So sánh Viện kiểm sát qua các bản Hiến pháp

Bộ máy nhà nước qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 theo quy định như sau.

Hiến pháp 1946Hiến pháp 1959Hiến pháp 1980Hiến pháp 1992Hiến pháp 2013
_Mang tính chất của Hiến pháp tư sản.

_Có 5 cấp hành chính gồm: Trung ương, bộ, tỉnh, huyện, xã.

_Có 3 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan tư pháp   (chưa có viện kiểm sát)

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

_Bộ máy nhà nước thể hiện rõ nguyên tắc trách nhiệm tập thể.

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Nghị viện là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở trung ương được thành lập bằng con đường bầu cử theo nguyên tắc tự do, dân chủ, bỏ phiếu kín. Nhiệm kì 3 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (không có ở cấp huyện và bộ) có nhiệm kì 3 năm.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp được hình thành bằng con đường bầu cử. Nhiệm kì 4 năm

_HĐND: là cơ quan quyền lực  nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu  trách nhiệm trước nhân dân địa phương.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra. Nhiệm kì 5 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội; là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra. Nhiệm kì 5 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan hành chính gồm: _Chủ tịch nước nằm trong cơ cấu của Chính phủ.

_Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước VNDCCH, do Nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính phủ gồm có: Chủ tịch nước, phó chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng và có thể có phó thủ tướng.

_Các UBHC ở địa phương: là các UBHC cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Do cấp bộ không có HĐND nên UBHC bộ do HĐND các tỉnh và thành phố bầu ra.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Hội đồng Chính phủ do Quốc hội thành lập.

_Các UBHC do HĐND cung cấp thành lập.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Hội đồng Bộ trưởng.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Chính phủ.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Chính phủ.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao

+Toà phúc thẩm.

+Toà đệ nhị cấp.

+Toà sơ cấp.

_Chánh án TAND tối cao do Chính phủ bổ nhiệm.

_Tổ chức hệ thống toà án theo nguyên tắc xét xử, có sự tham gia của hội thẩm nhưng không được ngang với thẩm phán.

_Toà án thực hiện chức năng xét xử và công tố.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp ( trừ cấp xã)

+Toà án quân sự.

_Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

 Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI

Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

Hiến pháp năm 1959 được ban hành đã đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND).

Trải qua các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, thiết chế VKSND tiếp tục được khẳng định và ngày càng hoàn thiện. Tổng kết hơn 50 năm tổ chức và hoạt động của VKSND, nhất là 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã chứng minh VKSND là thiết chế hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, phát hiện kịp thời những vi phạm trong hoạt động tư pháp. Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND đã góp phần chấn chỉnh công tác bắt, giam, tha, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, khắc phục hiệu quả tình hình oan, sai, bỏ lọt trong xử lý án hình sự. Chất lượng công tố, tranh tụng của các kiểm sát viên tại phiên tòa ngày càng được nâng cao, góp phần cùng Tòa án tuyên các bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Thông qua công tác kiểm sát xét xử, hằng năm, VKSND các cấp đã phát hiện và kiến nghị, kháng nghị với Tòa án khắc phục những sai sót trong áp dụng pháp luật và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Số lượng và chất lượng kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm được Tòa án chấp nhận đạt cao qua các năm, các kiến nghị của VKSND được Tòa án chấp nhận, khắc phục kịp thời những vi phạm trong hoạt động xét xử...

Quá trình cải cách tư pháp và sửa đổi Hiến pháp đặt vấn đề nghiên cứu đổi mới thiết chế VKSND, đã có một số ý kiến cho rằng cần chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố. Theo các ý kiến này, Viện Công tố sẽ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tố tụng hình sự, chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, không thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã nghiêm túc triển khai việc nghiên cứu đổi mới chế định VKSND, tiến hành tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động của VKSND ở nước ta; tham khảo kinh nghiệm tổ chức cơ quan công tố, cơ quan kiểm sát các nước trên thế giới; tổ chức thảo luận trong Ủy ban kiểm sát, xin ý kiến các đồng chí lãnh đạo lão thành và lấy ý kiến của các đơn vị trong toàn ngành. Từ kết quả tổng kết thực tiễn và nghiên cứu bám sát các quan điểm, chủ trương, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp thể hiện trong Cương lĩnh, Văn kiện, Nghị quyết của Ðảng, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã báo cáo và đề nghị các cơ quan có thẩm quyền: việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố trong điều kiện cụ thể của Việt Nam là không phù hợp, cần tiếp tục duy trì mô hình VKSND như hiện tại, nhưng có đổi mới và tăng cường hơn.

Ở nước ta, về thể chế chính trị, Ðảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất, tuyệt đối và toàn diện đối với Nhà nước và xã hội. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không theo cơ cấu tam quyền phân lập. Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta, việc tổ chức và duy trì một hệ thống cơ quan độc lập, bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố, chuyên trách thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là rất cần thiết. Ðặc biệt, trong Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) và Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đã khẳng định phải đẩy mạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghiên cứu xu hướng cải cách Viện Công tố trên thế giới cho thấy, các nước ngày càng có xu hướng tăng cường sự độc lập cho Viện Công tố và mở rộng phạm vi hoạt động ra ngoài lĩnh vực truyền thống là truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo dõi quá trình cải cách Viện kiểm sát ở các nước thời gian qua, nhất là ở Nga và một số nước XHCN cũ ở Ðông Âu thấy rằng, mặc dù các nước này có sự thay đổi về thể chế chính trị, song phần lớn vẫn giữ mô hình Viện kiểm sát với hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật (Nga, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, U-crai-na v.v.). Thậm chí, có nước còn giao cho Viện kiểm sát nhiều thẩm quyền hơn để thực hiện hiệu lực, hiệu quả hai chức năng này. Ở Việt Nam, Viện Công tố không phải là vấn đề mới mẻ. Nhà nước ta đã từng tồn tại cả hai mô hình Viện Công tố: mô hình Viện Công tố trực thuộc Tòa án (giai đoạn 1945-1958) và mô hình Viện Công tố trực thuộc Chính phủ (giai đoạn 1958-1959). Việc tách Viện Công tố khỏi Tòa án và không còn thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp về hành chính, thành lập hệ thống Viện Công tố độc lập, trực thuộc Chính phủ vào năm 1958 chính là bước quá độ cho việc tổ chức một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước để thực hiện tốt chức năng công tố và giám sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, trực thuộc nhánh hành pháp, chủ yếu thực hiện chức năng truy tố tội phạm như một số ý kiến nêu trên là đã tự xóa đi trong bộ máy nhà nước ta một hệ thống cơ quan giám sát độc lập, đã được thử thách và khẳng định đạt được nhiều kết quả quan trọng trong suốt hơn 50 năm qua. Với những lý do nêu trên, Ban Chấp hành trung ương Ðảng, Bộ Chính trị và Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã kết luận tiếp tục duy trì mô hình Viện kiểm sát nhân dân.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tiếp tục đặt chế định VKSND tại chương VIII cùng chế định Tòa án nhân dân (TAND). Quá trình nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp có nhiều ý kiến khác nhau chung quanh vấn đề đặt VKSND ở đâu trong cơ cấu của Hiến pháp. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, nên quy định VKSND cùng chương với TAND như Hiến pháp hiện hành. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần tách các quy định về VKSND thành một chương độc lập vì xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát vừa đảm nhiệm vai trò của một cơ quan tư pháp, vừa đảm nhiệm vai trò của cơ quan giám sát độc lập trong lĩnh vực tư pháp. Loại ý kiến thứ ba cho rằng, nên đặt VKSND vào chương các thiết chế hiến định độc lập cùng với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước... Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã lựa chọn phương án tiếp tục quy định TAND và VKSND trong cùng một chương. Quy định này phù hợp với tính chất hoạt động của hai hệ thống cơ quan vì cùng thực hiện hoạt động tư pháp và đều là các cơ quan tư pháp. Tham khảo Hiến pháp nhiều nước trên thế giới cũng quy định thiết chế Viện kiểm sát, Viện Công tố cùng chương với Tòa án hoặc đặt hai cơ quan này trong chương quyền tư pháp (Trung Quốc, Liên bang Nga, Pháp, I-ta-li-a, Bồ Ðào Nha, Bun-ga-ri, Ca-dắc-xtan, A-déc-bai-gian, Ác-mê-ni-a, v.v.).

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp dành ba điều quy định về VKSND: Ðiều 112, Ðiều 113 và Ðiều 114. So với Hiến pháp hiện hành giảm bớt một điều, song các nội dung quan trọng liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND, chế độ bầu Viện trưởng VKSND tối cao và các chức danh tư pháp thuộc Viện kiểm sát đều được thể hiện trong Dự thảo. Cách quy định này là phù hợp, thể chế hóa các yêu cầu mới về kỹ thuật lập hiến, bảo đảm tính khái quát, cô đọng, súc tích, đúng tầm là đạo luật cơ bản, đáp ứng yêu cầu ổn định lâu dài của Hiến pháp.

Ðiều 112 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc giao cho VKSND tiếp tục thực hiện hai chức năng hiến định này chính là đòi hỏi khách quan xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta; phù hợp với xu hướng vận động, phát triển của thiết chế kiểm sát, công tố trên thế giới; đặc biệt là đáp ứng yêu cầu của nhân dân và xã hội cần tiếp tục phát huy những thành tựu quan trọng của VKSND trong hơn 50 năm qua. Ðồng thời, khoản 3 điều này đã bổ sung trách nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân để phù hợp với chức năng được giao. Bởi lẽ, khi tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát không chỉ đóng vai trò của một bên (bên công tố, buộc tội) như pháp luật một số nước, mà còn được giao trách nhiệm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm một cách trái pháp luật. Do đó, bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân phải được coi là một trong những hướng hoạt động ưu tiên của Viện kiểm sát thời gian tới.

Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp được đề ra trong các nghị quyết của Ðảng là "... tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình"(1). Thể chế hóa yêu cầu của Ðảng, cùng với việc tiếp tục khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Dự thảo bổ sung nguyên tắc "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân". Việc bổ sung này là cần thiết, phù hợp các yêu cầu mới đặt ra đối với công tác tư pháp hiện nay. Nguyên tắc này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho kiểm sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi công vụ của kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao đối với toàn hệ thống.

Ðể tiếp tục hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng tôi xin tham gia một số ý kiến sau đây:

Quy định Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại Ðiều 112 Dự thảo cơ bản đã phản ánh đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Tuy vậy, theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI "Những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cần quy định rõ trong Hiến pháp" thì cũng còn một số nhiệm vụ chưa được quy định. Theo Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2003, Luật Tương trợ tư pháp và một số đạo luật khác, VKSND được giao thực hiện những nhiệm vụ như: làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; thống kê tội phạm liên ngành, v.v. Những nhiệm vụ này không thuộc phạm vi chức năng thực hành quyền công tố, cũng không thuộc chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng do Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án), có điều kiện tốt nhất để thực hiện các nhiệm vụ này nên Quốc hội quyết định giao cho Viện kiểm sát thực hiện. Nhằm thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Nghị quyết T.Ư 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành T.Ư 2 Ðảng khóa XI và phù hợp các nhiệm vụ VKSND đang được Quốc hội giao đảm nhiệm, đề nghị sửa đổi Ðiều 112 Dự thảo như sau: "Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những nhiệm vụ khác do luật định". Việc bổ sung quy định nêu trên chính là nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời, tránh những nhận thức thiếu thống nhất trong quá trình xây dựng các dự án luật thuộc lĩnh vực tư pháp thời gian tới.

Qua thảo luận lần đầu tại Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một trong những nội dung quan trọng dành được sự quan tâm của các đại biểu, đó là đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thật sự thuộc về nhân dân. Nhiều đại biểu đề nghị xem xét giao lại chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung) để ngành kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện nhằm khắc phục những lỗ hổng trong các cơ chế kiểm tra, giám sát hiện nay ở Nhà nước ta. Ðây cũng là kiến nghị của nhiều nhà khoa học, cán bộ hoạt động thực tiễn tại các hội thảo trong nước và quốc tế về Hiến pháp. Theo ý kiến các đại biểu Quốc hội, việc giao chức năng kiểm sát chung cho VKSND thực hiện hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ VKSND là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Nguyên tắc này là bảo đảm quan trọng để VKSND không bị phụ thuộc và không chịu áp lực của các cơ quan chính quyền địa phương, sự can thiệp trái pháp luật từ các cá nhân, tổ chức. Ðồng thời, VKSND có bộ máy được tổ chức từ trung ương đến địa phương, với đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên được đào tạo cử nhân luật và nghiệp vụ kiểm sát, có bề dày kinh nghiệm kiểm sát hơn 50 năm, điều đó bảo đảm cho VKSND có điều kiện thuận lợi hơn bất cứ cơ quan nào trong thực hiện giám sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước. Ðây là vấn đề hết sức quan trọng, cần được nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng nhằm thực hiện đầy đủ yêu cầu mà Cương lĩnh và Văn kiện Ðại hội XI của Ðảng đề ra.

Ủy ban kiểm sát là thiết chế quan trọng thuộc cơ cấu của VKSND. Trải qua các thời kỳ, địa vị pháp lý cũng như mức độ ghi nhận trong Hiến pháp về thiết chế Ủy ban kiểm sát được thể hiện khác nhau. Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 không quy định về Ủy ban kiểm sát. Thời kỳ này, Ủy ban kiểm sát chỉ được quy định trong Luật Tổ chức VKSND và được xác định là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng. Hiến pháp năm 1992 đặt yêu cầu phải bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của VKSND, trên cơ sở đó đã bổ sung quy định Ủy ban kiểm sát (tại Ðiều 138). Thay vì vai trò là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng, Ủy ban kiểm sát được quy định là cơ quan có thẩm quyền quyết định đối với một số vấn đề quan trọng do luật định. Tổng kết thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 cho thấy, quy định về Ủy ban kiểm sát là phù hợp, phát huy trí tuệ và trách nhiệm của tập thể Ủy ban kiểm sát, đồng thời không mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Trường hợp Viện trưởng VKSND cấp tỉnh không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì có quyền báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao; trường hợp Viện trưởng VKSND tối cao không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì có quyền báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. Dự thảo Hiến pháp sửa theo hướng bỏ các quy định liên quan đến Ủy ban kiểm sát, chỉ ghi nhận nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Quy định như Dự thảo thực chất đã tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Viện trưởng, đưa Ủy ban kiểm sát trở lại vị trí tư vấn cho Viện trưởng như Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Ðiều này không phù hợp với tổng kết thực tiễn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992. Vì vậy, đề nghị giữ quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành: Việc thành lập Ủy ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Ủy ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chức danh tư pháp thuộc VKSND không chỉ có kiểm sát viên mà còn gồm cả điều tra viên. Quá trình cải cách tư pháp hiện nay đặt yêu cầu nghiên cứu mở rộng diện các chức danh tư pháp ở mỗi cơ quan tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu phân công lao động hợp lý trong hoạt động tư pháp. Ðối với những hoạt động tố tụng đơn giản (như lập biên bản tố tụng, ghi lời khai...) có thể giao cho cán bộ điều tra, kiểm tra viên đảm nhiệm mà không nhất thiết phải do điều tra viên, kiểm sát viên tiến hành mới có giá trị pháp lý như hiện nay. Nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy đều đặt ra nhiều chức danh tư pháp trong mỗi cơ quan tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án. Ðể phù hợp với pháp luật hiện hành và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đề nghị bổ sung khoản 3 Ðiều 114 Dự thảo như sau: "Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của kiểm sát viên, điều tra viên và các chức danh tư pháp khác thuộc VKSND do luật định".

Một thiết chế khác liên quan chặt chẽ đến yêu cầu bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà nước ta, được nhân dân và đại biểu Quốc hội đề cập thời gian qua đó là "đã đến lúc phải thay đổi cách đánh, thay đổi người đánh đối với tội phạm tham nhũng, thành lập cơ quan độc lập chuyên trách điều tra án tham nhũng"(2). Thực tiễn điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng thời gian qua cho thấy, số lượng vụ án tham nhũng được phát hiện, điều tra chưa tương xứng với thực trạng tham nhũng xảy ra. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng... đang là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước, sự kiên nhẫn của nhân dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu được các đại biểu Quốc hội chỉ ra đó là do chúng ta chưa có cơ quan điều tra án tham nhũng đủ mạnh, hoạt động độc lập. Tham khảo kinh nghiệm các nước thấy rằng, trong quá trình quản lý của mình, các nước đặc biệt chú trọng hoàn thiện các cơ chế để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, trong đó có việc tổ chức cơ quan độc lập chuyên trách điều tra tội phạm tham nhũng. Trung Quốc là quốc gia có điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tương đồng với Việt Nam song từ rất lâu đã tổ chức cơ quan chuyên trách điều tra án tham nhũng trực thuộc Viện kiểm sát và hiện đang hoạt động rất hiệu quả. Nhiều quốc gia khác như Vương quốc Anh, Xin-ga-po, Nam Phi, Ô-xtrây-li-a,...  đều có cơ quan độc lập điều tra tội phạm tham nhũng. Nam Phi đặt cơ quan này dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng thống và được phép áp dụng một số biện pháp điều tra đặc biệt. Xin-ga-po ghi nhận sự độc lập của cơ quan chuyên trách điều tra án tham nhũng ở văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp và mặc dù về tổ chức bộ máy đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng, song việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên cơ quan điều tra này thuộc thẩm quyền của Tổng thống... Một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với việc sửa đổi Hiến pháp lần này là cần tổng kết, đánh giá sâu sắc, toàn diện các thiết chế phòng, chống tham nhũng ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất mô hình cơ quan điều tra án tham nhũng hoạt động khách quan, hiệu quả, đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân. Hệ thống tổ chức, cách làm và hiệu quả phòng, chống tham nhũng ở các quốc gia nêu trên có thể là thông tin tham khảo bổ ích đối với chúng ta.

......................................

(1) Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(2) PGS, TS Trần Ðình Nhã, Ðại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội.

PGS, TS NGUYỄN HÒA BÌNH y viên T.Ư Ðảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao