Phan bội châu là ai

Phan bội châu là ai

 Phan Bội Châu (1867 - 1940).
Hành trình Phan Bội Châu

Năm lên chín tuổi, ông đã có ý thức hưởng ứng phong trào chống Pháp của Trần Tấn, Đặng Như Mai. Mười bảy tuổi, ông thảo bài hịch Bình Tây thu Bắc; 19 tuổi tổ chức một đội thí sinh quân gồm 60 người ứng nghĩa Cần Vương.Năm 1900, ông đỗ Giải nguyên và chính thức dấn thân vào con đường cứu nước. Năm 1904, ông lập ra Hội Duy Tân (1904), chủ trương bạo động và nhờ ngoại viện để khôi phục nền độc lập. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi trở về tổ chức phong trào Đông Du (1905 - 1908), tập hợp khoảng 200 thanh niên sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự.Khoảng tháng 3/1909, Chính phủ Nhật trục xuất ông và các học sinh Đông Du. Ông về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc ít lâu rồi sang Xiêm hoạt động. Cách mạng Tân Hợi thành công (1911), ông trở lại Trung Quốc và thành lập Việt Nam quang phục hội với tôn chỉ khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước "Cộng hòa dân quốc Việt Nam".Ngày 24/12/1913, ông bị thực dân Pháp nhờ bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam; năm 1917, ra tù, viết báo để tuyên truyền chống Pháp và tiếp tục tìm đường cứu nước; giữa năm 1924, cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải đem về nước, đưa ra xử ở Tòa đề hình Hà Nội. Trước phong trào phản đối rầm rộ khắp cả nước, thực dân Pháp phải tuyên bố tha bổng nhưng giam lỏng ông ở Huế. Mặc dù trong cảnh “cá chậu chim lồng” nhưng ông vẫn làm thơ văn để tố cáo chính quyền thực dân phong kiến và giác ngộ tinh thần yêu ước của đồng bào.Từ “Gọi hồn nước” đến ý thức “Quốc gia - quốc dân”Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản và tinh thần Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung Quốc dội sang nước ta qua những "tân thư" và "tân văn" của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Nhờ đó, tầm nhìn của giới sĩ phu được mở ra rộng lớn hơn nhiều, giúp họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước. "Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn" (Tự phán - PBC).Có thể nói Phan Bội Châu là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Ông đã sử dụng thơ văn như một vũ khí để giác ngộ đồng bào. Thơ văn ông khơi dậy nỗi nhục mất nước và tình cảm, tinh thần yêu nước của mọi người.Lời huyết lệ gửi về trong nước,Kể tháng ngày chửa được bao lâuNhác trông phong cảnh Thần châu,Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ...

Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,Khôn tìm đường dò nhắn hỏi hanBâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau...(Hải hoại huyết thư -1906, PBC, Lê Đại dịch)Thơ văn Phan Bội Châu khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh niên các thế hệ, "hàng nghìn thanh niên đã cắt cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử cùng cái mộng công danh nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây" (Đặng Thai Mai). Từ yêu nước, lại nghiên cứu sâu sắc tân thư tân văn, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và tiên phong nhìn nhận vấn đề của đất nước ở phương diện "quốc gia - quốc dân" (nation-state) với ý nghĩa là một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (vốn xuất phát từ Nhật Bản và “xuất cảng” sang chữ Hán và tiếng Việt buổi đầu Thế kỷ XX, theo Vĩnh Sính).Trên đường kết giao đồng chí, xây dựng lực lượng, Phan Bội Châu đã phát hiện ra nguyên nhân của tình trạng thiếu đồng thuận từ những điểm yếu trong tâm lý, dân trí của người Việt là hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng những điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái...), biết lợi mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi chung, biết thân mình mà không nghĩ đến việc nước (Việt Nam quốc sử khảo, PBC, 1908).Từ Quân chủ đến Dân chủNăm 1904, khi thành lập Duy Tân hội, Phan Bội Châu và các đồng chí đã mời Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Hội chủ. Lúc đầu chỉ cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác cả. Nhưng đến năm 1906, thì đã xác định rõ là khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến.Năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công ở Trung Quốc, nền quân chủ bị cáo chung, nhà nước dân chủ tư sản ra đời, đã tác động sâu sắc đến tư tưởng của Phan Bội Châu, thuyết phục ông từ tư tưởng quân chủ sang tư tưởng dân chủ tư sản. Năm 1912, ông thành lập Việt nam Quang phục hội ở Quảng Châu với tôn chỉ khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Dân quốc.Về tổ chức, Kỳ Ngoại hầu Cường Để vẫn làm Hội chủ, chức Bộ trưởng Tổng vụ; Phan Bội Châu là Phó Hội chủ; có đại diện 3 miền Bắc, Trung, Nam và 10 “Chấp hành bộ” để lo điều hành Quân vụ, Kinh tế, Giao tế, Văn hóa, Thư vụ. Quân đội được thành lập với tên gọi là Quang phục quân, có sách nội quy là Quang Phục quân Phương lược.Hội lấy cờ đỏ, góc tư trên màu sẫm với năm ngôi sao trắng xếp thành chữ "X" làm hội kỳ của Việt Nam Quang phục Hội, Quốc kỳ là cờ vàng với năm ngôi sao đỏ, Quân kỳ của Quang Phục quân là cờ đỏ năm ngôi sao trắng. Với tổ chức này của Việt Nam Quang phục hội, theo nhà nghiên cứu Vĩnh Sính thì đây là một chính phủ lâm thời (lưu vong). Và với tôn chỉ "độc nhất" của là "khôi phục nền độc lập của Việt Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc", lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định". Phan Bội Châu đã đóng vai trò quyết định trong sự chuyển hướng đường lối này.Theo Phan Bội Châu, bạo động là cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Ông cho rằng người Việt Nam không thể tự mình mà phải cậy nhờ một cường quốc khác mới đánh đổ được Pháp. Ông chọn Nhật Bản vì “đồng chủng, đồng văn” đã duy tân thành công và họ đã thắng Nga (1904 - 1905). Sau thất bại Đông du, Phan Bội Châu lại có chí hướng liên kết với nước “đồng bệnh” là Trung Quốc để giải quyết vấn đề độc lập của Việt Nam. Ông vẫn kiên trì tư tưởng Liên Á, cho rằng phải liên kết với các nước như Nhật Bản, Trung Quốc thì người Việt Nam mới giành được độc lập. Tư tưởng này là hệ quả của nhận thức lỗi thời và chủ quan của Phan Bội Châu về quan hệ quốc tế khi mà chủ nghĩa thực dân đã liên kết và phân chia quyền lợi, thuộc địa với nhau. Vì chủ trương bạo động nên những sinh viên du học (theo Phan Bội Châu) ở Nhật và Trung Quốc chủ yếu theo học những trường quân sự, và phần lớn đã hy sinh trong những vụ bạo động, ám sát hay các binh biến lẻ tẻ. Lúc về già, Phan Bội Châu đã có lúc nghĩ lại và ăn năn: "Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào... Anh em chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở ra một lối thành công sau...". 

Ý thức quốc gia - quốc dân đã giúp cho Phan Bội Châu quyết tâm xây dựng khối đoàn kết dân tộc để chống chính sách chia để trị của thực dân Pháp và khắc phục tư tưởng cục bộ của người Việt. Theo ông, "Gọi là một nước thì phải có Nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một nước" (Việt Nam quốc sử khảo. PBC, 1908). Vong quốc là mất nước, mất độc lập, mất chủ quyền.

Phan bội châu là ai

PHAN BỘI CHÂU(1867-1940)

PhanBội Châu là một nhà yêu nước lớn, một chí sĩ cách mạng Việt Nam có ý chí tranh đấu, nghĩa khí và hết lòng tận tụy đóng góp cực kỳ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng dành độc lập của Việt Nam từ tay thực dân Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội (1904) - chủ trương tôn quân và bạo động đánh đổ đô hộ Pháp để khôi phục nền độc lập, tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ và khởi xướng phong trào Đông Du (1905) - vận động người trong nước xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản du học để thâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà. Ông là một tác giả lớn về thơ và tiểu thuyết, với những bút danh Hải Thu, Sào Nam, Thị Hán, Độc Tỉnh Tử,…

.

- Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Ông nổi tiếng thông minh từ bé, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện. Thuở thiếu thời ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kì khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi (1885) ông cùng bạn Trần Văn Lương lập đội nghĩa quân Cần Vương chống Pháp nhưng việc không thành.- Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi, nhưng thi suốt 10 năm không đỗ, lại can tội "hoài hiệp văn tự" (mang văn tự trong áo) án ghi "chung thân bất đắc ứng thí" (suối đời không được dự thi). Năm 1896, ông vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan xin vua Thành Thái xóa án "chung thân bất đắc ứng thí". Khi được xóa án, ông dự khoa thi hương năm Canh Tí (1900) ở trường Nghệ và đậu Giải nguyên. - Trong 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, ông bôn ba khắp nước Việt Nam liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Thái Thân... để cùng chống Pháp. Ông chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để - một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn - làm lãnh tụ phong trào Cần Vương.

- Năm 1904, ông cùng 20 người họp mặt tại Quảng Nam để thành lập Hội Duy Tân.

- Năm 1905, ông cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản và Trung Quốc và cầu viện trợ tài chính cho phong trào do ông thành lập. Tại Trung Quốc ông gặp Lương Khải Siêu, và được khuyên nên dùng thơ văn để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Nghe lời khuyên, ông viết nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước. Các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp.

- Năm 1906, Phan Bội Châu đưa Kì Ngoại Hầu Cường Để và một số học sinh người Việt khác sang Nhật. Cũng trong năm đó ông mời được Phan Chu Trinh đến thăm ông tại thủ đô Tokyo. Sau hai tuần thảo luận, hai người không giải quyết được bất đồng chính kiến về cách chống Pháp. Trong khi Phan Bội Châu muốn giữ thể chế quân chủ, Phan Chu Trinh muốn hủy bỏ chế độ này để tạo một quốc gia dân chủ.

- Năm 1907, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội, một phong trào gồm có 100 học sinh du học ở Nhật. Việc này có ý nghĩa tượng trưng vì những học sinh có được cơ hội để cộng tác với nhau với tư cách là những người Việt, không phải người Bắc Kì, Nam Kì hay Trung Kì mà người Pháp đã chia ra. Tuy nhiên, dưới áp lực của Pháp, Nhật Bản đã trục xuất họ trong năm sau.

- Trong năm 1907, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập để huấn luyện các nhà cách mạng chống thực dân Pháp. Các tác phẩm của ông được nghiên cứu và Phan Chu Trinh giảng dạy tại trường này. Nghi rằng Phan Bội Châu có liên quan đến trường này, Pháp đã đóng cửa trường trong vòng gần một năm. Họ cũng cho rằng ông có trách nhiệm trong các cuộc biểu tình chống thuế tại các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi cũng như tại Huế vào đầu năm 1908. Ngoài ra, họ còn cho rằng ông có dính líu đến một cuộc nổi dậy bị thất bại tại Hà Nội vào tháng 6 năm 1908. Pháp đã xử tử 13 người tham gia cuộc nổi dậy này và bỏ tù hàng trăm người khác tại Côn Đảo (trong đó có Phan Chu Trinh).- Tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu bị Nhật trục xuất theo đề nghị của Pháp. Sau đó, ông đến Hồng Kông, Bangkok và Quảng Châu. Trong những năm này, các tác phẩm cách mạng của ông ảnh hưởng đến phong trào chống Pháp ngay tại Việt Nam.

- Năm 1912, nức lòng vì thành quả của cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng quốc gia Việt Nam lưu vong tại Quảng Châu thành lập một tổ chức cách mạng thay thế cho Hội Duy Tân. Tôn chỉ của tổ chức mới với tên Việt Nam Quang phục Hộilà đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc". Trong thời điểm này, Phan Bội Châu đã thay đổi chính kiến của ông về thể chế quân chủ. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì Kì Ngoại Hầu Cường Để trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục Hội.


- Nhằm gây tiếng vang, tạo ủng hộ trong quần chúng quốc nội, năm 1913 ông cho tổ chức ám sát và đặt chất nổ phá hoại nhiều nơi trong nước. Chính quyền Pháp đã nhờ chính quyền Trung Quốc bắt giam Phan Bội Châu cùng các đồng chí.

- Năm 1917, Phan Bội Châu được phóng thích. Ông lưu lạc tại Trung Quốc suốt tám năm sau đó, ông học tập và viết báo sinh nhai ở Hàng Châu, làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng không còn trực tiếp ảnh hưởng đến các cao trào cách mạng tại Việt Nam. Trong thời gian từ 1921 đến 1924, sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), liên minh Quốc - Cộng tại Trung Quốc... đã có ảnh hưởng lớn đến Phan Bội Châu. Ông tìm hiểu về cuộc Cách mạng Tháng Mười, và viết báo tôn vinh Vladimir Ilyich Lenin. Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng.


- Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông lại bị Pháp bắt tại Hàng Châu, ông bị dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai, về sau, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia do phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà cầm quyền Pháp.- Từ năm 1926, ông bị đưa về sống ở Bến Ngự, Huế, cho đến khi mất vào năm 1940. Lúc đó ông được gọi là Ông già Bến Ngự. Trong thời gian này, tư tưởng chống Pháp của Phan Bội Châu đã ôn hòa hơn. Vào tháng 3 năm 1927, trong dịp kỉ niệm ngày giỗ một năm của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã viết:

"Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng? Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỉ 19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông! Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được. Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hi Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt."

- Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.

Quan điểm sáng tác

-Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư", gồm 5 phần: 1. Nói về những điều sỉ nhục vì nước mất, quyền mất, thảm họa tương lai 2. Mở mang dân trí 3. Chấn động dân khí 4. Vun trồng nhân tài 5. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.

Sách biên khảo, thi ca đã xuất bản

Phan bội châu là ai
Kí niệm lục (19??)
Phan bội châu là ai
Vấn đề phụ nữ (19??)
Phan bội châu là ai
Luận lí vấn đáp (19??)
Phan bội châu là ai
Sào nam văn tập (19??)
Phan bội châu là ai
Hậu Trần dật sử (19??) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996
Phan bội châu là ai
Khổng Học Đăng (19??) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986
Phan bội châu là ai
Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971
Phan bội châu là ai
Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001
Phan bội châu là ai
Trùng Quang Tâm Sử (19??) Hà Nội: NXB Văn học, 1971


Các tác phẩm cách mạng

Phan bội châu là ai
Việt Nam Quốc sử khảo (1909)
Phan bội châu là ai
Ngục Trung Thư (1913) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950
Phan bội châu là ai
Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??)
Phan bội châu là ai
Việt Nam vong quốc sử (1905)

Phan bội châu là ai
Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927)

Phan bội châu là ai
Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957

Phan bội châu là ai
Chủng diêt dự ngôn(19??) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991

Phan bội châu là ai
Tân Việt Nam (19??) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989

Phan bội châu là ai
Thiên Hồ Đế Hồ (19??) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978

Phan bội châu là ai
Khuyến quốc dân du học ca (19??)

Phan bội châu là ai
Hải ngoại huyết thư (1906)

Phan bội châu là ai
Dĩcửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??)

Phan bội châu là ai
Hà thành liệt sĩ ca (19??)

Phan bội châu là ai
Truyện Lê Thái Tổ (19??)

Phan bội châu là ai
Tuồng Trưng nữ vương (19??)

Phan bội châu là ai
Gia huấn ca (19??)

Phan bội châu là ai
Giác quần thư (19??)

Phan bội châu là ai
Nam quốc dân tu tri (19??)

Phan bội châu là ai
Nữ quốc dân tu tri (19??)

Phan bội châu là ai
Truyện Chân tướng quân (1917)

Phan bội châu là ai
Truyện tái sinh sinh (19??)

Phan bội châu là ai
Truyện Phạm Hồng Thái (19??)

Phan bội châu là ai
Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt(1927)

Các bài viết khác

Phan bội châu là ai
Phan Bội Châu - nhà văn hóa lớn

Phan bội châu là ai
100 năm nhìn lại Duy Tân hội và phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (Đinh Kim Phúc)
Phan bội châu là ai
Về Phan Bội Châu tiên sinh: mấy vấn đề xin được bàn lại... (Nguyễn Đình Chú)
Phan bội châu là ai
Phiên tòa lịch sử xét xử Phan Bội Châu
Phan bội châu là ai
Cụ Phan Bội Châu đóng phim ở Huế năm 1926
Phan bội châu là ai
Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX
Phan bội châu là ai
Ảnh hưởng của “Tân thư” trong tư tưởng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Phan bội châu là ai
Quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền
Phan bội châu là ai
Chủ nghĩa dân tộc của Phan Bội Châu dưới nhãn quan triết học
Phan bội châu là ai
Ảnh hưởng triết học phương Tây trong quan niệm của Phan Bội Châu về con người
Phan bội châu là ai
Quan niệm của Phan Bội Châu về bản tính của con người

Phan bội châu là ai
Quan niệm giáo dục “Tự Tân” của Phan Bội Châu
Phan bội châu là ai
Phong trào Đông Du, một trăm năm trước- Bài thơ Chúc Tết Thanh Niên (Phan Bội Châu)Dậy ! Dậy ! Dậy !Bên án một tiếng gà vừa gáyChim trên cây liền ngỏ ý chào mừngXuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăngHai mươi lẻ đã từng bao chua với xótTrời đất may còn thân sống sótTháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanhThưa các cô, các cậu lại các anhTrời đã mới, người càng nên đổi mớiMở mắt thấy rõ ràng tân vận hộiGhé tay vào xốc vác cựu giang sanÐi cho êm, đứng cho vững, trụ cho ganDây đoàn thể quyết phen thành nghiệp lạiAi hữu chí từ nay xin gắng gỏiCởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thầnChẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ănÐúc gan sắt để dời non lấp bểXối máu nóng để rửa vết dơ nô lệMới thế này mới là mới hỡi chư quân

Chữ rằng: nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân.