So sánh giữa tri giác và tư duy

So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, so sánh cảm giác và tri giác, so sánh tư duy và tưởng tượng.

Nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người trong quá trình sống và hoạt động. trong đó con người có thể nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh và đời sống xã hội. việc nhận thức thế giới con người có thể đạt đến những mức độ nhận thức khác nhau, mà nhận thức cảm tình(gồm cảm giác và tri giác) là mức nhận thức thấp nhất, còn nhận thức lý tính là mức nhận thức cao hơn, phản ánh những thuộc tính bên trong gồm tư duy và tưởng tượng. nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đồng thời chúng cũng có những điểm giống và khác nhau tạo nên tính chất riêng của nhận thức


Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Tri giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính quy luật bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách mà trước đó ta chưa biết. Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.


  1. So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính


  • Cả hai quá trình nhận thức đều phản ánh hiện thực khách quan để có những hình ảnh về chúng.
  • Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là quá trình tâm lý có mở đầu , có diễn biến và kết thúc.

  1. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính

  • Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhận thức lý tính. Lê nin nói: “ không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả.
  • Nhận thức thức lý tính phải dựa trên nhận thức cảm tính, gắn chặt với nhận thức cảm tính, thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính. Dù nhận thức lý tính có trừu tượng và lhais quát đến đâu thì nội dung của nó cũng chứa đựng các thành phần của nhận thức cảm tính.
  • Ngược lại, nhận thức lý tính chi phối nhận thức cảm tính làm cho nhận thức cảm tính tinh vi, nhạy bén và chính xác hơn.

  1. So sánh cảm giác và tri giác.

  • Cảm giác và tri giác đều nằm trong nhận thức cảm tính nên chúng có những điểm chung:

  • Chúng đều là quá trình tâm lý, tức là đều có ba giai đoạn :mở đầu, diễn biến, kết thúc.
  • Cả cảm giác và tri giác đều chỉ phản ánh bề ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.

  • Những điểm khác nhau giữa cảm giác và tri giác:

View attachment 9613

  1. Mối quan hệ giữa cảm giác và tri giác
Giữa cảm giác và tri giác có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình nhận thức của con người:

  • Cảm giác là cơ sở, là nguyên liệu cho quá trình tri giác và ngược lại, tri giác là sự phát triển cao là một quá trình nhận thức khác xa về chất so với cảm giác, giúp cho cảm giác có hiệu quả hơn.
  • Vd: giáo viên không nên nói quá to hoặc quá nhỏ, chữ viết trên bảng phải rõ ràng, đủ to để học sinh ngồi cùng có thể nhìn thấy. những điểm lưu ý, quan trọng giáo viên có thể viết đậm hơn, thay đổi kiểu chữ viết để tạo sự chú ý cho học sinh. Thông qua hoạt động để rèn luyện cảm giác cho học sinh, làm cho vùng cảm giác rộng hơn,…

  1. So sánh tư duy và tưởng tượng

Giống nhau Tưởng tượng và tư duy là 2 quá trình thuộc tính nhận thức lý tính, tức là đều phản ánh những cái mới, những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật. cả 2 quá trình đều xuất hiện khi gặp tình huống có vấn đề và hướng vào giải quyết tình huống có vấn đề. Cả 2 đều mang tính khái quát, tính gián tiếp, đều có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính và ngôn ngữ, đều phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn. Khác nhau:

View attachment 9615



  1. Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng:

Giữa tư duy và tưởng tượng có mối quan hệ mật thiết với nhau không có quá trình tư duy nào lại tách rời khỏi quá trình tưởng tượng. Ngược lại không có quá trình tưởng tượng nào lại không cần sự hỗ trợ của tư duy. Cụ thể là tư duy tạo ra ý đồ của tưởng tượng. Còn những hình ảnh cụ thể do tưởng tượng tạo ra cùng chứa đựng và bộc lộ nội dung tư tưởng của tư duy trừu tượng tạo ra. Nhờ tưởng tượng mà tư duy được cụ thể hóa bằng các hình ảnh. Tưởng tượng vạch ra hướng đi cho tư duy, thúc đẩy tư duy trong việc tìm kiếm, khám phá cái mới. VD: giả sử học sinh làm một bài toán hình học. Trước hết người học sinh phải nhận thức được yêu cầu nhiệm vụ (bài toán) sau đó phải nhờ lại các định lý có liên quan, mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, phải chứng minh… để đưa ra những cách giải quyết có thể có. Tiếp theo người học sinh xem xét lại những phương hướng giải quyết bài toán sau khi giải xong cần rút ra kinh nghiệm cách giải sau đó tưởng tượng sáng tạo ra cách giải mới từ cách giải cũ lựa chọn những phương hướng tối ưu. III/ Tổng kết: Để rèn luyện nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính của mỗi cá nhân cần tích cực tham gia vào các loại hình hoạt động. Trong hoạt động, tùy vào điều kiện và yêu cầu của hoạt động, mà con người có thể rèn luyện các giác quan cảm nhận cũng như năng lực tư duy, tưởng tượng của mình.


  • Cá nhân cần rèn luyện các giác quan giữ gìn chúng không bị bệnh tật để chúng hoạt động có hiệu quả nhất. Nếu giác quan nào bị yếu thì khả năng chú ý cũng giảm sút. Sức khỏe cá nhân cũng là một yếu tố liên quan đến các thuộc tính nhận thức. Cá nhân có sức khỏe tốt là điều kiện cho quá trình nhận thức diễn ra tốt hơn.
  • Rèn luyện các giác quan của chúng ta.
  • Rèn luyện thính giác:
Khi bé được 2, 3 tuổi, bé cần nhận biết các âm thanh khác nhau và tại sao lại có âm thanh đó.Mẹ và bé có thể chơi trò “bịt mắt đoán tiếng động”. Ví dụ, mẹ bịt mắt bé và đóng cửa. Mẹ hỏi: “Đó con biết đó là tiếng gì?”, hoặc mẹ đố bé tiếng rót nước, tiếng chảo mỡ sôi xèo xèo… Những bé thông minh, rèn luyện nhiều sẽ có khả năng phân biệt các âm thanh phát ra từcác loại nhạc cụ khác nhau.

Rèn luyện khứu giác cho bé Dường như đây là cơ quan cảm giác khó “rèn luyện” và khó phát triển nhất của bé. Nhưng thật thiếu sót và sai lầm nếu bố mẹ bỏ qua việc rèn luyện cơ quan cảm giác này. Những món ăn mẹ nấu trong bếp, mẹ có thể dậy bé mùi thơm của hành lá, mùi tàu, mùi thịt rán, mùi canh cá… Mẹ dạy bé mùi thơm của hoa, mùi hương trầm… Tránh để bé phải ngửi những mùi như mùi rác, cơm thiu, mùi hôi thối… Khi bé lớn hơn chút nữa, mẹ cũng có thể cho bé chơi trò “ngửi mùi – đoán vật”. Ví dụ, đoán mùi nước mắm, mùi xì dầu, mùi rượu… Trò chơi này giúp bé thông minh và nhạy cảm với các mùi khác nhau. (tài liệu tham khảo tại trang masterkids.com.vn) Còn đối với người lớn cần rèn luyện khả năng lắng nghe thay vì nghe như thông thường.


  • Trao dồi vốn ngôn ngữ để tăng khả năng tư duy thông qua việc học thêm ngoại ngữ ( anh, pháp,…), đọc nhiều sách báo để tăng vốn từ vựng,….hay ở trẻ hãy bày ra những tình huống khó xử, đưa ra các câu hỏi, buộc con phải động não suy nghĩ. Chẳng hạn bây giờ, cha con bạn đang đi trên đường, bạn đưa ra giả định cháu bị lạc và đặt câu hỏi xem nó có thể làm thế nào để tìm về nhà an toàn.

Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nhận thức lý tính là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong, bản chất của sự việc), là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai khái niệm rất được quan tâm khi nghiên cứu về tâm lý học con người. Tuy nhiên, nó vẫn còn rất mới mẻ và chưa được biết đến rộng rãi trong xã hội. Vì vậy, chúng tôi mong muốn đem đến cho Quý vị những thông tin cơ bản để Quý vị có thể hiểu rõ hơn về vấn đề trên thông qua bài viết so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

Nhận thức cảm tính là gì?

Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy.

Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:

– Cảm giác: Là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.

VD: Khi ta chạm tay vào bình nước nóng, bàn tay sẽ có cảm giác nóng và có phản ứng co lại.

– Tri giác: Hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật.

VD: Khi ta cầm một quả bóng đá, thông qua các giác quan ta sẽ nhận biết được quả bóng có hình cầu, làm bằng da, có hai màu đen và trắng.

– Biểu tượng: Là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.

VD: Khi nhắc đến xe đạp, chúng ta sẽ lập tức hình dung ra phương tiện có hai bánh bằng cao su, có bàn đạp, tay lái và ghi đông.

Nhận thức lý tính là gì?

Nhận thức lý tính  là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong, bản chất của sự việc), là  giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.

– Khái niệm: Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.

Ví dụ: Thời điểm nhà nước chưa ra đời, mọi vấn đề của xã hội hầu hết được điều chỉnh bằng quy phạm đạo đức hay cảm tính. Tuy nhiên, khi nhà nước ra đời đã ban hành nhiều luật lệ, mệnh lệnh buộc người dân phải tuân thủ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, các quy định trên đã phát triển thành pháp luật. Khái niệm pháp luật được hiểu như sau “pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mong muốn, ý chí của nhà nước”.

Phán đoán: Là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để đưa ra các khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.

Ví dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm “dân tộc Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”.

Suy luận: Là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới.

Ví dụ: Nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta rút ra được tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.

So sánh giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Sau khi tìm hiểu về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, có thể thấy hai thuật ngữ thường dễ bị nhầm lẫn với nhau. Để giúp Quý vị nhận biết dễ dàng hơn, chúng tôi xin đưa ra một số tiêu chí nhằm so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính như sau:

Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. 
– Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.

– Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất.

– Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.

– Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.

– Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.

– Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.

– Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Nếu không có nhận thức cảm tính thì tất yếu sẽ không có nhận thức lý tính; Và nếu không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất của sự vật – chúng có mối quan hệ tương quan, bổ sung cho nhau phát triển.

Trên đây là nội dung hỗ trợ của chúng tôi về vấn đề so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ số điện thoại 19006557 để được hỗ trợ.