Phân tích bài hạnh phúc của một tang gia

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 1

Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. Ông vua phóng sự đất Bắc liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giông tố”, “Số đỏ”. “Làm đĩ”, “ Vỡ đê”. “Hạnh phúc của một tang gia” là đoạn trích nằm trong tác phẩm “Số đỏ”.

Tang gia là gia đình đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã “sướng lắm”.

Tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày sự đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những quái thai của cái xã hội dở Ta dở Tây buổi ấy. Bố chết, ông chết “bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích”. Đây là dịp hiếm có để khoe của, kheo giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân… Niềm vui tràn ngập:” tang gia ai cũng vui vẻ cả”.

Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cậu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.  Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng ” đến cái giờ phút hạnh

phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ::” một cái đám ma như thế một cái gậy như thế”, rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: úi giời, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa.,.”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng, Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có môt “mảnh bằng nào cả” về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hóa” nhằm “phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp”. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuvết viển vông nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục đầu”, “cong lưng”, “lau mắt”, như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!

Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu” nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoẻng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù “theo cái lối Ta Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật cái đầu…”. Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

“Có bao đám quan khách” quý phái và “sang trọng” đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là ‘”giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan… Họ đến đưa ma là để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…”. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ” hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe tài khoe đức ấy “đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc lún phún hay rầm rạp, loăn quăn,…”. Người đọc phải ôm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân!

Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ “ ngây thơ” để đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Cô vô cùng sung sướng khi thấy “anh Xuân” đã đến bèn “liếc mắt đưa tình… để tỏ ý cảm ơn” Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với 6 chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, gía mà không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đôi sừng hươu” ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứt!… Hứt!.. Hứt!…” để báo hiếu vẫn không quên giữ chứ “tín” với ân nhân. Ông ta đã “dúi vào tay” Xuân “ một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra song phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người ‘ chó đểu” trong cái xã hội “chó đểu” là như thế đó!

Tóm lại. qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!

Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 2

Tác phẩm là lời tố cáo, đanh thép, mãnh liệt bản chất xảo trá, bịp bợm, là tấc lòng của tác giả trước cảnh hiện thực nhố nhăng đương thời. Cảnh nhố nhăng, điên đảo ấy được khắc họa trong một loạt chân dung biếm họa mà rõ nét nhất là ở Hạnh phúc của một tang gia.

Hạnh phúc của một tang gia, ngay nhan đề của đoạn trích đã gây một tiếng cười – cười mà chua chát, mà mỉa mai. Mâu. thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong cái đầu đề của chương. Thường thì tang gia ai cũng buồn đau vì phải vĩnh biệt người thân yêu về thế giới khác – một cõi mênh mông xa vời không bao giờ có thể gặp lại được. Ằy vậy nhưng ở đây tang gia lại rộn lên những niềm vui riêng tư thầm kín. Tất cả mọi người trong gia đình cụ cô” Hồng vô cùng sur g sướng, hạnh phúc khi cụ tổ mất đi, bởi vì mỗi thành viên trong gia đình đều thấy đây là một dịp may hiếm có: “Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng, thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…” Đám con cháu phấn khích, nôn nóng, họ đã biến một đám ma thành một lễ hội long trọng, linh đình để phộ trương tất cả mọi sự lô” lăng, dâm đãng, lẳng lơ và rởm đời của mình.

Xem thêm:  Bình giảng khổ đầu bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm

Khi cụ tổ chết, mỗi người trong gia đình cụ cố Hồng đều hồ hởi, phấn chấn. Ai nấy đều mang những tâm trạng, những nỗi niềm.

Ông Phán mọc sừng vô cùng sung sướng hạnh phúc vì sắp sửa được một số tiền để bù vào khoản bị vợ cắm sừng. Cụ tổ chết, tài sản chia ra mỗi người một phần, ai cũng cầu mong điều đó. Với ông Phán mọc sừng thì đấy là một niềm vui lớn “Ông Phán mọc sừng đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai ràng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế. Nghĩ đến những đồng tiền sắp có trong tay, ông Phán mọc sừng không chỉ đánh đổi cả danh dự mà còn xem đó là một ân huệ lớn, một sự may mắn lắn. Thây tiền ông đánh đổi cả tình thân để vui sướng.

Cụ cố Hồng trước cái chết của bô’ ruột lẽ ra cụ phải hết sức đau đớn, tiếc thương thì ngược lại cụ đã biến cái chết của bố đẻ thành một sự mong mỏi, đợi chờ cho việc thực hiện ý đồ riêng tư. Đây là dịp hiếm có để cụ mặc đồ xô gai đóng giả điệu bộ của một người thương xót cha “Cụ mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phái chỉ trỏ”. Cụ muôn đám tang của cha mình là cái đòn bẩy để cụ trở nên nổi tiếng, để được mọi người biết đến. Ước mơ của cụ đã dẫn cụ đến hô’ thẳm của sự tha hóa nhân cách. Cụ tha thiết đám ma của cha cụ phải được mọi người biết đến với tất cả sự nhố nhăng mà cụ cho là tốt đẹp, là văn minh, giàu có, lịch lãm. Cụ trở nên một kẻ xấu xa, bỉ ổi, một con người không có tình người.

Đứa cháu đích tôn cũng chẳng khá hơn chút nào, ông Văn Minh thích thú vì “Cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Ông nội chết mà thằng cháu đích tôn chỉ cảm thấy hãnh diện bởi ý định của mình sắp thành công thì gia đình ấy thật là một gia đình đại vô phúc.

Cậu tú Tân chạy qua chạy lại cứ “điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Cái chết của cụ tổ là dịp để cậu thi thố tài năng, ra mắt với mọi người.

Bà Văn Minh nóng ruột nôn nao đợi chờ giây phút cử hành tang lễ để có cơ hội trình diễn cái mốt thời trang kiểu mới tân thời của hiệu may Âu hóa. Đám tang là nơi mọi người phải nghiêm trang, kính cẩn thì bỗng dưng nay lại được biến thành chỗ trình diễn thời trang – trình diễn những lối ăn mặc kiểu cách nhố nhăng, hở hang.

Riêng Tuyết thì buồn rầu vì chưa thấy người tình đến. “Tuyết như bị kim châm vào lòng”. Đám tang của ông là nơi để Tuyết hẹn hò nói những lời tình tứ với gã ma cà bông mà Tuyết từng ngưỡng mộ, là nơi để Tuyết phô trương hình thể “Hôm nay Tuyết mặc y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mủ mấn xinh xinh. Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ ngây thơ để thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Cái lối ăn mặc của Tuyết đã nói lên bao điều về thực trạng Ầu hóa của tầng lớp tư sản thành thị lúc ấy với lôi ăn chơi nữa Tây nửa ta chẳng có một chút gì là văn hóa.

Với ông Tuýp Phờ Nờ (TYPN) đám tang là sân khấu để ông thể hiện tài thiết kế mẫu mã của mình và hi vọng sau đám tang tên tuổi của ông sẽ vang xa trong thiên hạ, các báo chí sẽ viết bài về những bộ quần áo cách tân mới mẻ “hợp thời trang”. Vì vậy mà ông vô cùng sốt sắng vì mãi vẫn chưa thấy giờ đưa đám “Ông TYPN rất bực mình vì mãi không được thấy sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao”.

Cụ Phán bà trước đám tang bố chồng chỉ duy nhất lo lắng một điều, làm sao yên bề gia thất cho Tuyết – đứa con gái đang được xem là quả bom nổ chậm trong nhà. Bà muôn nhân cơ hội này mà lấy chồng cho Tuyết thì hay biết bao – vừa để Tuyết không phái mang tiếng hư hỏng, lại vừa có thể lấy được một chàng rể quý cho gia đình. Nói tóm lại, trước cái chết của cụ tổ, mỗi người đều mang một tâm trạng riêng tư không giông nhau, nhưng họ đều thể hiện một điểm duy nhất, chung nhất dó là tuyệt nhiên không có ai tỏ ra buồn thương tiếc nuôi người vừa quá cố. Thậm chí họ còn đợi chờ cái giờ phút ấy đến càng nhanh càng tốt, để những ý tưởng đã từ lâu lắm của họ trở thành hiện thực. Tâm trạng trong đại gia đình cụ cố Hồng đã nói lên một hiện thực đau đớn của xã hội lúc bấy giờ. Đặc biệt tác giả lên án lối sống phóng túng, kiểu cách Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta của giới thượng lưu, của tầng lớp tư sản thành thị. Mọi giá trị chân thực về cuộc sông đã bị sụp đổ trước cái lối Âu hóa nhố nhăng, nhặng xị, rởm đời của họ. Đám tang là chỗ thí điểm cho tất cả mơ ước của họ, vậy nên bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích. “… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân…”.

Cảnh đám tang diễn ra trong sự đua đòi lối sống văn minh rởm đời của đám con cháu. Đám tang thường được mọi người chuẩn bị nhỏ nhẹ, khiêm tốn nhưng mang tính thiêng liêng, kính cẩn, thể hiện được sự buồn đau, tiếc nuối của người sông đối với người chết, nhưng đám tang của cụ tổ lại được tổ chức một cách long trọng vì cụ cố Hồng muốn thế. Cụ muốn mọi người phải ca tụng, trầm trồ, hoa mắt lên bởi từ trước tới giờ chưa có đám ma nào lại to lớn, giàu có đến vậy. Và đám tang đã thực hiện đúng với ý định của cụ cô’ Hồng “theo cả lối ta, Tàu, Tây có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bút điếu và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ, thật là một đám tang to tát có thể làm cho người chết nằĩn trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng”. Đấy là một đám tang làm náo loạn cả thành phố, không phải bằng những giọt nước mắt thương tiếc mà bằng tiếng cười vui vẻ như trong một ngày hội lớn vì “kèn ta, kèn Tây, kền Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên” cảnh huyên náo, không khí nhộn nhịp chẳng có gì là hơi thở của sự chết chóc.

Cái làm cho tang lễ độc đáo lên nhiều lần đó là con cháu trong gia đình cụ cô’ Hồng đã mượn cái chết của cụ tổ để làm nơi quảng cáo những bộ áo quần cách tân Âu hóa kiểu mới, mốt thời thượng. Những “bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn màu trắng viền đen… có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết củng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”. Nơi đám tang là nơi để bà Văn Minh – cụ cố’ Hồng khoe khoang bộ đồ xô gai mới mẻ, là nơi để Tuyết mặc những chiếc áo hở hang gọi mời, để cậu Tú Tân trổ tài chụp ảnh… cả một đám tang cứ loạn lên với những ý tưởng riêng tư. Đó là một đám tang với một cảnh tượng hết sức kì quặc, lô” lăng từ trước đến nay chưa bao giờ có.

Không chỉ mỗi mình đám con cháu trong đại gia đình cụ cố Hồng mong muôn cụ tổ chết mà dường như những bè bạn, những người có mối quan hệ dây mơ rễ má với gia đình này cũng chờ đợi. điều đó. Những con người sông trong tầng lớp thượng lưu tư sản chỉ chờ cơ hội để phô trương, Dhơi bày tất cả mọi sự lô” bịch “những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy những huân chương như: Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Miên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân… trên mép và trên cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn, nhiều Ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn xuân ai oán, não nùng”. Thực chất, họ dâu phải đi để thăm viếng người quá cô’ mà để khoe khoang những tấm huy chương, khoe khoang những bộ râu kiểu cách hợm hĩnh của mình và đặc biệt là sự dâm đãng. Tuổi của họ đã bằng bậc cha bậc chú của Tuyết nhưng khi thây Tuyết hở hang trong bộ quần áo mỏng tang thì ai nấy dều cảm động. Đấy thật là một xã hội nhô” nhăng, dơ bẩn, chỉ biết ăn chơi sa đọa đánh mâ’t hết bản chất người của mình. Đó chính là một lũ cặn bã của xã hội tư bản thành thị lúc bấy giờ.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11

Đám ma xuất hiện hàng trăm “trai thanh gái lịch”, họ đến để ngắm nghía, tán tỉnh, hẹn hò, bình phẩm về nhau: “một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân…”. Tất cả họ bề ngoài đều “mang vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma” nhưng bên trong thì ai nấy đều hớn hở, đều hãnh diện vì trên người mình đang được trang sức bằng những bộ cánh mới – những bộ cánh mà họ đã ao ước được khoác lên mình từ lâu để mọi người trầm trồ khen ngợi. Một đám ma đủ “trai thanh gái lịch” nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng những vẻ mặt buồn rầu. Trong đám ma không hề có một tiếng khóc rnà chỉ thấy những câu thì thào.

Con bé nhà ai mà kháu thể? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa!

– ừ, ừ, cái thằng cứ bạc tình bỏ mẹ! Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ?

Hai đời chồng rồi! Còn xuân chán! – Gớm cải ngực, đầm quá đi mất! Làm mối cho tớ nhé? Mỏ vàng hay mỏ chì? Không, không hẹn hò gì cả? – Vợ béo thể, chổng gầy thế thì mọc, sừng mất! Vân vân!”.

Đúng là lời lẽ của những kẻ cặn bã tận cùng trong xã hội, thế mà những con người ấy cũng được mệnh danh là hiểu biết, là có học thức mới lạ. Xã hội ấy đúng là xã hội vô nhân đạo, những con người đấy đúng là những con người vô liêm sỉ.

Có lẽ ấn tượng nhất trong đoạn trích vẫn là sự xuất hiện của nhân vật Xuân Tóc Đỏ. Vũ Trọng Phụng chỉ giới thiệu một cách sơ qua và khá ngắn gọn về nhân vật này nhưng đã làm nổi bật được bản chất lõi đời của hắn. Xuân Tóc Đỏ xuất hiện giữa lúc đám tang đang di chuyển đã làm cho cảnh đám tang thêm lô’ lăng. Gần như hầu hết bản chất của Xuân Tóc Đỏ được bộc lộ, đấy là sự tinh quái, láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và dâm đãng vôn có của hắn. Hắn biết làm cho mình trở nên nhân vật đặc biệt quan trọng, biết sự quảng cáo đúng chỗ, xuất hiện đúng lúc để lấy lòng của những người mà hắn đang cần đến, đặc biệt là cụ bà và Tuyết. Cái tính chất lõi đời của Xuân đã được tác giả kết thúc ở một hành động dối trá, bịp bợm, vô sỉ đáng ghê tởm, đó là hành động hắn nhận những đồng tiền từ tay ông Phán mọc sừng: Hắn nhận một cách khéo léo, ranh mãnh đến nỗi không ai có thể nhận ra được. Hóa ra Xuân đến đám tang cũng chỉ để trao đổi những đồng tiền bẩn thỉu, rách rưới chứ không ngoài mục đích gì khác.

Những gì gọi là “to tác”, “danh giá” của đám tang chỉ là sự phô trương giả dối, rởm đời, lố lăng nhưng cái đáng cười và cũng đáng khóc đó là giữa bao nhiêu sự lố lăng thì đám “vẫn cứ đi” như không hề có chuyện gì xảy ra. Vì vậy mà qua cảnh đám ma của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã chĩa ngòi bút của mình đánh một đòn mạnh vào chế độ xã hội thôi nát, mục rỗng lúc bấy giờ, đặc biệt là tầng lớp tư sản thành thị sa đọa, vô sỉ, không có đạo đức.

Với bút pháp trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần chân tướng của tầng lớp tư sản thành thị chỉ biết chạy theo đồng tiền, đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng đồi bại mà đánh mất tất cả lương tâm và bản chất tốt đẹp của con người. Hạnh phúc của một tang gia qua mỗi chân dung, mỗi tên gọi là bức tranh biếm họa về lối sống ấy. Đoạn trích này cùng với tác phẩm số đỏ đã cho ta thấy Vũ Trọng Phụng đúng là một cây bút hiện thực trào phúng xuất sắc của nền văn học trào phúng 1930 – 1945. Đúng như lời Nguyễn Hoành Khung đã nói: “Sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng trước hết là tiêng nói tố cáo mãnh liệt đối với cái chế độ bất công tàn bạo đã vùi dập quyền sống, đầu độc tâm hồn con người; và những trang sách sôi sục phẫn uất dù có u ám của ông đã làm toát lèn niềm khát khao chảy bỏng một sự đổi thay xã hội. Tiếng nói ấy, niềm khát khao ấy chắc chắn vẫn được các thế hệ độc giả đấu tranh xây dựng xã hội mới ngày nay cảm thông và trân trọng”.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 3

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) với 27 tuổi đời, 10 năm cầm bút, nhưng sự nghiệp văn chương của ông để lại cho đời thật vô cùng lớn lao: 7 tập phóng sự, 9 cuốn tiểu thuyết, 6 vở kịch và khoảng 30 truyện ngắn. Hơn nửa thế kỉ trước, ông từng được ca ngợi là “ông vua phóng sự đất Bắc”, là một “văn tài lỗi lạc” (Lưu Trọng Lư), là một “thiên tài” (Thanh Châu)… Tiểu thuyết “Số đỏ”, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng được đánh giá là kiệt tác văn chương trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Vũ Trọng Phụng viết “Số đỏ” vào năm 1936, qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ, một tên hạ lưu, một gã “ma cà bông”, ông đả kích cay độc cái xã hội trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống “Âu hóa” văn minh rởm, hết sức đồi bại, nhố nhăng đương thời.

Mỗi chương trong “Số đỏ” đều được đặt những cái tên trào phúng châm biếm sâu cay. Cuốn tiểu thuyết gồm 20 chương; chương 15 mang cái tên rất dài: “Hạnh phúc của một tang gia”- Văn minh nữa cũng nói vào một đám ma gương mẫu”. Chương này kể về cái chết và đám ma Cụ tổ như một màn bi hài kịch. Có biết bao tình tiết, biết bao bộ mặt xuất hiện trong đám ma khác nào những vai hề. Cái chết của Cụ tổ và đám ma vừa đáng khóc vừa đáng cười. Khóc vì đạo lí suy đồi đến cực độ. Cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”. Cái chết của ông già hơn 80 tuổi “đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ai cũng nghĩ đến cái lợi do cái chết và đám tang của Cụ tổ mang lại, đúng là “Hạnh phúc của một tang gia”. Sự báo hiếu của bọn con cháu của Cụ tổ chỉ là để khoe giàu, khoe sang với thiên hạ. Cái chết và đám ma Cụ tổ như một đám rước, với bao vai hề hiện lên dưới ngòi bút trào phúng, châm biếm đả kích của tác giả “Số đỏ” sao không đáng cười?

Cái chết của Cụ tổ được bọn con cháu mong đợi từ lâu. Trong lúc Cụ tổ ốm thập tử nhất sinh, đốc tờ Xuân chỉ dùng một lọ nước ao tanh bẩn, mấy lá thài lài và rau sam – thuốc thánh đền Bia, thế mà Cụ tổ, chỉ độ nửa giờ sau khi dùng thuốc “đã tỉnh táo khác thường”, tự ngồi dậy được, ăn được nửa bát cháo. Và cũng chỉ bằng một câu chào: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!”, Xuân đã làm cho Cụ tổ “nấc một cái to, ngã xuống giường”, bất đắc kì tử! Ông già hơn 80 tuổi, trước lúc nhắm mắt còn giăng giối: “Để ta chết! Sống cũng nhục! Có chạy chữa thì chạy chữa cho cái thanh danh nhà tao mà bọn chúng mày đã trót bôi nhọ! Thế!”. Cái chết của Cụ tổ vừa đáng khóc vừa đáng cười. Văn Minh, cháu đích tôn của Cụ tổ cứ băn khoăn mãi về tội và ơn của Xuân Tóc Đỏ: “Xuân tuy phạm tội quyến rũ em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to… Làm thế nào?” Cái băn khoăn ấy của Văn Minh sao không đáng khóc và đáng cười.

Đám tang của Cụ tổ khác nào một đám rước? Có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng. Có kèn ta, kèn tàu, kèn tây. Còn có hai viên quan chức nhà nước Min-đơ, Min-toa giữ trật tự! Bọn con cháu hạnh phúc lắm, sung sướng lắm! Cụ cố Hồng hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 câu gắt: “Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi!” mà thằng bồi tiêm đã đếm được! Cụ nhắm nghiền đôi mắt, mơ màng nghĩ đến lục lụ khụ chống gậy, mặc bộ đồ xô gai, vưa ho khạc vừa khóc mếu sẽ làm cho ai cũng phải “ngợi khen một cái đam ma như thế, một cái gậy như thế!”.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 11

Văn Minh chồng lấy làm hạnh phúc vì cái món lợi chia gia tài của Cụ tổ mang lại “cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Ông Phán mọc sừng chỉ nhờ “đôi sừng hươu vô tình trên đầu” mà ông được bố vợ là cụ cố Hồng sẽ chia thêm cho một số tiền là vài nghìn đồng. Ông sung sướng muốn gặp ngay ông Xuân để “trù tính ngay một công cuộc doanh thương”. Cô Tuyết tuy “đau khổ… muốn tự tử được” vì không thấy anh Xuân đến đưa ma, nhưng cô cũng không kém phần hạnh phúc như mọi người khác. Tuyết mặc bộ y phục “Ngây thơ” với”vẻ buồn lãng mạn” đi mời trầu cau và thuốc lá các quan khách, để cho thiên hạ phải biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”.

Có vai hề là bầy con cháu! Có vai hề là những quan khách. Là bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan vân vân, những “giai thanh gái lịch” đến đưa tang là để “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”. Là những người bạn của cụ cố Hồng đến đưa ma Cụ tổ “ngực đầy những huy chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh… để khoe tài, khoe đức” (!), với những bộ râu ria “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quoăn…”. Ngòi bút biếm họa của Vũ Trọng Phụng thật hiếm có. Ông đã làm cho độc giả phải ôm bụng mà cười về những bộ râu ấy!

Sụ cụ Tăng Phú với ông Xuân – cố vấn báo Gõ mõ đến đưa tang giữa đường, với sáu chiếc xe, xe nào cũng che hai lọng có hai vòng hoa đồ sộ. Sư cụ Tăng Phú “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe” vì đây là “cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ” đã đánh đổ được Hội Phật giáo. Còn Xuân Tóc Đỏ đã được Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cảm ơn!”. Hắn đã làm cho bà cụ Hồng cảm động cực độ, sung sướng kêu: “Ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Đó là cảnh hài sao không đáng cười được! Cảnh hạ huyệt mới thật sự là một cảnh trong vở bi hài kịch. Cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng, với chiếc máy ảnh trong tay, cậu bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng… để cậu chụp ảnh lúc hạ huyệt! Cụ cố Hồng thì “mếu máo và ngất đi!”. Ông Phán mọc sừng “oặt người đi, khóc mãi không thôi: “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Thế nhưng ông ta rất tỉnh táo đã bí mật dúi vào tay Xuân tờ bạc 5 đồng gấp tư để “giữ chữ tín” và cũng là để “tri ân” người đã đem đến cho mình món lợi to!

Vũ Trọng Phụng đã sử dụng biến hóa nhiều thủ pháp châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại, lúc thì biếm họa. Có cử chỉ đáng cười! Có ngôn ngữ buồn cười! Có cảnh gây cuời! Từ tang chủ, bọn con cháu đến quan khách, tất cả đều trở thành những vai hề. Vì thế mới có hình ảnh “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu…”.

Qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng trong “Số đỏ”. Tiếng cười trên trang văn của ông có giá trị tố cáo mãnh liệt, đả kích sâu cay cái nhố nhăng, đồi bại của xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” như ông đã phỉ nhổ, nguyền rủa.

Thật vậy, cái chết và đám ma Cụ tổ là một vở bi hài kịch, vừa đáng khóc, vừa đáng cười, nhưng cái đáng cười là chủ yếu!

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 4

Tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tác phẩm Só Đỏ của Vũ Trọng Phụng được coi là một tác phẩm nổi tiếng và mang nhiều ý nghĩa về cuộc sống co người thời đó. Cũng là tác phẩm lên tiếng căng hơn khinh bỉ cái xã hội thúi nát lúc bấy giờ.

Khi đọc nhan đề của tác phẩm chắc không ai không thắc mắc phải không nào? Đám tang là nơi thể hiện sự tôn kính, trang nghiêm lịch sự và tiết thương với những người đã khuất nhưng đma tang trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đó là một niềm vui, là cơ hội để cho mọi người khoe của là nơi để mọi người đùa giởn nói chuyện cười đùa cùng nhau. Các thành viên trong gia đình bận rộn để tổ chức chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải một đám ma.Và là hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi mà người thân của mình ra đi. Cho thấy được cái xã hội của tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ chỉ màng đến danh lợi mà không màng không thương tiếc gì người thân của mình.

Tác phẩm đã nói lên được cái chết của cụ tổ đó là cái chết của sự ấm ức, đã được mọi thành viên trong gia đình mong chờ. Xuân tóc đỏ là một nhân vật được tác giả đưa vào để làm nền tảng, là người gây ra cái chết cho cụ tổ. Tất cả các thành viên trong gia đình gào lên như buồn đau sốt trước cái chết của cụ tổ nhưng thật ra đó không phải vậy mà sự vui mừng hạnh phúc khi cụ tổ chết đi và để lại một khối gia tài to lớn cho các thành viên.

Cụ cố Hồng con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết thật của cha mình và cho rằng đây là cơ hội để cụ tỏ ra sự già yếu khi lo cho cái chết và bất ngờ trước cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nỗi bậc được cái sự lố lăng mà ngu dốt hám danh trong cái xã hội phong kiến.

Văn Minh  và ông Tupn  thì vui mừng về cái chết của ông nội và vui mừng hơn khi ông được đưa nền văn minh Á Âu và quảng cáo hàng của mình vào đám tang của ông nội mình. Không chỉ vậy ông còn tìm cơ hội để trả ơn cho Xuân tóc đỏ để bịp miệng những tội ác của ông. Bà Văn Minh thì vui mừng vì sẽ đợc mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Tỏ ra sự vô ơn bạc nghiã là một kẻ vô học thức.

Cô Tuyết thì đợc dịp mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê, tỏng nh hở cả nách và nửa vú – nhng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh, đồng thời lại có cơ hội để gò lấy trên mặt lại hơi có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Để tỏ ra sự mất trinh trắng của mình còn tỏ ra mình là một người hư hỏng không được dạy dổ.

Cậu Tú Tân thì vui mừng vì có thể chụp ảnh vì cái máy ảnh của Cậu để lâu ngày không dù, cậu tỏ ra là mình là đạo diễn và săn ảnh chụp ảnh một cách lố lăng tạo ra những cảnh của không khí đám tang.

Ông Phán Mọc Sừng thì vui mừng vì cái sừng trên đầu mà được hưởng thêm tiền. Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng càng nhiều được nhiều người tôn trọng đánh giá cao vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.

Thông qua các nhân vật trên tác giả đã khái quát được một cách khái quát về các thành viên trong nhà cụ tổ. Thông qua các nhân vật này ta có thể thấy được cái bản chất lố lăng vô học của các thành viên trong gia đình khi có người thân của mình ra đi.

Không chỉ các thành viên trong gia đình mà còn có những người ngoài của gia đình cũng vậy, là cơ hôi để những người không có việc làm có việc làm là cơ hội để mọi người nói chuyện cười đùa cũng nhau, cũng những người khoe của khoe cái sự giàu sang của mình là dịp để họ hẹn hò, cặp kè, nói chuyện tình tứ, đi dạo phố cũng nhau. Và niềm sung sướng hơn khi thấy được những vũng nhạy cảm hấp dẫn của cô Tuyết đứa cháu hưng hỏng.

Cảnh đám tang được diễn ra như đám hội như một tấm đại hài kịch, nói lên sự lố lăng, vô đạo đức của cái xã hội thợng lưu ngày trước.

Qua tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán phán mạnh mẽ bản chất bất nhân, giả dối và sự lối lăng, đồi bại của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

Thanh Bình tổng hợp