Những nhà thơ nữ trong phong trào thơ mới

Những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới? Một số bạn quan tâm đến phong trào Thơ Mới, đã đặt câu hỏi với tôi như vậy. Quả là câu hỏi cực kỳ gay cấn! Cứ nhìn lại kinh nghiệm tiếp xúc của con người với thi ca, chắc chắn ta sẽ thấy ngay một điều rất không chắc chắn: bài thơ ấy có thể hay đối với tôi nhưng lắm khi đối với bạn lại "chẳng là cái đinh gì"; và ngay cả với tôi, bài thơ ấy có thể "hay ơi là hay" ngày hôm nay, song hôm qua và ngày mai thì chưa hẳn. Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Các cụ xưa đã tổng kết thế mà! Cách đây đúng 65 năm, ngày 10-3-1932, trên tờ Phụ Nữ Tân Văn số 122, Phan Khôi đã tung "một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" với bài "Tình già". Đó là thời điểm "cuộc cách mệnh về thi ca đã nhóm dậy", theo nhận định của nhà nghiên cứu Hoài Thanh. Phong trào Thơ Mới ra đời, trở thành "hiện tượng thơ ca lớn nhất thế kỷ" như đánh giá của nhà thơ Tế Hanh, đưa thơ ca Việt Nam từ thời kỳ cận đại bước vào thời kỳ hiện đại và còn in đậm dấu ấn ảnh hưởng trong thi mạch nước nhà trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. Trải qua nhiều bể dâu thời cục, có lúc có nơi, Thơ Mới được suy tôn hết lời hoặc bị chê bai ruồng rẫy - ngay cả với những người trong cuộc! Đến nay, Thơ Mới đang phục hồi những giá trị đích thực tự thân. Khảo về Thơ Mới, giáo sư Lê Đình Kỵ viết: "Thơ Mới đã đóng góp hàng trăm bài thơ hay, trong đó không ít bài thơ có thể xếp vào loại hay nhất của nền thơ ca dân tộc". Nhưng như tôi đã trình bày, xác định những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới lại là vấn đề hết sức chủ quan, tùy căn tạng từng cá nhân trong từng thời khoảng cụ thể, nên khó tìm được tiếng nói chung lắm lắm! Năm 1992, nhân kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ Mới ra đời, một "Ban liên lạc phong trào Thơ Mới" được thành lập, thoạt đầu gồm các thành viên: Huy Cận, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh, Anh Thơ, Hà Minh Đức. Cũng trong năm đó, 3 cuộc hội thảo về Thơ Mới được tổ chức tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; rồi năm kế tiếp, kỷ yếu Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca được NXB Giáo Dục ấn hành. Thực hiện kỷ yếu này, giáo sư Hà Minh Đức đã mời một số nhà thơ, nhà phê bình am hiểu và có phần đóng góp cho phong trào Thơ Mới chọn lựa khoảng mươi bài thơ mới hay nhất. Hầu hết người được mời đều cảm thấy khó khăn và kết quả cũng rất "mỗi người một vẻ". Xin giới thiệu danh mục lựa chọn ấy để quý bạn tham khảo: Huy Cận: 1. Bên sông đưa khách (Thế Lữ) 2. Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) 3. Nguyệt cầm (Xuân Diệu) 4. Ở Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 5. Ngậm ngùi (Huy Cận) 6. Tràng giang (Huy Cận) 7. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) 8. Lỡ bước sang ngang (Nguyễn Bính) 9. Quê hương (Tế Hanh) 10. Thu (Chế Lan Viên) Anh Thơ: 1. Nụ tầm xuân (Xuân Diệu) 2. Tràng giang (Huy Cận) 3. Ở Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 4. Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) 5. Quê hương (Tế Hanh) 6. Say đi em (Vũ Hoàng Chương) 7. Cô hái mơ (Nguyễn Bính) 8. Xuân về (Chế Lan Viên) 9. Nhớ rừng (Thế Lữ) Nguyễn Xuân Sanh: 1. Tiếng sáo thiên thai (Thế Lữ) 2. Tương tư chiều (Xuân Diệu) 3. Tràng giang (Huy Cận) 4. Thơ sầu rụng (Lưu Trọng Lư) 5. Ông đồ (Vũ Đình Liên) 6. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) 7. Quê hương (Tế Hanh) 8. Trưa đơn giản (Chế Lan Viên) 9. Ở Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 10. Tương tư (Nguyễn Bính) Tế Hanh: 1. Tiếng sáo thiên thai (Thế Lữ) 2. Tương tư chiều (Xuân Diệu) 3. Tràng giang (Huy Cận) 4. Thơ sầu rụng (Lưu Trọng Lư) 5. Ông đồ (Vũ Đình Liên) 6. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) 7. Quê hương (Tế Hanh) 8. Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 9. Trưa đơn giản (Chế Lan Viên) 10. Tương tư (Nguyễn Bính) 11. Bến đò trưa hè (Anh Thơ) 12. Tiếng địch sông Ô (Huy Thông) 13. Vân muội (Vũ Hoàng Chương) 14. Buồn xưăhoặc: Đất thơm) (Nguyễn Xuân Sanh) 15. Tiếng hát sông Hương (Tố Hữu) Hoài Chân: 1. Nhớ rừng (Thế Lữ) 2. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) 3. Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) 4. Tràng giang (Huy Cận) 5. Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) 6. Ông đồ (Vũ Đình Liên) Nhà phê bình Hoài Chân, đồng tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam - ấn phẩm cơ bản và quan trọng nhất trong việc tìm hiểu sự ra đời, sự phát triển và những thành công rực rỡ của Thơ Mới - đã lưu ý: cần phân biệt tác giả tiêu biểu và bài hay. Có tác giả nổi tiếng nhưng khó chọn bài hay như Anh Thơ và ngược lại, có bài hay nhưng tác giả chẳng nổi bật như Vũ Đình Liên. Giáo sư Hà Minh Đức cũng nêu danh mục những bài thơ hay nhất mà ông chọn cùng ý kiến của hai nhà thơ "hậu Thơ Mới" Hà Minh Đức: 1. Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) 2. Tràng giang (Huy Cận) 3. Muà xuân chín (Hàn Mặc Tử) 4. Nắng mới (Lưu Trọng Lư) 5. Mưa xuân (Nguyễn Bính) 6. Nhớ rừng (Thế Lữ) 7. Quê hương (Tế Hanh) 8. Say đi em (Vũ Hoàng Chương) 9. Tống biệt hành (Thâm Tâm) 10. Thu (Chế Lan Viên) 11. Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ) 12. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) Vũ Quần Phương: 1. Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) 2. Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) 3. Đi giữa đường thơm (Huy Cận) 4. Tràng giang (Huy Cận) 5. Nhớ rừng (Thế Lữ) 6. Bên sông đưa khách (Thế Lữ) 7. Trưa đơn giản (Chế Lan Viên) 8. Ở Đây thôn Vỹ Giạ (Hàn Mặc Tử) 9. Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) 10. Quê hương (Tế Hanh) 11. Mưa Xuân (Nguyễn Bính) 12. Bến đò chiều xuân (Anh Thơ) 13. Chợ tết (Đoàn Văn Cừ) 14. Ông đồ (Vũ Đình Liên) 15. Say đi em (Vũ Hoàng Chương) 16. Tiếng đàn mưa (Bích Khê) 17. Gửi Trương Tửu (Nguyễn Vỹ) Ngô Văn Phú: 1. Vội vàng (Xuân Diệu) 2. Tràng giang (Huy cận) 3. Bẽn lẽn (Hàn Mặc Tử) 4. Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) 5. Phương xa (Vũ Hoàng Chương) 6. Chân quê (Nguyễn Bính) 7. Kỹ nữ (Đinh Hùng) 8. Nhớ rừng (Thế Lữ) 9. Tiếng địch sông Ô (Huy Thông) 10. Ông đồ (Vũ Đình Liên) Các bạn yêu thơ quý mến! Bạn hãy thong dong đọc lại tất cả những bài thơ trong phong trào Thơ Mới mà bạn đã sưu tập được và tự mình - chứ không phải ai khác - lập danh mục những bài hay nhất theo cách cảm thụ, cách thẩm định của riêng mình. Cũng cần nói thêm: mặc dầu Thơ Mới vẫn còn tạo nguồn và lưu dấu trong thơ ca hôm nay, nhưng Thơ Mới đến bây giờ đã là thơ cũ! Việc thưởng thức, học tập, nghiên cứu Thơ Mới thực sự có ý nghĩa khi trên cơ sở kế thừa tinh hoa từ thi ca quá khứ, thơ Việt Nam hôm nay tiếp tục khai phá những lộ trình mới để tiếp cận những chân trời mới. Tuy chưa rầm rộ như lớp "thi nhân tiền chiến" của thập niên 30-40, song thơ Việt Nam hiện thời đang lấp lóe đó đây bao tìm tòi, bao thể nghiệm cách tân đầy hứa hẹn. Bạn có cùng nhận thấy như tôi chăng?

+ Sự hình thành của phong trào Thơ mới có cơ sở từ các điều kiện văn hóa, xã hội của Việt Nam 1930 – 1945 :

– Sự phát triển mau lẹ đông đảo của tầng lớp tiểu tư sản thành thị tạo nên một thế hệ nhà văn và độc giả mới với những nhu cầu sáng tác và thưởng thức mới.

– Sự ảnh hưởng sâu sắc của phương Tây từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần đã mở đường cho sự hình thành văn chương lãng mạn Việt Nam trong đó có Thơ mới

– Sự ngột ngạt về chính trị, kinh tế đã tạo ra sự hoang mang thấy vọng và tâm lý thoát ly hiện thực trong phần lớn thanh niên. Họ muốn thoát ly thực tế đen tối, xa lánh chính trị mà họ cảm thấy ồn ào mà vô hiệu bằng cách tìm đến con đường văn chương lãng mạn.

+ Như vậy, phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới. Nó là kết quả không thể không có của một cuộc biến thiên vĩ đại của lịch sử. (Hoài Thanh)

b. Quá trình:

– Những mầm mống đầu tiên dẫn đến sự hình thành của Thơ mới đã xuất hiện vào những năm 1920. Lác đác xuất hiện những bài thơ không niêm không luật, không hạn chữ, hạn câu. Đặc biệt, thơ Tản Đà đã phảng phất chút bâng khuâng chút phóng túng của thời sau” (Hoài Thanh)

– Năm 1932 được xem là dấu mốc đánh dấu sự ra đời của Thơ mới với bài thơ Tình già của Phan Khôi – đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì  hết

– 1932 – 1935 : Thơ mới tranh đấu gắt gao với thơ cũ, dần dần chiếm lĩnh thi đàn và khẳng định vị trí của mình với các nhà thơ tiêu biểu : Lưu Trọng Lư, Thế Lữ…

– 1936 – 1939 : Thơ mới nở rộ, đạt được nhiều thành tựu với hàng loạt các tác giả : Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên….

– 1940 – 1945 : Thơ mới đi dần vào bế tắc. Xuất hiện các xu hướng thoát ly tiêu cực : nhóm Dạ Đài, Xuân Thu Nhã Tập… Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc cũng như trong lịch sử văn học, Thơ mới chấm dứt sự tồn tại của nó, khép lại một thời đại trong thi ca.

2. Đóng góp của phong trào Thơ mới trong văn học Việt Nam :

+ Thơ mới có đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa nền thi ca dân tộc, xét trên cả nhiều phương diện : 

– Về quan niệm nghệ thuật: Nếu thơ ca trung đại coi trọng chức năng giáo hóa cho rằng văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí thì phong trào thơ mới đã xác lập một quan niệm hoàn toàn mới mẻ : quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật. Các tác giả Thơ mới nhận mình là những khách tình si,  không chuyên tâm, không chủ nghĩa. Tâm hồn lãng  mạn  của  họ ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây. Họ phụng thờ cái Đẹp và sáng tạo vì cái Đẹp.

– Về nội dung tư tưởng: Thơ ca trung đại ít chú trọng yếu tố cá nhân. Thơ mới lại thực sự là tiếng nói của cá nhân tràn đầy cảm xúc – là sự khẳng định cái Tôi với muôn hình vạn trạng : cái Tôi đắm say cuộc sống, cái Tôi ngây ngất yêu, cái Tôi bơ vơ, cái Tôi điên cuồng,  cái Tôi cô độc… 

– Về hình thức : phá vỡ khuôn khổ về thể thơ, dòng thơ, thay đổi ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ… Trong Thơ mới, có những câu thơ tân kì như : Hơn một loài hoa đã rụng cành / Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh, hình ảnh mới lạ như : Bèo dạt về đâu hàng nối hàng; từ ngữ độc đáo như : ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sự tiếp biến đầy sáng tạo các thành tựu của văn học phương Tây kết hợp với truyền thống và ý thức dân tộc đã làm nên một cuộc cách mạng vĩ đại trong thi ca.

+ Phong trào Thơ mới đã tạo nên một thời đại rực rỡ phong phú trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Việt Nam : “… trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bào giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bào giờ người ta thất xuất hiện cùng một kần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Thơ mới là thời đại của những phong cách thơ độc đáo. 

+ Những  thành  tựu mà Thơ mới đạt được đóng vai trò nền tảng để phát triển thi ca Việt Nam đương đại: Phong trào Thơ mới là một hiện tượng lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ, nó đã đưa thơ ca Việt Nam vào thời kỳ hiện đại, góp phần tạo nguồn và còn ảnh hưởng đến thi ca hôm nay. (Phan Cự Đệ)

II. Các tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ mới

1. Xuân Diệu

Xuân Diệu (1916 – 1985) là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới và là một trong những cây bút lớn cuả nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Diệu có phong cách độc đáo và rất hấp dẫn. Dưới đây là những nét chủ yếu của phong cách thơ ông

a. Có thể nói Xuân Diệu là một trái tim lớn, một nguồn tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt đến say mê cuồng nhiệt.

(Trước khi mất, Xuân Diệu để lại cho đời những vần thơ cảm động:

“Hãy để cho tôi được giã từ

Vẫy chào cõi thực để vào hư

Trong hơi thở chót dâng trời đất

Cũng vẫn si tình đến ngất ngư”

(Không đề)

Đây là một cá tính tự nhiên của Xuân Diệu. Nhưng cá tính này cũng có liên quan đến hoàn cảnh gia đình và môi trường tự nhiên, xã hội nơi ông sinh ra và lớn lên. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng rất nhiều ở người bố của mình. Đó là một “ông đồ Nghệ” cần cù, chịu khó, rất ham học. Mẹ Xuân Diệu người Gò Bồi, Quy Nhơn. Xuân Diệu lớn lên ở đây, nơi có “gió nồm thổi lên tươi mát”. Sau này ra Hà Nội rồi vào Huế học. Cảnh lộng lẫy của trời đất Thăng Long, cùng với vẻ đẹp đầy mộng mơ của Huế, gió nồm nam, biển dạt dào Quy Nhơn đã khơi dậy ở tâm hồn Xuân Diệu  một tình yêu đời say đắm.

b. Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, nghĩa là có ý thức sâu sắc khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng nghệ thuật thơ ca,nhưng khác với nhiều nhà thơ khác trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu không đem cái tôi của mình đối lập với đời và tìm cách thoát ly cuộc sống này; Trái lại, ông muốn khẳng định nó trong quan hệ gắn bó với đời, hiểu theo nghĩa trần thế nhất: là con người, là trời đất, là hoa lá cỏ cây ở quanh ta đây. Ông quan niệm được sống mãi với đời là niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất. Mà trên đời này thì có gì đáng yêu hơn là mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu.Đó là nguồn thơ phong phú của ông, là đề tài chủ yếu của thơ ông. Hoài Thanh viết: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.

c. Với niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần thế này, một cách tự nhiên, Xuân Diệu cũng là nhà thơ của tình yêu, vì tình yêu là niềm giao cảm mãnh liệt nhất và trần thế nhất. Đây là loại tình cảm bao giờ cũng đòi hỏi cao độ” “vô biên và tuyệt đích”… Người ta đã tặng cho Xuân Diệu danh hiệu: nhà thơ tình số một, “là ông hoàng của thơ tình yêu”.

d. Tha thiết với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến một cách tân đáng kể về thi pháp. Nếu thơ văn xưa coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, thì giờ đây Xuân Diệu đảo ngược lại: Đối với ông, không có gì hoàn mỹ bằng con người, nhất là phụ nữ, ở giữa tuổi xuân. Một quan điểm thẩm mỹ như vậy đã tạo nên trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu những hình tượng giàu sức sống và đầy xuân tình, xuân sắc.

Tuy nhiên trong xã hội ngày trước, Xuân Diệu cảm thấy tình yêu say đắm, nồng nhiệt của mình không được đáp ứng xứng đáng, tựa như “nước đổ lá khoai”. Với Xuân Diệu, thơ mới đã đào sâu vào tâm hồn của cái tôi cá nhân, cá thể. Và “Càng đi sâu càng lạnh”. Cho nên con người yêu đời là vậy mà lắm lúc cảm thấy cô đơn, thậm chí muốn trốn đời, trốn cả bản thân mình nữa (Cặp hài vạn dặm). Vì vậy trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân và bình minh gắn liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh.

e. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của hai nền văn chương Đông và Tây, cổ điển và hiện đại (Xuân Diệu đặc biệt chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng của Pháp – như Bô-đơ-le, Rim-bô, Véc-len). Thơ tượng trưng hết sức đề cao quan hệ tương giao giữa các giác quan cùng tính nhạc của thơ và mài sắc các giác quan để cảm nhận và diễn tả được những biến thái tinh vi… nhất của tạo vật và lòng người.

Kết luận:

 Là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu đã dễ dàng gắn bó với cách mạng, với nhân dân. Từ một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới lãng mạn, Xuân Diệu đã trở thành nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng. Là một nghệ sĩ đa tài, sau cách mạng, Xuân Diệu càng phát huy năng khiếu của mình trên nhiều thể loại: bút ký, tùy bút, dịch thuật, đặc biệt là nghiên cứu, phê bình văn học. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp rất có giá trị.

2. Huy Cận

+ Vai trò trong phong trào Thơ mới:

Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của Thơ mới, Huy Cận trở thành một thi sĩ hàng đầu góp phần đưa phong trào này đến đỉnh cao. Huy Cận đóng góp một tiếng thơ riêng biệt, một phong cách thơ độc đáo. Nhắc đến Huy Cận, là người ta nhớ đến một nhà thơ của một vũ trụ mênh mang những nỗi buồn. Ông là nhà thơ nói được hay nhất nỗi buồn sầu điển hình của Thơ mới.

+ Một vài đặc điểm cơ bản của thơ Huy Cận : 

– Thế giới nghệ thuật của Huy Cận là một cõi trời đất mênh mang và trống vắng. Thế giới ấy được tạo dựng bởi không gian vô cùng vô tận và thời gian vô thủy vô chung :

 “Nắng xuống trời lên sâu chót vót

 Sông dài trời rộng bến cô liêu”

“ Lòng em nhơ lòng anh từ vạn kỷ

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa”

Sông dài trời rộng, quán vắng đèo cao… là miền thơ đặc trưng của thơ Huy Cận, làm nên một nét phong cách: cảm quan vũ trụ. Tìm đến vũ trụ bao la và cái đẹp xưa là một cách để cái Tôi của Huy Cận thoát ly thực tại. Nhưng nó lại đẩy thi sĩ đến sự lạc loài bơ vơ, khắc khoải thèm nhớ một cây cầu gợi chút niềm thân mật. Vì thế xét đến cùng, không gian, thời gian trong thơ Huy Cận không chỉ  biểu hiện nỗi bất hòa với thực tại mà còn ẩn chứa tình yêu cuộc sống và khao khát giao cảm với đời.

– Cái Tôi thi sĩ :

Huy Cận  tự  bộc  bạch Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm. Quả thực, thơ Huy Cận là tiếng nói của cái Tôi sầu não một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu. Trạng thái cảm xúc này vốn rất quen thuộc trong Thơ mới nhưng với Huy Cân,nó có một sắc thái riêng. Thứ nhất, đó là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn của một người cơ hồ không biết tới ngoại cảnh. Thứ hai, nỗi buồn trong thơ Huy Cận là sự hòa điệu giữa nỗi sầu nhân thế đậm chất Đường thi với nỗi cô đơn, bơ vơ của cái Tôi cá nhân Thơ mới và nỗi đau đớn trước thực tại. Nỗi buồn trở thành một cảm xúc thẩm mĩ thường trực trong thế giới nghệ thuật của Huy Cận. Nỗi buồn ấy xuất phát từ trái tim thi sĩ, trùm phủ cả không gian, thời gian thơ tạo nên một cõi thơ: sầu vạn kỉ. Ông tuyên ngôn : Cái đẹp bao giờ cũng buồn (Kinh cầu tự). Điều này làm nên nét phong cách cơ bản nhất của thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám : một hồn thơ ảo não

– Thơ Huy Cận chịu ảnh hưởng của cả trung đại và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Cùng lúc có thể bắt gặp trong thơ Huy Cận : lối ví von của ca dao tục ngữ, các từ Hán Việt trong trọng cổ kính, hình ảnh thơ mới mẻ hiện đại … Các yếu tố này vừa đối lập vừa thống nhất với nhau làm nên chỉnh thế tác phẩm mang nét độc đáo của ngòi bút Huy Cận

3. Hàn Mặc Tử

+ Vị trí, vai trò trong phong trào Thơ mới :

 Bắt đầu con đường thơ ca bằng thơ Đường nhưng Hàn Mặc Tử nhanh chóng bén duyên cùng Thơ mới. Hàn Mặc Tử đã khẳng định vị thế đặc biệt của mình trong phong trào Thơ mới : hiện tượng thơ kì lạ  bậc nhất của phong trào Thơ mới.

+ Quan niệm nghệ thuật : 

Hàn Mặc Tử có một hệ thống quan niệm đầy đủ về thơ, về nhà thơ và về việc làm thơ. Trong chùm thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng, nhà thơ tuyên ngôn :

“Tôi làm thơ ?  Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng” “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt”

“Thi sĩ là người khao khát vô tận”

Hệ thống quan niệm này chi phối ngòi bút của thi sĩ, đưa những vần thơ Hàn đến cõi rộng rinh không bờ bến của cái Đẹp lạ kì và tuyệt đích.

Về cơ bản, quan niệm của nhà thơ vẫn thuộc quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuât. Tuy vậy, khác với các thi sĩ đương thời, Hàn Mặc Tử xác lập một quan niệm độc đáo về cái Đẹp. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thơ tượng trưng và siêu thực Pháp, Hàn cho rằng: Cái Đẹp là cái kì dị, cái đẹp là cái đau thương. Ông tuyên ngôn không rên xiết là thơ vô nghĩa lí. Có thể nói, một trong những đóng góp lớn của Hàn Mặc Tử là đã mở rộng nội hàm khái niệm cái Đẹp trong phong trào Thơ mới.

+  Một vài đặc điểm cơ bản của thơ Hàn Mặc Tử :   

–  Thế giới nghệ thuật

Thế giới tho Hàn Mặc Tử phức tạp và đầy bí ẩn với sự đan xen ràng rịt của cả những gì thân thuộc thanh khiết thiêng liêng nhất, cả những gì ghê rợn ma quái cuồng loạn nhất. Có những bài thơ tươi tắn như Mùa xuân chín, có những bài thơ thanh khiết như Ave Maria lại có những bài thơ mơ hồ như Đây thôn Vĩ Dạ, những bài thơ cuồng loạn như Hồn là ai, biển hồn ta… Ở trạng thái nào Hàn Măc Tử cũng đẩy đến tột cùng. 

Trăng, hồn và máu là những hình ảnh được sử dụng với tần xuất cao và trở thành biểu tượng đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Hàn. Khó có thể phân định các hình ảnh đó là khách thể hay chủ thể. Thế giới nghệ thuật của Hàn chập chờn giữa cõi Thực và Siêu thực, Ý thức và Vô thức. Đây là điểm độc đáo rất đáng chú ý của thơ Hàn Mặc Tử.

– Cái Tôi thi sĩ :

Hồn thơ Hàn Mặc Tử rất phức tạp với sự đan xen của nhiều cảm xúc, cái Tôi thi sĩ đa diện biến hóa ở từng chặng đường thơ. Nhưng, điểm cốt lõi làm nên nét đặc trưng nhất quán của thơ Hàn là : cảm xúc thiết tha đến đau thương tuyệt vọng (Chu Văn Sơn). Đó là nỗi thiết tha của một con người yêu đời, ham sống mãnh liệt. Càng ý thức sâu sắc về cái chết đang cận kề, nhà thơ càng khát khao sống. Nhưng, càng khao khát sống lại càng tuyệt vọng. Vì thế Hàn Mặc Tử yêu đời tha thiết đến khắc khoải :

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có trở trăng về kịp tối nay ?

yêu người sâu nặng đến đớn đau :

Ngưòi đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi hóa dại khờ

bơ vơ đến cùng cực :

Tôi còn ở đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu

Cảm xúc đau thương đến tột cùng đã đẩy thơ Hàn Mặc Tử đến trạng thái điên cuồng, riết róng. Đó là nguồn gốc của thơ Điên – một dấu ấn riêng biệt của Hàn trong phong trào Thơ mới.

– Về hình thức nghệ thuật :

Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ tượng trưng của Pháp, nhà thơ đã đưa Thơ mới đến một bước xa hơn trong cách tân nghệ thuật. Thơ Hàn Mặc Tử là sự vận dụng sáng tạo các thủ pháp nghệ thuật tinh vi huyền diệu của thơ tượng trưng:

 Thứ nhất, Hàn Mặc Tử đẩy thơ đến địa hạt của cõi tâm linh, cõi vô thức, mạch cảm xúc thơ bất định phi logic. Ví dụ: Đây thôn Vĩ Dạ- bài thơ có sự nhảy cóc trong mạch cảm xúc, không tuân theo logic không gian thời gian, tâm lí thông thường.

Thứ hai, nhà thơ tạo nên những câu thơ bài thơ giàu nhạc tính. Ví dụ:

 Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

hoặc bài thơ Chuỗi cười nhà thơ sử dụng điệp khúc 4 câu thơ tạo nhạc tính cho bài.

 Thứ ba, nhà thơ sử dụng thành công hệ thống biểu tượng độc đáo và đầy ý nghĩa (trăng , hồn).

 Thứ tư, cách sử dụng kết hợp ngôn ngữ khác lạ tạo tương giao giữa các giác quan. Ví  dụ : Cười no nên sặc sụa cả mùi trăng” , “ta nằm trong vũng trăng đêm ấy” …