1. Lợi ích của việc sử dụng thuốc đúng liều lượngNếu muốn đảm bảo sức khỏe và hiệu quả điều trị, chúng ta không nên lạm dụng thuốc. Việc sử dụng thuốckháng sinhđúng liều lượng đem lại những lợi ích to lớn, đầu tiên đó là giữ tính hiệu quả, công dụng vốn có của thuốc kháng sinh. Nhờ vậy, bạn ngăn ngừa, hạn chế nguy cơ bị kháng kháng sinh. Đồng thời, việc tuân thủ phác đồ điều trị bác sĩ đưa ra giúp chúng ta tránh khỏi một số tác dụng phụ không mong muốn trong suốt quá trình điều trị bệnh. Show
Lựa chọn và sử dụng kháng sinhChỉ nên sử dụng kháng sinh nếu có bằng chứng lâm sàng hoặc xét nghiệm cho thấy nhiễm khuẩn. Sử dụng cho bệnh virus hoặc sốt không phân biệt là không phù hợp trong hầu hết các trường hợp; nó gây ra tác dụng phụ của thuốc mà không mang lại lợi ích gì và góp phần làm vi khuẩn kháng thuốc. Một số bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn (ví dụ, áp xe, nhiễm trùng với người nước ngoài) cần can thiệp phẫu thuật và không đáp ứng với kháng sinh một mình. Phổ kháng khuẩnCấy máu và kháng sinh đồ rất quan trọng trong việc lực chọn thuốc cho các trường hợp nhiễm khuẩn nặng Tuy nhiên, điều trị thường phải bắt đầu trước khi có kết quả nuôi cấy, cần phải lựa chọn theo các mầm bệnh có khả năng xảy ra nhất (lựa chọn kháng sinh theo kinh nghiệm). Cho dù được lựa chọn theo kết quả nuôi cấy hay không, những loại thuốc có phổ kháng khuẩn hẹp nhất có thể kiểm soát được nhiễm trùng nên được sử dụng. Để điều trị theo kinh nghiệm các trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng có thể liên quan đến bất kỳ một trong số các mầm bệnh (ví dụ như sốt ở bệnh nhân giảm bạch cầu) hoặc có thể là do nhiều mầm bệnh (ví dụ đa nhiễm trùng vi khuẩn kị khí) cần phải có một kháng sinh phổ rộng. Các mầm bệnh có khả năng xảy ra nhiều nhất và tính nhạy cảm với kháng sinh thay đổi tùy theo vị trí địa lý (trong các thành phố hoặc ngay cả trong bệnh viện) và có thể thay đổi từ tháng này sang tháng khác. Đối với những trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng, phối hợp kháng sinh thường cần thiết vì có thể có nhiều loài vi khuẩn hoặc do tác dụng hiệp đồng chống lại một loại vi khuẩn đơn lẻ. Tính hiệp đồng thường được định nghĩa là một hành động diệt khuẩn nhanh hơn và đầy đủ hơn từ sự kết hợp của kháng sinh hơn là chỉ xảy ra với một trong hai loại kháng sinh. Một ví dụ phổ biến là một kháng sinh có hoạt tính lên thành tế bào (ví dụ, một βlactam, vancomycin) cộng với một aminoglycosid. Tính hiệu quảTrong lâm sàng hiệu quả kháng sinh phụ thuộc nhiều yếu tố bao gồm
Kháng sinh diệt vi khuẩn. Thuốc kháng vi khuẩn sẽ làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của vi khuẩn trong ống nghiệm. Những định nghĩa này không tuyệt đối; thuốc diệt khuẩn có thể giết chết một số loài vi khuẩn nhạy cảm, và các loại thuốc diệt khuẩn chỉ có thể ức chế sự phát triển của một số loài vi khuẩn nhạy cảm. Các kháng sinh diệt khuẩn có thể được cân nhắc hơn cho những bệnh nhân có nhiễm trùng làm suy yếu hệ miễn dịch tại cơ quan đó (ví dụ, viêm màng não, viêm nội tâm mạc) hoặc những người bị suy giảm miễn dịch (ví dụ như giảm bạch cầu trung tính). Các phương pháp định lượng chính xác hơn xác định nồng độ in vitro tối thiểu mà kháng sinh có thể ức chế sự tăng trưởng (nồng độ ức chế tối thiểu, hay MIC) hoặc giết chết vi khuẩn (nồng độ diệt khuẩn tối thiểu hay MBC). Thuốc kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn rất quan trọng nếu cơ chế bảo vệ cơ thể bị khiếm khuyết ở cơ quan nhiễm trùng (ví dụ như trong viêm màng não hoặc viêm nội tâm mạc) hoặc có hệ thống (ví dụ ở những bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính hoặc suy giảm miễn dịch theo cách khác). Các yếu tố quyết định chủ yếu của đáp ứng vi khuẩn đối với kháng sinh là
β-Lactam và vancomycin có hoạt tính diệt khuẩn theo thời gian. Tăng nồng độ của chúng trên MIC không làm tăng hoạt tính diệt khuẩn, và việc giết chết cơ thể của chúng nói chung chậm. Ngoài ra, vì không có hoặc rất ngắn ức chế sự phát triển của vi khuẩn sau khi nồng độ giảm xuống dưới MIC (tác dụng hậu kháng sinh, hay PAE), β-lactam thường có hiệu quả nhất khi nồng độ thuốc trong huyết thanh (thuốc không liên quan đến protein huyết thanh) cao hơn MIC ≥ 50% thời gian. Bởi vì ceftriaxone có thời gian bán thải huyết thanh dài, nồng độ tự do tự miễn dịch vượt quá MIC của các mầm bệnh rất dễ bị nhiễm bệnh trong suốt khoảng thời gian dùng 24 giờ. Tuy nhiên, đối với βlactam có thời gian bán hủy huyết thanh ≤ 2 giờ, cần phải dùng liều thường xuyên hoặc tiêm truyền liên tục. Đối với vancomycin, nồng độ đáy được duy trì ít nhất là từ 15 đến 20 μg / mL. Aminoglycosides, fluoroquinolones và daptomycin có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào nồng độ. Tăng nồng độ của chúng từ các mức hơi cao hơn MIC đến các mức cao hơn MIC làm tăng tỷ lệ hoạt động diệt khuẩn và làm giảm tải lượng vi khuẩn. Ngoài ra, nếu nồng độ vượt quá MIC thậm chí một thời gian ngắn, aminoglycosides và fluoroquinolones có PAE trên vi khuẩn còn lại; thời gian PAE cũng phụ thuộc vào nồng độ. Nếu PAE dài, mức độ thuốc có thể thấp hơn MIC trong thời gian dài mà không làm giảm hiệu quả, cho phép dùng ít thường xuyên hơn. Do đó, aminoglycosides và fluoroquinolones thường có hiệu quả nhất như boluses không liên tục mà đạt đến mức độ huyết thanh miễn phí cao điểm ≥ 10 lần MIC của vi khuẩn; thông thường, mức đáy không quan trọng. Đường dùngĐối với nhiều loại thuốc kháng sinh, dùng đường uống sẽ dẫn đến lượng thuốc điều trị gần như nhanh như dùng đường tiêm tĩnh mạch. Tuy nhiên, tiêm tĩnh mạch được ưu tiên trong những trường hợp sau:
Đối tượng đặc biệtCó thể cần phải điều chỉnh liều lượng và thời gian điều trị kháng sinh cho những đối tượng sau
Mang thai và cho con bú ảnh hưởng đến việc lựa chọn kháng sinh. Penicillin, cephalosporin, và erythromycin là những kháng sinh an toàn nhất trong thai kỳ; tetracyclines là chống chỉ định. Hầu hết các kháng sinh đều đạt được nồng độ đủ trong sữa mẹ để ảnh hưởng đến em bé bú sữa mẹ, đôi khi chống chỉ định của chúng đối với những phụ nữ đang cho con bú sữa mẹ. Thời lượngKháng sinh nên được tiếp tục cho đến khi các bằng chứng khách quan về nhiễm trùng hệ thống (ví dụ: sốt, triệu chứng, các kết quả xét nghiệm bất thường) hết trong nhiều ngày. Đối với một số trường hợp nhiễm trùng (ví dụ viêm nội tâm mạc, lao, viêm tủy xương), kháng sinh vẫn tiếp tục trong vài tuần hoặc vài tháng để tránh tái phát. Biến chứngCác biến chứng của điều trị kháng sinh bao gồm nhiễm trùng nặng do các vi khuẩn kém nhạy hoặc nhiếm nấm và các tác dụng phụ lên da, thận, huyết động và đường tiêu hoá Các tác dụng bất lợi thường đòi hỏi phải ngừng thuốc gây ra và thay thế một kháng sinh khác mà vi khuẩn có thể bị nhiễm; đôi khi, không có sự lựa chọn thay thế nào. Nhiều người quan niệm rằng kháng sinh có thể chữa khỏi mọi bệnh tật, hoặc cứ sốt là dùng kháng sinh. Đó là những quan niệm sai lầm, dẫn đến tình trạng sử dụng kháng sinh bừa bãi và mang lại hậu quả vi khuẩn kháng kháng sinh.
Khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn thực sự, nếu có chỉ định dùng thuốc kháng sinh thì sẽ gặp nhiều khó khăn do kháng thuốc. Tác dụng diệt vi khuẩn và cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn Các loại kháng sinh có thể diệt được vi khuẩn nhờ những tác dụng chính như ức chế tổng hợp màng tế bào của vi khuẩn, kích hoạt các men phá hủy màng tế bào của vi khuẩn, tăng tính thấm màng tế bào vi khuẩn, cản trở tổng hợp protein và chuyển hóa acid nucleic của vi khuẩn. Khả năng diệt khuẩn và kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn có liên quan trực tiếp đến nồng độ kháng sinh ở trong máu hoặc trong ổ nhiễm khuẩn. Do đó việc sử dụng kháng sinh phải đúng liều lượng và đúng thời gian cho liệu trình điều trị và phải dựa vào kháng sinh đồ để biết tình trạng nhạy cảm hoặc kháng thuốc của từng loại vi khuẩn đang gây bệnh. Như vậy bán thuốc kháng sinh nhất thiết phải có đơn thuốc của bác sĩ. Vi khuẩn sau khi tiếp xúc với một loại kháng sinh, một số bị tiêu diệt, một số có thể thay đổi trong quá trình đấu tranh sinh tồn để trở nên kháng kháng sinh đó. Sau khi có sự đề kháng xuất hiện, nó sẽ lan truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác, tạo nên một quần thể kháng kháng sinh và từ đó việc dùng kháng sinh trong những lần sau có thể không có kết quả hoặc ít hiệu quả. Vi khuẩn tạo ra sự đề kháng bằng cách làm cho kháng sinh không thấm vào màng để diệt vi khuẩn, làm cho kháng sinh không tiếp xúc được với vi khuẩn để tác động, tạo ra các chất làm mất tác động của kháng sinh và tạo ra các chất phá hủy cấu trúc hóa học của kháng sinh. Sự kháng kháng sinh của vi khuẩn một phần là do tự nhiên vì quá trình đấu tranh để sinh tồn của vi khuẩn, một phần là do sử dụng kháng sinh không đúng cách. Trong thực tế điều trị hiện nay, có một số nguyên nhân gây nên sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn như: - Dùng thuốc kháng sinh không đủ thời gian, không đủ liều lượng làm cho vi khuẩn chưa bị tiêu diệt hết và biến đổi để trở nên kháng thuốc. - Việc lạm dụng thuốc kháng sinh thành thói quen và phổ biến như không có bệnh nhiễm khuẩn cũng dùng kháng sinh làm cho các vi khuẩn có lợi cho cơ thể bị tiêu diệt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh kháng lại với kháng sinh. - Dùng thuốc kháng sinh không đúng loại như khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn nhạy cảm với kháng sinh này lại dùng loại kháng sinh khác, làm cho vi khuẩn không bị tiêu diệt mà còn biến đổi để kháng lại với kháng sinh. Nguyên tắc sử dụng kháng sinh Nguyên tắc quan trọng nhất trong sử dụng kháng sinh là theo đúng chỉ định của bác sĩ, chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn, lựa chọn và phối hợp các kháng sinh hợp lý... Ngoài ra cũng nên lưu ý một số nguyên tắc lớn đối với bệnh nhân khi dùng kháng sinh như: + Thời điểm uống thuốc - Để thuốc kháng sinh có tác dụng tối đa, nên uống thuốc vào lúc đói như uống thuốc xa bữa ăn, trừ một số kháng sinh có tác dụng không mong muốn ở đường tiêu hóa thì mới uống vào lúc no. Một số bệnh nhân uống thuốc pefloxacin có thể bị cảm giác cồn cào trong bụng, vì vậy có thể uống thuốc vào lúc no. - Thường các loại thuốc kháng sinh được uống 2 lần trong ngày, cách nhau khoảng 12 giờ, trừ khi có chỉ định khác của bác sĩ. Bác sĩ có thể chỉ định uống kháng sinh 1 lần trong ngày như kháng sinh chống lao, chỉ uống 1 lần vào buổi sáng. + Liều lượng và thời gian dùng thuốc - Liều lượng thuốc hàng ngày phải được dùng đúng theo chỉ định của bác sĩ. Không nên tự ý tăng hay giảm liều, nhất là giảm liều sẽ làm cho kháng sinh tác dụng không đầy đủ và gây nên kháng thuốc. Trường hợp tương đối khá phổ biến là bệnh nhân dùng thuốc một vài ngày, mặc dù chưa hết liều nhưng thấy bệnh đỡ nên tự ý giảm liều hoặc ngừng thuốc. Điều này có thể sẽ làm bệnh nặng lên trong đợt điều trị đó và gây kháng thuốc trong tương lai. - Thời gian sử dụng thuốc kháng sinh cũng phải đảm bảo đúng quy định. Thông thường kháng sinh được dùng từ 7 đến 10 ngày. Một số loại kháng sinh có thể được chỉ định dùng trong 5 ngày; cá biệt chỉ có loại dùng trong 3 ngày như thuốc azithromycin chỉ dùng trong 3 ngày là đủ liều. Cũng có những trường hợp kháng sinh được dùng nhiều ngày hơn để điều trị tỉnh trạng nhiễm trùng huyết, bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh giang mai… + Theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc Các tác dụng không mong muốn khi sử dụng kháng sinh thường gặp là: - Tiêu chảy là phản ứng hay gặp nhất do khi uống kháng sinh thì các vi khuẩn có lợi trong đường tiêu hóa cũng bị tiêu diệt làm cho rối loạn tiêu hóa và thường biểu hiện bằng tiêu chảy. Tiêu chảy do dùng kháng sinh thường xuất hiện từ 2 đến 3 ngày sau khi uống thuốc và chỉ ở mức độ nhẹ, tự hết sau khi uống hết liều thuốc nên không cần điều trị. - Buồn nôn, đau bụng… có thể xảy ra với nhóm thuốc tetraxyclin, nhóm quinolon… - Sạm da có thể xảy ra với nhóm thuốc quinolon và bệnh nhân được khuyên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trong thời gian uống thuốc. - Đau đầu, mất ngủ, bồn chồn hay xảy ra với nhóm thuốc quinolon. - Cảm giác có vị kim loại ở trong miệng hay xảy ra với thuốc metronidazol. Trước khi dùng một loại kháng sinh nào đó, người bệnh nên đọc kỹ hướng dẫn sử dụng để biết các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra. Khi có tác dụng không mong muốn, nên thông báo cho bác sĩ biết để được tư vấn cách xử trí. + Theo dõi các phản ứng dị ứng của thuốc - Phản ứng dị ứng quan trọng và nguy hiểm nhất là sốc phản vệ thường xảy ra với nhóm thuốc betalactam. Phản ứng được biểu hiện bằng dấu hiệu tím tái, đau bụng dữ dội, khó thở, da nổi vân tím. Bệnh nhân nhanh chóng bị rơi vào tình trạng trụy tim mạch và tử vong nếu không được điều trị tích cực tại bệnh viện. Cách phòng tránh hiệu quả nhất là hỏi tiền sử dị ứng thuốc trước đây của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân có tiền sử dị ứng với bất cứ thuốc nào của nhóm thuốc betalactam thì không được dùng thuốc của nhóm này. - Các phản ứng dị ứng khác cũng giống như các phản ứng dị ứng thông thường, được biểu hiện bằng triệu chứng sốt, nổi sẩn đỏ ngoài da, viêm da cấp tính như hội chứng Steven-Johnson, hội chứng Lyell; phù Quinck, ngứa mắt, khó thở, lên cơn hen suyễn... Cách xử trí là ngừng ngay thuốc đang dùng và đến cơ sở y tế gần nhất để được điều trị. + Theo dõi các biến chứng hay tai biến do độc tính của thuốc kháng sinh Khi sử dụng một số loại thuốc kháng sinh, người bệnh có thể bị các biến chứng hay tai biến do độc tính của thuốc, vì vậy cần theo dõi để cung cấp thông tin cho bác sĩ xử trí như: - Tổn thương thần kinh thính giác do dùng thuốc streptomycine hoặc một số thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid; - Tổn thương thần kinh thị giác do sử dụng cloramphenicol kéo dài; - Viêm đa rễ thần kinh do sử dụng rimifon kéo dài - Nhiễm độc thận làm viêm thận kẽ, suy thận... khi dùng thuốc gentamycine, vancomycine, colistin, amphotericin B, rifampicin… - Tổn thương gan có thể xảy ra khi sử dụng thuốc tetracycline, rifampicin, rimifon, amphotericin B… - Tai biến về máu như thiếu máu huyết tán, giảm bạch cầu-tiểu cầu, suy tủy khi dùng các loại kháng sinh như sulfamid, streptomycin, cloramphenicol liều cao… Một trong những cách để làm hạn chế các tai biến do độc tính của thuốc kháng sinh là chỉ sử dụng kháng sinh khi có chỉ định và đơn thuốc của bác sĩ. Khuyến cáo cần thiết Để kháng sinh thực sự là loại thuốc phát huy được tác dụng, hiệu quả trong điều trị các trường hợp bệnh nhiễm khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh cần phải bảo đảm các nguyên tắc quy định, sự hiệu quả, an toàn và hợp lý... để khắc phục tình trạng kháng kháng sinh khá phổ biến hiện nay do sự lạm dụng quá mức của người bệnh, kể cả bác sĩ, nhân viên y tế và nhân viên nhà thuốc. Khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn mà không còn hoặc không có thuốc kháng sinh để chữa sẽ gây nên những hệ lụy tai hại có thể không lường trước được. 1. Thuốc kháng sinhĐây là một trong những loại thuốc được sử dụng thường xuyên và phát huy tác dụng với nhiều bệnh lý nhiễm trùng. Cụ thể, thuốc có khả năng chính đó là ngăn chặn, hạn chế sự phát triển mạnh mẽ của vi khuẩn. Nhờ vậy, làm giảm tình trạng viêm ở bệnh nhân. Thuốc kháng sinh được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Hiện nay, hai dạng thuốc kháng sinh phổ biến nhất là dạng phổ rộng và dạng phổ hẹp. Người ta dựa vào khả năng tiêu diệt vi khuẩn của thuốc để phân chia như trên. Cụ thể, nếu thuốc phát huy tác dụng với nhiều dạng vi khuẩn gây bệnh khác nhau, chúng được biết tới là phổ rộng. Trong khi đó, nếu loại thuốc đó chỉ phát huy hiệu quả tiêu diệt một số loại vi khuẩn nhất định, chúng được gọi là thuốc phổ hẹp. Như vậy, khi sử dụng thuốc để điều trị bệnh, bạn đừng quên tìm hiểu thành phần, tác dụng để đảm bảo việc điều trị hiệu quả, an toàn cho sức khỏe. [Bạn hỏi - Bác sĩ trả lời] - Các câu hỏi về thuốc (Phần 1)19-03-20191. Chào Bác sĩ, con em thường chích thuốc kháng sinh mỗi lần bé bị ốm, như vậy thì có ảnh hưởng gì đến sức khỏe lâu dài của cháu không ạ? Mong được Bác sĩ tư vấn. Em cảm ơn Bác sĩ.
Chào bạn, bạn mắc ung thư tuyến giáp và chắc đã phẫu thuật, hiện bác sĩ đang kê đơn cho bạn uống levothyroxine với liều 75 microgam/ngày (lưu ý: một viên thuốc Berlthyrox có hàm lượng là 100 microgam chứ không phải 100 miligam như bạn đã nói), là hormone tuyến giáp tổng hợp, nhằm bù lại lượng hormone giáp cơ thể không thể sản sinh ra để duy trì trạng thái sinh lý cân bằng của chức năng tuyến giáp (còn gọi là trạng thái bình giáp). Các nghiên cứu trên phụ nữ cho con bú dùng thuốc levothyroxine cho thấy rằng lượng hormone giáp bài tiết vào sữa mẹ là rất ít (nồng độ khoảng 4 nanogam/mL), thậm chí khi dùng liều cao levothyroxine (200-300 microgam/ngày), và do đó không gây hại cho trẻ bú mẹ. Nói chung, tốt nhất người mẹ cần cho bé bú xong trước khi dùng thuốc để giảm thiểu đến mức thấp nhất những ảnh hưởng với bé. Bạn cũng cần lưu ý khi chia nhỏ viên thuốc để đảm bảo liều lượng chính xác. 4. Xin chào Bác sĩ, em có hai câu hỏi như sau: Chào bạn, chúng tôi xin được trả lời bạn như sau:
|