Ngân hàng trung ương việt nam tiếng anh là gì năm 2024

Nhà sáng lập Nền tảng luyện thi thông minh Prep. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong giảng dạy và luyện thi, Thầy Tú đã giúp hàng ngàn học viên đạt điểm cao trong kỳ thi IELTS. Bên cạnh đó, Thầy Tú Phạm cũng là chuyên gia tham vấn trong các chương trình của Hội Đồng Anh và là diễn giả tại nhiều sự kiện, chương trình và hội thảo hàng đầu về giáo dục.

Ngân hàng trung ương (Central Bank) là thuật ngữ được sử dụng ngân hàng đầu não của mỗi quốc gia, là ngân hàng độc quyền phát và thực hiện các chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Ngân hàng trung ương việt nam tiếng anh là gì năm 2024

Hình minh họa. Nguồn: Vietnamfinance

Ngân hàng trung ương (Central Bank)

Khái niệm

Ngân hàng trung ương trong tiếng Anh gọi là Central Bank.

Căn cứ theo hình thức pháp lí, qui định về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

"1.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.

3. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ". (Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12)

Chức năng của Ngân hàng trung ương

Chức năng phát hành tiền

Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền mặt (gồm tiền giấy và tiền kim loại). Thông qua chức năng này, ngân hàng trung ương có thể tác động và ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.

Ngân hàng trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua bốn kênh:

- Kênh tín dụng đối với chính phủ

Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với chính phủ hay còn gọi là kênh ngân sách nhà nước. Thông thường, ngân sách nhà nước rơi vào trạng thái sau: ngân sách nhà nước cân bằng, ngân sách nhà (thặng dư), ngân sách nhà nước bội chi (thâm hụt).

Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với chính phủ không chỉ đáp ứng trong trường hợp để xử lý bội chi trong ngân sách nhà nước mà còn cung ứng vốn trong ngân sách nhà nước theo từng đợt phát hành trái phiếu chính phủ.

- Kênh tín dụng đối với hệ thống ngân hàng trung gian

Ngân hàng trung ương có thể cho vay đối với các ngân hàng trung gian với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng hoặc với tư cách là ngân hàng điều tiết.

Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới các hình thức: Cho vay tái cấp vốn và cho vay thanh toán.

- Kênh thị trường mở

Ngân hàng trung ương tổ chức và thực hiện mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trên thị trường mở.

- Kênh thị trường ngoại hối:

Ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phải can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết và không vì mục đích lợi nhuận. Khi cung cầu ngoại hối mất cân đối thì ngân hàng trung ương can thiệp với tư cách là người mua, người bán trên thị trường.

Chức năng ngân hàng của các ngân hàng

- Mở tài khoản, nhận tiền gửi và quản lí các khoản tiền gửi của các ngân hàng trung gian.

- Trung gian thanh toán giữa các ngân hàng trung gian.

- Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian.

Chức năng ngân hàng của Nhà nước: Làm đại lí cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu chính phủ cũng như thanh toán các tiền gốc và lãi trái phiếu; mở tài khoản và giao dịch với hệ thống kho bạc Nhà nước; thực hiện thanh toán theo yêu cầu của chính phủ; cấp tín dụng cho chính phủ khi cần thiết,...

Chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và các hoạt động ngân hàng

- Quản lí hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng: Ngân hàng trung ương thực hiện quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.

- Thực hiện quản lí vĩ mô đối với nền kinh tế trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng: Nhằm các mục tiêu ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và hạn chế thất nghiệp.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Thị trường tài chính và các đinh chế tài chính, NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh).

Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.

Sự ra đời của ngân hàng trung ương[sửa | sửa mã nguồn]

Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán (promises to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Châu Á. Ngược lại 500 năm trước đây, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền (Knight Templar) thời Trung Cổ sử dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng trung ương. Các giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho rằng các hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.

Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden) ra đời năm 1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of England) ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó. Ý tưởng về ngân hàng trung ương cũng được Marx ủng hộ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bằng việc đề xuất "tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước". Trước nhu cầu quản lý nền tài chính quốc gia, các ngân hàng trung ương trên thế giới lần lượt ra đời. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill). Tổng thống Woodrow Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.

Từ đầu thế kỷ XX, các ngân hàng trung ương đã hình thành tuy nhiên các ngân hàng này vẫn thuộc sở hữu tư nhân, sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 thì mới trở thành ngân hàng sở hữu của nhà nước.

Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (Tiếng Anh là People’s Bank of China – Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa) bắt đầu các chức năng ngân hàng trung ương năm 1979 cùng với chính sách cải cách kinh tế. Vai trò ngân hàng trung ương của nó được đẩy mạnh năm 1989 khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là một ngân hàng trung ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có tham khảo Ngân hàng Trung ương châu Âu vốn là mô hình ngân hàng trung ương mới nhất, chi phối ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản lý kinh tế quốc gia cho các ngân hàng đó.

Chức năng của ngân hàng trung ương[sửa | sửa mã nguồn]

Ngân hàng trung ương liên quan đến bốn chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của Chính phủ, quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ 3 chức năng này.

Phát hành tiền tệ[sửa | sửa mã nguồn]

Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do Chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang – ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ – không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó, Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự trữ Liên bang phát hành. Nhưng hiện nay, đã có rất nhiều cuộc nghiên cứu, và họ đã phát hiện ra, thực chất Cục Dự trữ Liên bang Mỹ mới có quyền phát hành tiền tệ, Chính phủ Mỹ không có quyền này.

Ngân hàng của các ngân hàng[sửa | sửa mã nguồn]

Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất). (Xem thêm Chính sách lãi suất ngân hàng)

Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. (Xem thêm Nghiệp vụ thị trường mở)

Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ 1 lượng tiền nhất định. Thông thường, lượng tiền này được quy định tương đương với 1 tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng.

Ngân hàng của Chính phủ[sửa | sửa mã nguồn]

Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho Chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.

Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho Chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối (xem Can thiệp tỷ giá).

Ngân hàng Central là gì?

Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ.

Cấp tín dụng cho các ngân hàng Trung giản thể hiện chức năng gì của ngân hàng trung ương?

Cấp tín dụng cho ngân hàng trung gian Hiểu một cách đơn giản thì đây chính là hình thức cấp vốn của ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian trong việc mở rộng hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, đơn vị này còn có chức năng bảo vệ các ngân hàng trung gian khỏi nguy cơ phá sản bằng tín dụng.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời khi nào?

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chính thức được thành lập theo Sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hơn sáu thập kỷ qua, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng phát triển và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Tên gọi của ngân hàng trung ương của Việt Nam hiện nay là gì?

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tên viết tắt: SBV hoặc NHNNVN) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ Việt Nam, là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ...