Nghị định 88 đánh giá viên chức

SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 56/2015/NĐ-CP NGÀY 09 THÁNG 6 NĂM 2015 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ PHÂN LOẠI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008;

Căn cứ Luật viên chức ngày 15 tháng 11 năm 2010;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ;

Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức.

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức như sau:

1. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 như sau:

“2. Thời điểm đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức được tiến hành trong tháng 12 hàng năm, trước khi thực hiện việc bình xét thi đua, khen thưởng hàng năm.

Đối với đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và một số lĩnh vực khác có thời điểm kết thúc năm công tác trước tháng 12 hàng năm, thời điểm đánh giá, phân loại công chức, viên chức do người đứng đầu quyết định”.

2. Sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 24 như sau:

“d) Người đứng đầu cơ quan, đơn vị cấp trên trực tiếp tham khảo các ý kiến tham gia tại điểm b và c Khoản này, quyết định đánh giá, phân loại đối với người đứng đầu.

Người đứng đầu cơ quan, đơn vị tham khảo các ý kiến tham gia tại điểm b và c Khoản này, quyết định đánh giá, phân loại đối với cấp phó do mình bổ nhiệm; trường hợp theo phân cấp quản lý cấp phó không do mình bổ nhiệm thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị tham khảo các ý kiến tham gia tại điểm b và c Khoản này, có trách nhiệm nhận xét bằng văn bản và đề nghị người đứng đầu cơ quan, đơn vị cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc đánh giá, phân loại đối với cấp phó của mình”.

3. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 26 như sau:

“b) Các tiêu chí quy định tại điểm b, c và d khoản 1 Điều 25 Nghị định này.”

4. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 27 như sau:

“b) Các tiêu chí quy định tại điểm b, c và d khoản 1 Điều 25 Nghị định này.”

5. Sửa đổi, bổ sung Điều 29 như sau:

“Điều 29. Tổ chức thực hiện

1. Căn cứ điều kiện cụ thể của cơ quan, tổ chức, đơn vị, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị xây dựng các tiêu chí chi tiết để đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, trong đó phải tính đến tỷ lệ khối lượng công việc của cán bộ, công chức, viên chức đã thực hiện so với khối lượng công việc chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình khi đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin để thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm phù hợp với các quy định tại Nghị định này.

2. Người đứng đầu cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc đánh giá, phân loại đối với cán bộ, công chức, viên chức hàng năm theo quy định tại Nghị định này và gửi báo cáo kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý về Bộ Nội vụ để tổng hợp trước ngày 01 tháng 3 hàng năm.

3. Bộ Nội vụ có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm của các bộ, ngành, địa phương và công khai kết quả tổng hợp đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm.”

Điều 2. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2017.

Điều 3. Trách nhiệm thi hành

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổ chức, cá nhân liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./

https://snv.binhdinh.gov.vn/vi/news/cong-chuc-vien-chuc/quy-dinh-moi-ve-danh-gia-xep-loai-chat-luong-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-43.html /themes/egov/images/no_image.gif

Theo đó, Nghị định số 90/2020/NĐ-CP của Chính phủ đã có một số thay đổi trong thực hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức như sau:

Thứ nhất, về tên gọi. Nghị định đã sử dụng tên gọi “đánh giá, xếp loại chất lượng” để thay thế cho cụm từ “đánh giá, phân loại” cán bộ, công chức, viên chức như hiện nay, nhằm cụ thể hóa quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức ngày 25/11/2019, hướng đến công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức được liên thông với quy định của Đảng về đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên.

Thứ hai, về đánh giá đối với cán bộ, công chức, viên chức có thời gian công tác trong năm chưa đủ 06 tháng. Quy định này nhằm khắc phục những vướng mắc, khó khăn trong đánh giá, xếp loại đối với những trường hợp được tuyển dụng, nghỉ không tham gia công tác, nghỉ chế độ thai sản trong năm. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức có thời gian công tác trong năm chưa đủ 06 tháng thì không thực hiện việc đánh giá, xếp loại chất lượng nhưng vẫn phải kiểm điểm thời gian công tác trong năm, trừ trường hợp nghỉ chế độ thai sản.

Cán bộ, công chức, viên chức nghỉ không tham gia công tác theo quy định của pháp luật trong năm từ 03 tháng đến dưới 06 tháng thì vẫn thực hiện đánh giá nhưng không xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.

Cán bộ, công chức, viên chức nghỉ chế độ thai sản theo quy định của pháp luật thì kết quả xếp loại chất lượng trong năm là kết quả xếp loại chất lượng của thời gian làm việc thực tế của năm đó.

Đồng thời, quy định cụ thể trong việc đánh giá, xếp loại đối với cán bộ, công chức, viên chức chuyển công tác thì cơ quan, tổ chức, đơn vị mới có trách nhiệm đánh giá, xếp loại chất lượng. Trường hợp có thời gian công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ từ 06 tháng trở lên thì phải kết hợp với ý kiến nhận xét của cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ, trừ trường hợp không còn cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ.

Thứ ba,về mức xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức. Nghị định quy định cán bộ, công chức, viên chức được xếp loại chất lượng theo 04 mức: (i) Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; (ii) Hoàn thành tốt nhiệm vụ; (iii) Hoàn thành nhiệm vụ; (iv) Không hoàn thành nhiệm vụ. Điểm mới đối với quy định này là cán bộ, công chức được xếp loại ở mức “hoàn thành nhiệm vụ” thay thế quy định mức phân loại hiện hành là “hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực”, đã khắc phục những vướng mắc trong công tác đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức hiện nay, đảm bảo sự liên thông, thống nhất với các quy định của Đảng trong đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên.

Thứ tư,về sự liên thông giữa đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức với đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên. Theo đó, kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức theo quy định tại Nghị định này được sử dụng làm cơ sở để liên thông trong đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên.

Thứ năm,về giải quyết kiến nghị. Nghị định đã sử dụng riêng 01 điều (Điều 24) quy định về giải quyết kiến nghị đối với kết quả đánh giá, xếp loại, nhằm phát huy quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức sau khi nhận được thông báo kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng, trường hợp cán bộ, công chức, viên chức không nhất trí với kết luận đánh giá, xếp loại chất lượng thì có quyền kiến nghị. Việc giải quyết kiến nghị do người có thẩm quyền đánh giá, xếp loại giải quyết.

Ngoài ra, Nghị định đã phân cấp để người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức ban hành hoặc giao người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng công chức, viên chức ban hành Quy chế đánh giá phù hợp với đặc thù của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhằm bảo đảm công tác đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức được khách quan, công bằng, chính xác; khắc phục tình trạng nể nang, trù dập, thiên vị, hình thức; đảm bảo công tác đánh giá, xếp loại được thực hiện theo đúng thẩm quyền quản lý, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.