nhân gây suy tim nên được xác định để theo dõi và điều trị trong khi phẫu thuật có thể được tối ưu hóa trước khi lựa chọn phẫu thuật. Các xét nghiệm tim mạch khác, chẳng hạn như siêu âm tim Siêu âm tim gắng sức Siêu âm tim sử dụng sóng siêu âm để tạo ra hình ảnh của tim, van tim và các mạch lớn. Siêu âm tim giúp đánh giá độ dày thành tim (ví dụ, trong phì đại cơ tim hoặc thành tim mỏng), chuyển động... đọc thêm hoặc thậm chí chụp mạch vành phải được xem xét nếu có bằng chứng về thiếu máu cục bộ đảo ngược trong việc đánh giá trước phẫu thuật. Chăm sóc trước phẫu thuật nhằm mục đích kiểm soát các rối loạn (ví dụ như suy tim, đái tháo đường) bằng các phương pháp điều trị tchuẩn. Ngoài ra, cần phải có các biện pháp để giảm thiểu nhịp tim nhanh trong thời gian phẫu thuật, nhịp tim nhanh có thể làm nặng thêm chứng suy tim và tăng nguy cơ mắc bệnh nhồi máu cơ tim; ví dụ, kiểm soát đau nên được tối ưu hóa và điều trị thuốc β-blockers nên được xem xét, đặc biệt là nếu bệnh nhân đã dùng thuốc β-blockers. Cần phải xem xét đặt stent mạch vành cho những bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định. Nếu rối loạn nhịp tim không thể được điều chỉnh trước khi phẫu thuật hoặc nếu bệnh nhân có nguy cơ cao bị biến chứng tim mạch, thì nên theo dõi bằng catheter động mạch phổi.xem Theo dõi ống thông động mạch phổi Theo dõi ống thông động mạch phổi Một số theo dõi phải tiến hành trực tiếp (ví dụ như quan sát trực tiếp và khám thực thể) và ngắt quãng, với tần suất tùy thuộc vào bệnh của bệnh nhân. Theo dõi này thường bao gồm đo các dấu... đọc thêm ) Đôi khi rủi ro về tim mạch cao hơn lợi ích của phẫu thuật. Thuật toán phân chia rủi ro cho phẫu thuật không phải tim mạch* Các tình trạng lâm sàng: bao gồm hội chứng vành không ổn định, suy tim mất bù, loạn nhịp nặng, bệnh van tim nặng. Xem ACC / AHA guidelines. Các yếu tố nguy cơ lâm sàng bao gồm bệnh mạch vành, tiền sử suy tim, tiền sử bệnh mạch não, đái tháo đường, và creatinine trước phẫu thuật > 2,0 mg / dL. ACC = American College of Cardiology; AHA = Hiệp hội Tim Mạch Hoa Kỳ; HR = nhịp tim; MET = tương đương trao đổi chất. Phù hợp với Fleisher LA, Beckman JA, Brown KA và cộng sự: Các hướng dẫn của ACC / AHA 2007 về đánh giá tim mạch và điều trị phẫu thuật ngoài tim; một báo cáo của Tổ chức Tim Mạch Hoa Kỳ / Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ về Hướng dẫn thực hành. Lưu hành 116: e418-e500, 2007. Nhiễm trùngNhững trường hợp nhiễm trùng phát hiện ra trước phẫu thuật nên được điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên, khi nhiễm trùng cũng không nên trì hoãn phẫu thuật trừ cấy ghép vật liệu nhân tạo; trong những trường hợp như vậy, phẫu thuật nên được hoãn lại cho đến khi nhiễm trùng được kiểm soát hoặc loại bỏ. Bệnh nhân bị nhiễm trùng đường hô hấp cần được điều trị và có bằng chứng cho thấy nhiễm trùng đã được giải quyết trước khi gây tê, gây mê. Nhiễm virut có sốt hoặc không sốt được điều trị trước phẫu thuật, đặc biệt khi gây mê. Mất cân bằng nước và điện giảiSự mất cân bằng nước và điện giải nên được điều chỉnh trước khi phẫu thuật. Hạ kali máu và tăng kali máu phải được điều chỉnh trước khi gây mê để giảm nguy cơ loạn nhịp có thể gây tử vong. Mất nước và giảm thể tích tuần hoàn phải được bù bằng dịch truyền tĩnh mạch trước khi gây mê để tránh hạ huyết áp nặng khi gây mê toàn thân. Rối loạn dinh dưỡngSuy dinh dưỡng Tổng quan về Thiếu dinh dưỡng Thiếu dinh dưỡng là một dạng của suy dinh dưỡng. (Suy dinh dưỡng cũng bao gồm thừa dinh dưỡng -xem Béo phì và hội chứng chuyển hóa). Thiếu dinh dưỡng có thể là kết quả từ ăn không đủ các chất... đọc thêm tăng nguy cơ biến chứng sau mổ ở người lớn. Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá trước phẫu thuật qua hỏi tiền sử, khám lâm sàng và qua các xét nghiệm. Các chỉ số về suy dinh dưỡng bao gồm:
Albumin huyết thanh là một chỉ số không đắt tiền, có sẵn và đáng tin cậy về suy dinh dưỡng; đo nồng độ albumin máu bệnh nhân có nguy cơ suy dinh dưỡng trước mổ. Nồng độ albumin máu < 2,8 g / dL tăng tỉ lệ bệnh và tử vong. Vì chu kỳ bán hủy của albumin máu là 14 đến 18 ngày, do đó nồng độ albumin máu không phản ánh tình trạng suy dinh dưỡng cấp. Nếu nghi ngờ suy dinh dưỡng cấp tính, đo nồng độ protein có thời gian bán hủy ngắn hơn; ví dụ transferrin (chu kỳ bán hủy 7 ngày) hoặc transthyretin (thời gian bán hủy từ 3 đến 5 ngày). Cung cấp dinh dưỡng trước và sau mổ có thể cải thiện kết quả ở những bệnh nhân có tiền sử giảm cân và nồng độ protein cho thấy suy dinh dưỡng nặng. Trong một số trường hợp, phẫu thuật có thể bị trì hoãn để bệnh nhân được điều trị suy dinh dưỡng, đôi khi trong vài tuần. Bệnh béo phì nặng (BMI> 40 kg / m2) tăng nguy cơ tử vong do phẫu thuật vì làm tăng nguy cơ rối loạn tim phổi (ví dụ như cao huyết áp, tăng áp lực động mạch phổi, tăng gánh thất trái, suy tim, bệnh ĐM vành). Béo phì là một yếu tố nguy cơ độc lập huyết khối tĩnh mạch sâu Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) là tình trạng máu đông ở tĩnh mạch sâu (thường là bắp chân hoặc đùi) hoặc vùng chậu. DVT là nguyên nhân chính gây thuyên tắc mạch phổi. DVT là hậu quả của tình... đọc thêm và tắc mạch phổi; dự phòng huyết khối tĩnh mạch được chỉ định ở hầu hết bệnh nhân béo phì. Béo phì cũng làm tăng nguy cơ biến chứng vết mổ sau phẫu thuật (ví dụ, hoại tử mỡ tại vết mổ, nhiễm trùng, bục vết mổ). Thông tin thêm
|