Tại Sao người phát minh ra cuốn lịch lại biết được ngày hôm đó là ngày nào

(Lichngaytot.com) Lịch là gì? Lịch ra đời từ khi nào? Trên thế giới có mấy loại lịch chính? Việt Nam đã sử dụng lịch từ bao giờ? Bạn có thể tìm được tất cả câu trả lời trong bài viết dưới đây.

Lịch vốn là một khái niệm rất quen thuộc với mỗi chúng ta. Chắc hẳn bạn không thể tưởng tượng ra được nếu thế giới mình đang sống mà không có lịch, không có thời gian được quy định và tính toán một cách rõ ràng thì cuộc sống sẽ hỗn loạn ra sao.

Thế nhưng lịch là gì, lịch có lịch sử như thế nào thì không phải ai cũng rõ. Hãy cùng có cái nhìn sâu hơn về lịch trong bài viết dưới đây của Lịch ngày tốt!


1. Lịch là gì? 

Nhu cầu ghi chép lại những sự kiện quan trọng trong cộng đồng đã xuất hiện ngay từ thuở xa xưa, khi con người còn chưa có chữ viết, chỉ có thể dùng hình vẽ kí hiệu trên các hang động, thân cây, xương thú.

Xuất phát từ chính nhu cầu này của con người nên lịch đã ra đời. Lịch ra đời đã khiến con người vận động có tổ chức, có thời gian thống nhất hơn rất nhiều. 

Tại Sao người phát minh ra cuốn lịch lại biết được ngày hôm đó là ngày nào
Lịch ra đời giúp con người làm việc có tổ chức hơn

Lịch là gì? Từ “lịch” tức “Calendar” hay “calendrier” của các ngôn ngữ châu Âu vốn bắt nguồn từ chữ “Calendae” (Kalendae) trong tiếng Latin.

Từ này có nghĩa là “ngày đầu tiên của tháng La Mã”, đây là thời điểm người ta dành để công bố thời gian tổ chức các phiên chợ, lễ hội hoặc các sự kiện quan trọng khác.

Lịch được xây dựng theo các quy tắc riêng, là một hệ thống có tổ chức, dùng để ghi chép, tính toán thời gian theo cách thuận tiện nhất, giúp con người sống có nề nếp, phục vụ các lễ nghi tôn giáo, cũng như phục vụ các mục đích lịch sử và khoa học khác nhau. Ngày hoàng đạo, giờ hoàng đạo là gì?

2. Các loại lịch phổ biến trên thế giới

Trên thế giới có rất nhiều các loại lịch khác nhau, nhưng được biết đến và sử dụng phổ biến nhất hiện nay là dương lịch, âm lịch, âm dương lịch.

Dương lịch

Dương lịch là loại lịch mà ngày tháng chỉ ra vị trí của Trái Đất trong chuyển động xung quanh Mặt Trời, hay nói cách khác là vị trí biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu. Đối với người Việt hiện nay, thuật ngữ “dương lịch” nói chung chỉ là lịch Gregorius. Lịch Gregorius, còn gọi là Tây lịch hay Công lịch, là một bộ lịch do Giáo hoàng Grêgôriô XIII đưa ra vào năm 1582. Loại lịch này chia một năm thành 12 tháng với 365 ngày, cứ mỗi 4 năm thì thêm 1 ngày vào cuối tháng 2 để tạo thành năm nhuận với 366 ngày.

Âm lịch là gì? Đây là loại lịch được tính dựa trên các chu kỳ của tuần trăng, tuy nhiên, lịch âm thuần túy nhất trên thực tế chỉ có lịch Hồi giáo. Trong lịch Hồi giáo, mỗi năm chỉ có đúng 12 tháng Mặt Trăng, và lịch này được sử dụng chủ yếu cho mục đích tín tưỡng và tôn giáo. 

Tại Sao người phát minh ra cuốn lịch lại biết được ngày hôm đó là ngày nào
Lịch âm được tính dựa theo chu kỳ của mặt trăng

Đặc trưng của loại lịch này là sự liên tục của chu kỳ trăng tròn, nó hoàn toàn không gắn với các mùa trong năm. Đây là lý do khiến thời gian mỗi năm trong âm lịch của Hồi giáo ngắn khoảng 11 hay 12 ngày so với các nước sử dụng dương lịch. 

Lịch chỉ khớp với năm dương lịch sau mỗi 33 hoặc 34 năm Hồi giáo.

Âm dương lịch


Âm dương lịch là lịch được tính căn cứ theo cả chuyển động của Mặt Trăng và chuyển động biểu kiến của Mặt Trời.

Trong loại lịch này, các tháng được duy trì theo chu kỳ của Mặt Trăng, tuy nhiên cũng có trường hợp các tháng nhuận được thêm vào theo quy tắc nhất định để điều chỉnh các chu kỳ trăng cho ăn khớp với năm dương lịch. 

Hiện nay, người Việt Nam nhắc đến “âm lịch” là để chỉ nông lịch, một loại lịch được sử dụng phổ biến ở các quốc gia và khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Về thực chất, cách tính loại âm dương lịch này là nhờ vào sự kết hợp của âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí được tính theo dương lịch.

Công dụng của loại lịch này là để tính các ngày rằm, mùng 1, các lễ hội trọng đại trong một năm như Tết Nguyên Đán, rằm tháng bảy, Tết Trung thu… cũng như để chọn ngày tốt cho các công việc lớn như ma chay, cưới xin, xây sửa nhà cửa…

2. Lịch xuất hiện từ khi nào?

Châu Âu

Người ta phát hiện ra rằng, cách đây hơn 20 nghìn năm, các thợ săn ở khu vực châu Âu đã dùng dùng dụng cụ để khắc lên thân cây hoặc xương thú để tính các ngày theo tuần trăng. 

Cách đây hơn 4000 năm, có lẽ các cột đá Stonehenge ở Anh đã được xếp đặt để xác định các mùa và một số thời điểm quan trọng trong năm.

Ở Hy Lạp, các di vật khảo cổ bằng đất sét có niên đại từ thế kỷ XIII TCN cũng cho thấy người Hy Lạp đã sử dụng Lịch âm gồm các tháng có 29 và 30 ngày xen kẽ nhau. 

Ở La Mã, lịch lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ thứ VII hoặc VIII TCN gồm 304 ngày, trong đó có tổng cộng 10 tháng với 6 tháng 30 ngày và 4 tháng 31 ngày.  

Người Maya

Người Maya xây dựng lịch dựa trên chu kỳ hoạt động của cả Mặt Trăng, Mặt Trời và sao Kim. Lịch của họ có 2 loại gồm 260 ngày vào 365 ngày.  

Ai Cập

Bộ Lịch đầu tiên được người Ai Cập sáng tạo ra cách đây hơn 10.000 năm, gồm 360 ngày với 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày.

Tại Sao người phát minh ra cuốn lịch lại biết được ngày hôm đó là ngày nào
Lịch của người Ai Cập cổ đại


Nhưng sau đó, kết hợp với việc quan sát thiên văn và hiện tượng thủy triều trên sông Nin mà người ta đã điều chỉnh, cải tiến thành loại lịch mới gồm 365 ngày.

Người Babylon

Người Babylon bắt đầu sử dụng lịch vào khoảng 2000 năm TCN. Lịch gồm 12 tháng, xen kẽ các tháng có 29 và 30 ngày. Đến năm 380 TCN, lịch được cải tiên và trở nên chi tiết hơn khi có thêm sự kết hợp giữa tuần trăng và thời tiết.

Ấn Độ

Lịch cổ nhất của Ấn Độ xuất hiện từ khoảng 1000 năm TCN. Loại lịch này chia một năm thành 360 ngày với 12 tháng âm, mỗi tháng có 27 hoặc 28 ngày. Sau mỗi 60 tháng, số ngày thiếu sẽ được bù thêm bằng cách chèn thêm tháng nhuận vào.

Trung Quốc

Lịch âm dương xuất hiện ở Trung Quốc từ thế kỷ XIV TCN do nhà Thương tạo ra, thế nhưng theo truyền thuyết, lịch còn có thể xuất hiện sớm hơn nữa, từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế, tức năm 2637 TCN, do Hoàng Đế sáng tạo ra.

Tuy nhiên, từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã biết một năm dài 365.25 ngày, còn tuần trăng dài 29.5 ngày

4. Lịch Việt Nam ra đời từ khi nào?

Từ thời xa xưa, Lịch đã giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong tiềm thức của người Á Đông, không chỉ ở Trung Hoa có sự kiện vua ban lịch hàng năm cho thần dân, để thân dân theo đó mà thực hiện tế lễ, nông vụ; mà ở Việt Nam, lễ ban lịch hàng năm, hay còn gọi là Ban Sóc cũng diễn ra rất long trọng.

Qua các thời kỳ phong kiến, tuy các cơ quan làm lịch được thay đổi nhiều lần, thế nhưng đều được tổ chức rất quy củ. Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn có nhiệm vụ dự báo thời tiết, quan sát thiên văn rồi làm khải tấu trình lên vua. 

Xem thêm: Xem ngày tốt năm 2022 theo từng tháng âm lịch!


 

Tại Sao người phát minh ra cuốn lịch lại biết được ngày hôm đó là ngày nào
Việt Nam hiện nay sử dụng Âm dương lịch


Trong 1000 năm Bắc thuộc cho tới năm 1054, tức thời vua Lý Thái Tông, nước ta sử dụng chung lịch với lịch của Trung Hoa.

Kể từ sau năm 1054, khi vua Lý Thánh tông đã lên ngôi, có tư liệu cho rằng nước ta đã bắt đầu tự soạn lịch riêng, dựa theo các phép lịch bên Trung Hoa.

Từ năm 1407, khi bị nhà Minh đô hộ, nước ta đã chuyển sang dùng lịch cùng với nhà Minh, mãi cho đến thời vua Gia Long, năm 1812.

Từ 1813 - 1945, khi Pháp cai trị nước ta, họ đã lập ra bảng đối chiếu lịch Dương với lịch Âm dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhà Nguyễn vẫn tự soạn và ban lịch riêng theo phép lịch thời Hiến (giống như nhà Thanh) ở Trung Kỳ.

Từ 1946 – 1967,  Việt Nam không tự biên soạn Lịch nữa, các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.

Từ 1968 – nay, sau khi trải qua nhiều lần thay đổi múi giờ, giờ chính thức của Việt Nam được công bố tính theo múi giờ số 7, trong khi đó, Trung Quốc lại tính theo múi giờ số 8, vì thế, Việt Nam tiếp tục tự biên soạn lịch riêng cho tới nay.

(Tổng hợp)

Ông Đỗ Thành Lam ở 64 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân (Hà Nội), đã hoàn thành việc nghiên cứu cuốn lịch đặc biệt - Lịch âm dương 3.240 năm - can chi thiên niên vĩnh cửu. Đã hơn 20 năm kể từ ngày "thai nghén", bao công sức, tiền của ông dồn hết cho công trình ấy.

Nhiều người thấy ông Lam mải miết với việc viết lịch mà mất ăn mất ngủ bảo ông là “dở hơi”, có người hiểu và thông cảm với việc làm này thì động viên, cũng nhiều người cho rằng nông dân thuần túy mà học đòi nghiên cứu khoa học, định làm chuyện nổi tiếng,... nhiều khi ông cũng tính chuyện dừng lại để lo cho cuộc sống gia đình.

Còn nhớ cách đây hơn 20 năm về trước, khi đó ông là cựu chiến binh sản xuất nông nghiệp tại quê nhà xã Xuân Trường, Thọ Xuân (Thanh Hóa), được các cụ cao niên trong làng giao cho vinh dự viết sử làng Xuân Phả. Thế là một số kiến thức Hán học mà ông được thừa hưởng của cha ông nay có dịp tận dụng. Ngày đêm miệt mài tìm kiếm tài liệu để hoàn thành cuốn lịch sử làng, nghiên cứu tác phẩm lịch này ông Lam đã tìm đến cuốn Âm dương đối lịch 2.000 năm để tra cứu các niên đại có liên quan đến sự tích làng. Thế là ông Lam đã phát hiện ra trong cuốn lịch đó có 7 chi tiết sai sót. Cũng từ đó ông hoài nghi về dòng lịch hiện hành và mong muốn tìm ra sự thực về thời gian lịch, hy vọng giúp cho các nhà khoa học có thêm một ý kiến tham khảo.

Ông Lam nói: “Tôi cũng không lý giải nổi tại sao mình lại dấn thân vào việc này nữa, thế mà cũng đã hơn 20 năm rồi, nhiều khi nhìn lại đống giấy tờ ngổn ngang mà rùng mình”. Tôi hiểu đó là tâm trạng của một người đam mê một điều gì đó biết chắc khó khăn nhưng vẫn chấp nhận. Ông Lam tìm lại những trang viết đã nhàu nát cũ kỹ cho tôi xem, nó được tận dụng từ những tấm bìa cứng đem kẻ vẽ dựng hình để tiến hành những thao tác hết sức công phu, tỉ mỉ chi chít toàn hình vẽ và chữ. Có những tờ đã phai cả màu giấy lẫn màu mực. Nhiều lần vợ con khuyên ông thôi cái việc này đi, tưởng rằng có thể bỏ được nhưng nào ngờ lúc nào ông cũng tơ vương đến nó cả khi ăn, lúc ngủ hay khi nghe ai đó nói đến chuyện lịch là lại sáng mắt lên rồi có bỏ được đâu.

Ông Lam tính toán, tra cứu tài liệu rồi đánh máy và giật mình với số tiền nợ lên tới 12 triệu đồng. Không còn cách nào khác là phải đi vay ngân hàng trả nợ, tưởng rồi sẽ làm ông nản chí và bỏ cuộc. Nhưng không, đã thế ông càng quyết tâm làm cho hoàn thành. Tác phẩm Lịch âm dương 3.240 năm - can chi thiên niên vĩnh cửu với số tiền lên tới gần 40 triệu đồng để hoàn thành 3.720 trang giấy A4 và đã đăng ký bản quyền. 

Lịch 3.240 năm

Để hoàn thành bộ lịch phải mất hơn 20 năm mày mò kiếm tìm tài liệu, tính toán. Theo ông Lam thì lịch hiện hành có những bất cập, tác phẩm Lịch âm dương 3.240 năm - can chi thiên niên vĩnh cửu sẽ giải quyết những bất cập ấy. Tiếp cận với dịch học và lịch pháp cổ, ông thấy người xưa nêu ra: “Vạn vật, vạn sự đều có âm dương”. Việc tính lịch “người ta thường tính âm lịch trước rồi sau mới có dương lịch”.

Để giải thích cho điều này theo ông: “Giải pháp duy nhất là lồng ghép âm dương – tháng mặt trăng kết hợp với năm mặt trời. Lấy mặt trăng quay quanh trái đất 1 vòng là 1 tháng, mặt trăng cùng với trái đất quay quanh mặt trời 1 vòng là 1 năm. Lấy thập thiên can từ Giáp... đến Quý ứng với 10 số tự nhiên từ 1 đến 10 và thập nhị địa chi từ Tý... đến Hợi ứng với 12 số tự nhiên từ 1 đến 12. Số lẻ là dương, số chẵn là âm, CAN CHI đều có âm dương. Lấy CAN phối với CHI để xưng gọi ngày – giờ – tháng – năm và Lục thập Hoa giáp (HG) bằng 60 làm đơn vị tính thời gian (HG giờ = 60 giờ địa chi = 120 giờ đồng hồ = 5 ngày. HG ngày = 60 ngày = 2 tháng (nguyệt đại = 30 ngày/1 tháng). HG tháng = 60 tháng = 5 năm. HG năm = 60 năm được gọi là một Nguyên. Ba Nguyên đi liền nhau gọi là tam Nguyên = 60 + 60 +60 =180. Trong đó 60 đầu gọi là Thượng nguyên, 60 giữa gọi là Trung nguyên và 60 cuối gọi là Hạ nguyên)...

Đó là cách lý giải thông thường và cách tính công phu một lần của loại lịch này thì chu trình sẽ có hồi kết, mà nói đến thời gian lịch thì nhất thiết phải có một đơn vị thời gian. Phương án Lịch âm dương 3.240 năm - can chi thiên niên vĩnh cửu mà tác giả xây dựng với chu kỳ là 3.240 năm chỉ cần xây dựng công phu một lần. Như vậy, chúng ta sẽ có 1.185.360 ngày/3.240 năm là số kết trọn vẹn của bộ lịch thời gian. Từ kết quả nghiên cứu ông Lam đã đưa ra một khái niệm đơn giản: Lịch Pháp là sự làm tròn ngày - giờ - tháng - năm hoàn nguyên Chương 5 năm. Thập kỷ 10 năm, Hoa giáp 60 năm, Thế kỷ 100 năm, Thiên niên kỷ 1.000 năm, Tam Nguyên Chu Kỳ Thiên Thực = 180 x 6.585 ngày 8 giờ = 1.185.360 ngày/3.240 năm = 1 chỉnh thể thời gian lịch.

Khoa học là công phu, bài bản... Tuy nhiên, khoa học là nghiên cứu sáng tạo ứng dụng thực tế có ý nghĩa xã hội, đi vào công chúng đơn giản dễ hiểu thì mới là khoa học đích thực. Việc một cựu chiến binh, một nông dân đem lòng say mê nghiên cứu khoa học như ông Đỗ Thành Lam thật đáng trân trọng.

Theo ý kiến của ông Vũ An Chương – Giám đốc NXB Văn hóa - Thông tin trả lời ông Lam về tác phẩm lịch Can Chi bằng văn bản thì: “Về đúng sai Nhà xuất bản chưa đề cập tới, nhưng qua trao đổi với một số học giả về Bộ Lịch của tác giả Đỗ Thành Lam, chúng tôi nhận thấy đây là bộ lịch nên được công bố công khai để mọi người có đầy đủ tài liệu tham khảo rộng rãi”. Tuy nhiên, cũng theo ông Chương thì hiện tại Nhà xuất bản chưa có đủ kinh phí để in một tác phẩm lớn như vậy

Huy Thủy