Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam(ĐCSVN) - Trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải một cách thuyết phục, sâu sắc những vấn đề lớn, cơ bản, quan trọng trong sự nghiệp cách mạng đất nước; đề cập toàn diện, thấu đáo tất cả các lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc biệt, bài viết khẳng định, một trong những giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, là phải: “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, luận điểm của Tổng Bí thư thể hiện một tầm nhìn mới, bản lĩnh mới, sức sáng tạo mới, có tính toàn diện và giá trị chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. Luận điểm khẳng định điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, được dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Show Thứ nhất, luận điểm đã thể hiện sự kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cơ sở khoa học của quan điểm về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Với tư cách là người đại diện cho dân tộc, giai cấp công nhân, là người đại diện cho tổ quốc, phải “bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được, bảo vệ tổ quốc của mình”. Giai cấp công nhân từng bước giành được những thắng lợi và phải biết bảo vệ, phát huy những thành quả, tiến tới thắng lợi cuối cùng. Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là người có đóng góp to lớn trong việc bảo vệ, phát triển học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa: “Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà… cần phải được chuẩn bị lâu dài, nghiêm túc”. V.I.Lênin khẳng định: “Kể từ ngày 25 tháng 10 năm 1917 chúng ta là những người chủ trương bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ tổ quốc... bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là tổ quốc”; bởi vì: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”. Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài viết, bài nói chỉ đạo về sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Người khẳng định: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Do vậy, “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Bằng những luận điểm nổi tiếng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ tính tất yếu và ý chí sắt đá bảo vệ Tổ quốc Việt Nam: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đồng thời, khẳng định tinh thần đoàn kết, trên dưới đồng lòng: “các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Quán triệt sâu sắc và phát triển quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng, thống nhất, không thể tách rời giữa bảo đảm vững chắc quốc phòng và bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, luận điểm là sự thấm nhuần và vận dụng sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật sinh tồn của mọi quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, lịch sử dân tộc ta chứng minh, “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” đã trở thành bài học xuyên suốt, quy luật tất yếu, do đó, “thái bình nên gắng sức, non nước vững ngàn thu”. Dân tộc ta đã luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng chống ngoại xâm và phải liên tiếp đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực hùng mạnh. Thực hiện quan điểm “quốc phú, binh cường”; “ngụ binh ư nông”, “trăm họ là binh”; “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, là thượng sách để giữ nước” để chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho việc “giữ nước” ngay trong thời bình; tiến hành chiến tranh Nhân dân, toàn dân, toàn diện. Trong thời đại ngày nay, cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi đánh dấu sự ra đời của tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách cấp bách, trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, từ khi tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, Nhân dân các nước phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành động lật đổ, xâm lược của kẻ thù. Sau thắng lợi Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, 14 nước đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt nước Nga Xô viết. Sau này, Nhân dân Liên Xô phải trải qua bao tổn thất, hi sinh để tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, bảo vệ thành công tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1941-1945). Khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vào cuối những năm 80 đầu 90 của thế kỷ XX, vấn đề bảo vệ tổ quốc ở các nước xã hội chủ nghĩa càng đặt ra hết sức quan trọng và cấp thiết. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục đẩy mạnh âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng thế giới, để lại cho các nước xã hội chủ nghĩa bài học xương máu là xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, luận điểm là sự nhất quán với quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và những bài học lớn của sự nghiệp cách mạng đất nước. Từ khi có Đảng lãnh đạo, bảo vệ Tổ quốc luôn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược, được Đảng ta xác định là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của Nhân dân”. Ở từng giai đoạn cách mạng, trong nhận thức và thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sau thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đặt ra một cách cấp bách để bảo vệ vững chắc các thành quả của sự nghiệp cách mạng. Nhân dân ta đã phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thế lực bành trướng, bá quyền ở biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc. Hiện nay, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, được Đảng ta khẳng định rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân”. Đây là quan điểm nhất quán và có tính xuyên suốt của Đảng ta, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quán triệt và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng, thực hiện “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Thứ tư, luận điểm đã bám sát, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn sự nghiệp cách mạng đất nước trước những tác động to lớn của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đến nhiệm vụ bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh. Đảng ta đã phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước. Thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những biến đổi mau lẹ, phức tạp, khó lường. Qúa trình định hình thế giới đa cực và điều chỉnh quan hệ giữa các nước lớn đang đặt ra nhiều thách thức với các nước về quốc phòng, an ninh. Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng diễn biến phức tạp. Hiện nay, đại dịch Covid-19 vừa là thách thức đang phải tập trung giải quyết, vừa là cảnh báo về những vấn đề nhân loại và từng quốc gia dân tộc phải đối mặt trong tương lai. Đối với nước ta, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định và chủ quyền quốc gia, dân tộc. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, đan xen giữa thời cơ và nguy cơ đối với sự nghiệp bảo đảm quốc phòng, an ninh ở nước ta. Trong khi đó “đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế… Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, gây bức xúc xã hội...”. Ngoài ra, “các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay đã có bước phát triển mới, yêu cầu cao hơn. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta không một phút lơ là nhiệm vụ bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tình hình thế giới, khu vực, trong nước và thực tiễn đòi hỏi phải luôn đặt quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội trong một chỉnh thể thống nhất, quan hệ biện chứng, mặt này làm tiền đề và cũng có thể là nguyên nhân của mặt kia như luận điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Sự nghiệp Đổi mới đất nước qua 35 năm “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, tuy nhiên, “đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách và hạn chế”. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, cùng với việc tiếp tục quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần phát huy giá trị luận điểm “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội” trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng góp phần hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thông qua thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản, trọng tâm sau đây: Một là, tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Quán triệt, thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh Nhân dân. Toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị và Nhân dân cần “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm, chủ trương, giải pháp tăng cường quốc phòng, an ninh của Đảng phải được thể chế hóa và triển khai thực hiện hiệu quả thông qua hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang Nhân dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sức mạnh của lực lượng vũ trang trong nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; nhất là năng lực quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, coi trọng giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Quán triệt và thực hiện tốt những nội dung về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trên mọi lĩnh vực, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể của tất cả các mặt, lĩnh vực, tạo sức mạnh tổng hợp trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh Nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các thể chế, quy định, bổ sung, hoàn thiện luật, pháp lệnh và hệ thống chính sách đối với quốc phòng, an ninh. Hai là, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh Nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh Nhân dân. Đảng ta xác định phải “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Hiện nay, để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh cần đặc biệt coi trọng kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại. Quán triệt đường lối của Đảng và thể chế hóa, cụ thể hóa, thực hiện hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong các vùng, miền, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng và toàn dân; gắn liền với việc xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân’’, củng cố lực lượng dân quân, tự vệ và lực lượng dự bị động viên ở cơ sở. Chuẩn bị chu đáo các phương án động viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Xây dựng kế hoạch bảo đảm quốc phòng, an ninh thống nhất, đồng bộ từ thời bình, kịp thời điều chỉnh khi có chiến tranh. Nâng cao chất lượng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc toàn diện. Phát triển sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, củng cố thế trận an ninh Nhân dân, với quan điểm “làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”. Quán triệt và thực hiện “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”. Tổ chức vận động, phát huy cao nhất trách nhiệm và mọi nguồn lực của Nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; đảm bảo toàn diện cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi vùng miền, cả ở trong và ngoài nước. Ba là, tiếp tục xây dựng Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Quyết tâm thực hiện “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân vững mạnh về chính trị, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính Nhân dân, tính dân tộc; xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân gắn với phát huy sức mạnh toàn dân, lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, nâng cao năng lực làm chủ về khoa học công nghệ quân sự và an ninh nhằm hiện đại hóa Quân đội, Công an. Quan tâm chăm lo thực hiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang và chính sách hậu phương quân đội, công an. Chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh. Bốn là, nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống chiến lược về quốc phòng, an ninh. Tích cực, chủ động nghiên cứu những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực, trong nước; dự báo chính xác các tình huống chiến lược về quốc phòng, an ninh phục vụ công tác lãnh đạo, điều hành, quản lý nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Xác định “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới”, vì vậy, cần luôn chủ động đánh giá, dự báo đúng, đề ra đối sách xử lý kịp thời; có chủ trương, biện pháp, quyết tâm mạnh mẽ, chủ động phòng ngừa, kiên quyết ngăn chặn, xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược; không chủ quan, mất cảnh giác. Trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực hiện nay, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, sự đồng thuận cao của Nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, đối sách của Nhà nước, Quân đội, Công an trong ứng phó với các tình huống về quốc phòng, an ninh. Các cấp, các ngành thường xuyên làm tốt việc nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nước ta, về đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam. Quản lý tốt tình hình, không để căng thẳng, tranh chấp, xung đột leo thang là vấn đề thường xuyên đặt ra hiện nay. Thực hiện đồng bộ các giải pháp chiến lược và các hoạt động đấu tranh tại thực địa trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo; chủ động phòng ngừa, giải quyết các điểm nóng nhằm ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, khắc phục những biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt. Có thể khẳng định, những phân tích, luận giải về bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa làm sáng rõ, trực tiếp góp phần tiếp tục định hình và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin… Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc… để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”. Bài viết là một công trình khoa học thể hiện tầm tư duy lý luận cao, sắc bén, mang tính tổng kết thực tiễn sâu sắc, gợi mở ra nhiều vấn đề lý luận cốt lõi, góp phần tạo sự thống nhất trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Ðại hội XIII của Ðảng đề ra, thực hiện khát vọng phát triển đất nước trong các giai đoạn tiếp theo./. Thiếu tướng, PGS TS Nguyễn Hùng Oanh,
Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nayChuyên đề: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam Năm: Năm 2019 Số: số 12 ; Nội dung: 1.Đặt vấn đềLịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với những cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt thế kỷ X-XV đều dựa vào sức dân, thực hiện chính sách kết hợp kinh tế với quốc phòng để vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn độc lập dân tộc. Kinh nghiệm và truyền thống đó trở thành quan điểm chỉ đạo, chiến lược xuyên suốt trong đường lối phát triển đất nước của Đảng và dân tộc Việt Nam, đó là phải gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. Ví dụ, ở các triều Lý, Trần, Lê, có chính sách “Ngụ binh ư nông” (đây là sự kết hợp hài hòa giữa công tác quân sự và sản xuất nông nghiệp, hay rộng hơn đó là sự kết hợp giữa kinh tế với quân sự để có thể chuyển hóa một cách linh hoạt giữa thời bình sang thời chiến). Ngụ binh ư nông là gắn quân đội với sản xuất nông nghiệp, gửi một bộ phận quân đội vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian nhất định để phát triển sản xuất, một phần giảm gánh nặng nuôi quân, mặt khác vẫn duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Chính điều này đảm bảo sự cân đối giữa quân thường trực sẵn sàng chiến đấu và quân dự bị động viên. Vào thời bình có đủ quân số canh phòng đất nước, khi có chiến tranh thì huy động quân dự bị động viên tham gia chiến đấu. Đây chính là phương châm chiến tranh nhân dân, hoàn toàn phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày nay. Bài viết này phân tích quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh; nội dung; và giải pháp kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. 2. Quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh Thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa truyền thống của dân tộc, cùng với sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cách mạng ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về kết hợp kinh tế với quốc phòng một cách rất đơn giản. Trong bài “Gửi các nhà nông” năm 1945, Người viết: “Vì cứu quốc, các chiến sỹ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sỹ ra sức giữ gìn đất nước. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sỹ. Hai bên công việc khác nhau nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng” [4]. Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm “Thực túc, binh cường”. Đây là tư tưởng của Hồ Chí Minh nói lên tầm quan trọng và mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Kinh tế vững mạnh mới có điều kiện làm cho quốc phòng, an ninh mạnh và ngược lại. Mặc dù, kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh vực, mỗi công việc đều có những đặc điểm và quy luật hoạt động riêng, nhưng về bản chất, theo Người hai công việc ấy đều có cái chung, cái thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng, Đại hội Đảng III (năm 1960) chỉ rõ: “Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Trong quá trình cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, đi đôi với phát triển kinh tế và văn hoá, phải chú trọng củng cố quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh; phải kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong nhiệm vụ củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế” [3, t.1, tr.606]. Đại hội Đảng IV khẳng định, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng được xác định là một nội dung quan trọng của đường lối xây dựng kinh tế: “Trong hoàn cảnh một nước nghèo lại vừa ra khỏi một cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài, thì các lực lượng vũ trang, ngoài nghĩa vụ luôn luôn sẵn sàng bảo vệ tổ quốc, còn phải tích cực làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, công nghiệp hóa XHCN nước nhà, chúng ta mới phát triển được công nghiệp quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang thật sự chính quy và hiện đại, triển khai việc phòng thủ đất nước một cách toàn diện” [3, t.1, tr.953]. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VI, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng được cụ thể hoá hơn cho phù hợp với chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH: “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế theo một phương hướng cơ bản, lâu dài, đồng thời có dự kiến trước để kịp điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo đánh thắng quân thù” [3, t.2, tr.45-46]. Từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) đến nay, quan điểm kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng luôn đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Cùng với sự phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an ninh, hoạt động đối ngoại trở thành mặt trận hàng đầu của công cuộc bảo vệ Tổ quốc, với mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Đại hội Đảng VI khẳng định: “Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, huy động lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã đạt được một số kết quả, nhất là xây dựng các công trình công nghiệp và giao thông” [3, t.2, tr.274]. Đại hội Đảng VII xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước, trên từng địa phương; xây dựng, củng cố vững chắc các khu căn cứ hậu phương chiến lược; chuẩn bị các phương án động viên khi cần thiết” [3, t.2, tr.513]. Đặc biệt, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) năm 1991, nhận thức của Đảng có sự đổi mới, không chỉ kết hợp kinh tế với quốc phòng, mà là kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, đây là hai mặt của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, có quan hệ hữu cơ, đan xen nhau. Cương lĩnh nêu rõ: “Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [3, t.2, tr.564]. Đến Đại hội Đảng VIII, IX, Đảng ta khẳng định lại sự kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh. Đây là một trong 5 quan điểm phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn sức mạnh tổng hợp bảo vệ tổ quốc, đặc biệt là nhấn mạnh đến sự phối hợp của kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đại hội Đảng IX chỉ rõ: “Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với củng cố quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh phát triển, cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong thập kỷ tới” [3, t.2, tr.859]. Có thể khẳng định, kết hợp kinh tế với quốc phòng dựa trên quan điểm nhận thức đúng đắn và sự vận dụng các quy luật về kinh tế và quân sự, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng trong phát triển kinh tế, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực của quân sự, quốc phòng từ bên ngoài đối với sự phát triển đất nước. Xây dựng nền quốc phòng vững mạnh sẽ bảo vệ được chế độ chính trị, bảo vệ độc lập dân tộc, tham gia giữ gìn hòa bình thế giới, tạo sự thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển mạnh kinh tế, lấy phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng, thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội, tận dụng những thành tựu mới để củng cố quốc phòng, xây dựng sức mạnh quân sự. Đại hội Đảng X xác định 3 nhiệm vụ kết hợp rất quan trọng: một là, kết hợp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước; hai là, tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng- kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo; ba là, xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh. Đại hội Đảng XI chỉ rõ, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ. Từ đó, Đại hội đưa ra những định hướng quan trọng cho sự phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh đến năm 2020. Đại hội Đảng XII tiếp tục khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược” [1, tr.149]. Đại hội Đảng XII nhấn mạnh: kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong mối quan hệ đó, hoạt động kinh tế phải là trung tâm, nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, giải quyết vấn đề nâng cao đời sống của nhân dân, tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật quan trọng để củng cố quốc phòng, mở rộng hoạt động đối ngoại. 3. Nội dung kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam 3.1.Kết hợp phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn với tăng cường quốc phòng, an ninh [7] Hiện nay, chúng ta đã hình thành các vùng kinh tế lớn - trọng điểm là nòng cốt cho phát triển kinh tế của từng miền và cả nước. Nơi đây có mật độ dân cư và tính chất đô thị hóa cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, các liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài... Đây cũng là nơi tập trung đầu mối giao thông quan trọng, với sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ... Về quốc phòng, mỗi vùng kinh tế trọng điểm lại nằm trong các khu vực phòng thủ then chốt, nơi có nhiều đối tượng, mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời, là nơi nằm trên các hướng có khả năng là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch, hoặc là địa bàn trọng điểm đối phó với âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường quốc phòng trên các vùng này. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng toàn dân; gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường. Các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung cần quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống công trình ngầm lưỡng dụng. Khi bố trí các cơ sở sản xuất, các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư nước ngoài, cần chú ý đến việc bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị phòng thủ. Khắc phục tình trạng chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế trước mắt coi nhẹ, thậm chí thiếu sự gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng. Việc xây dựng các khu công nghiệp phải gắn với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng, các tổ chức chính trị, đoàn thể trong các tổ chức kinh tế đó, ngay cả khi chúng ta là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng nhu cầu dân sinh thời bình và nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi xảy ra chiến tranh. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng, chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm lược. Quản lý chặt chẽ khu vực tập trung đông người lao động, nhất là lao động người nước ngoài, các khu công nghiệp, khu du lịch, kiên quyết xử lý tình trạng vi phạm luật pháp Việt Nam. 3.2. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới với tăng cường quốc phòng, an ninh [7] Vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc, là vùng chiến lược hết sức trọng yếu. Đây là nơi còn nhiều khó khăn, yếu kém về kinh tế, văn hóa, xã hội,… trong đó có nhiều khu vực tình hình rất phức tạp, dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi kéo, kích động. Vì vậy, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh ở nơi đây có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới với tăng cường quốc phòng, an ninh là sự gắn kết chặt chẽ giữ xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh với phát triển vùng kinh tế chiến lược, nhằm tạo ra và tăng cường thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng ở các vùng này, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sự vững vàng trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Mỗi vùng chiến lược có những nét đặc thù, yêu cầu khác nhau về nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, đòi hỏi việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở các vùng, cũng như ở địa bàn mỗi tỉnh phải bảo đảm các nội dung: (1) Kết hợp giữa xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng của vùng; (2) Kết hợp giữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu, các xã, phường chiến đấu trên địa bàn các tỉnh, huyện; (3) Kết hợp giữa quá trình phân công lại lao động, phân bố lại dân cư với tổ chức, xây dựng và điều chỉnh, bố trí lại lực lượng quốc phòng trên từng địa bàn cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế cũng như kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Ở đâu có đất, có dân, ở đó phải có lực lượng quốc phòng để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (4) Kết hợp giữa đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình quốc phòng, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường… bảo đảm vừa phục vụ quốc phòng, quân sự, vừa phục vụ phát triển kinh tế; (5) Kết hợp giữa xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh, rộng khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng để sẵn sàng đối phó khi có xung đột, chiến tranh xâm lược. Xuất phát từ tiềm năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa - chính trị, quốc phòng của các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, về lâu dài, phải quan tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên từng vùng và giữa các vùng với nhau trong thế trận phòng thủ chung của cả nước. Quan tâm hơn nữa phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng ở các vùng giáp biên giới với các nước. Củng cố, xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng. Trước hết, cần tập trung xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, mở mới và nâng cấp các tuyến đường giao thông, các tuyến đường vành đai kinh tế. Triển khai hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo, Chương trình 135; đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương để cùng thực hiện nhiệm vụ. Củng cố các khu kinh tế - quốc phòng dọc biên giới nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng. 3.3. Kết hợp phát triển kinh tế ở vùng biển, đảo với tăng cường quốc phòng, an ninh [7] Vùng biển, đảo nước ta có nhiều tiềm năng, khoáng sản, là cửa ngõ giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, có khả năng phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trong tương lai. Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo là gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng vùng chiến lược quốc phòng với phát triển vùng kinh tế chiến lược, nhằm tạo ra và tăng cường thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng trên vùng biển, đảo, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc; nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ bảo vệ, làm chủ vùng biển, đảo. Tập trung xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng thế trận quốc phòng bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trước hết là phải phối hợp chặt chẽ các hoạt động đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực. Bởi vậy, cần tăng cường, hoàn thiện quy chế phối hợp, tham mưu kịp thời cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược và các đối sách xử lý thắng lợi mọi tình huống. Tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng, nhất là với các nước trong khu vực và một số nước lớn, nhằm tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Lực lượng hải quân, cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu quốc tế, phối hợp tuần tra, diễn tập, cứu hộ cứu nạn trên biển, nhằm góp phần giữ vững môi trường ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển. Đẩy mạnh xây dựng thực lực về kinh tế biển, thu hút các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển các ngành kinh tế biển, trước mắt là lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến sản phẩm dầu khí; phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, kinh tế hàng hải và công nghiệp đóng tàu; khai thác, đánh bắt hải sản; phát triển du lịch và kinh tế đảo; tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương đánh bắt xa bờ, kết hợp với bảo vệ chủ quyền vùng biển bằng những giải pháp đồng bộ, như đóng tàu có khả năng hoạt động dài ngày, bao tiêu sản phẩm, bảo vệ, cứu hộ - cứu nạn, hỗ trợ cho tàu thuyền và ngư dân khi có thiên tai, cướp biển... Quy hoạch, lựa chọn những thành phố, thị xã ven biển có vị trí thích hợp để xây dựng thành các trung tâm kinh tế, các hải cảng lớn, vừa là “bàn đạp” tiến ra biển, vừa là “đầu tàu” lôi kéo các vùng kinh tế khác phát triển. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút dân cư đến ở và lập nghiệp lâu dài trên các đảo, quần đảo, nhất là các đảo xa bờ. Tăng cường xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển vững mạnh, nhất là hải quân, không quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và kiểm ngư, đủ sức hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển; coi việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng là phương châm chiến lược, được cụ thể hóa trong hoạt động sản xuất trên biển (từ khảo sát, thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí, đánh bắt, nuôi trồng hải sản đến vận tải đường biển, du lịch biển). Chú ý bố trí các lực lượng bảo đảm cân đối, hợp lý và khả năng phối hợp, hiệp đồng trong thực hiện nhiệm vụ. Coi trọng xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố ven biển, đặc biệt là xây dựng các đảo và quần đảo trở thành các “pháo hạm” kiên cố; tích cực bổ sung, hoàn thiện kế hoạch phòng thủ bảo vệ biển, đảo để bảo đảm giữ vững chủ quyền, ngăn chặn xung đột vũ trang trên biển. Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho người dân bám biển, sinh sống, làm ăn; xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo, nhằm tạo ra các đối tác đan xen lợi ích, tạo thế và lực để giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển, đảo. Chú trọng đầu tư phát triển chương trình bám biển, đánh bắt xa bờ, củng cố lực lượng dân quân biển, các hải đoàn tự vệ, các lực lượng chấp pháp (cảnh sát biển, kiểm ngư, biên phòng...) để kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo, làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ vững chắc các điểm, đảo đóng quân, nhà giàn DK1... Hoàn thiện phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển, đảo, đủ sức canh giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo. 4.Giải pháp kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các bên liên quan, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh, sao cho mỗi bước phát triển về kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại. Chủ động ngăn chặn những âm mưu lợi dụng hoạt động kinh tế để lấn át về chính trị xã hội, gây trở ngại cho hoạt động giao lưu quốc tế. Ðây là quan điểm cơ bản, bao trùm của chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Cần đạt được sự tăng trưởng kinh tế theo hướng củng cố độc lập dân tộc, xây dựng CNXH, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân và chủ động hội nhập quốc tế. Trong xây dựng kinh tế, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy năng lực, sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp để phát triển kinh tế. Trong hoạt động quốc phòng, cần nâng cao nhận thức của mỗi người, để thấy rõ lợi ích dân tộc, qua đó, tự nguyện, tự giác phấn đấu vừa là chiến sĩ kiên cường bảo vệ Tổ quốc, vừa là doanh nghiệp thành đạt, công dân làm kinh tế giỏi. Trong hoạt động quốc tế, phải từng bước nâng cao vị thế của quốc gia, mà không mất đi bản sắc dân tộc. Tranh thủ và tận dụng tối đa kiến thức, kinh nghiệm, tiềm lực của những nước phát triển để từng bước củng cố, xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực là cách tốt nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, qua đó tăng cường cho việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, và giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Thứ hai, ở từng lĩnh vực, từng ngành phải linh hoạt, xuất phát từ yêu cầu cụ thể về phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng, an ninh quốc gia mà chọn cách thực hiện hiệu quả việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hội nhập quốc tế. Kinh tế vĩ mô cần có sự ổn định tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, kiểm soát chi tiêu cho quốc phòng phù hợp với nội lực kinh tế quốc gia, hạn chế tối đa sự lệ thuộc vào bên ngoài. Thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, để đối phó với những mặt trái trong quá trình hội nhập quốc tế. Tính toán kỹ từng lĩnh vực cụ thể cũng như phạm vi, mức độ hội nhập. Hội nhập nhưng phải giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc. Thứ ba, quân đội phải trở thành lực lượng nòng cốt thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. Mặc dù kết hợp kinh tế với quốc phòng là công việc của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, nhưng quân đội phải là lực lượng nòng cốt, vừa bảo vệ các thành quả của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ sự ổn định chính trị, xã hội, đập tan mọi âm mưu diễn biến hòa bình trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa và vừa xây dựng kinh tế. Kết hợp giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng là một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ngày nay, các quốc gia đều chủ động ứng phó với những diễn biến bất thường về chính trị, kinh tế - xã hội để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trước những vấn đề toàn cầu, an ninh truyền thống và phi truyền thống. Lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại phải chủ động phối hợp chặt chẽ với kinh tế trong hoạch định chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc. Thứ tư, đặt việc bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc tối cao, mục tiêu tối thượng của mọi hoạt động kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới. Để đạt được yêu cầu trên, cùng với việc thực hiện phương châm cơ bản là tận dụng tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, hoạt động đối ngoại phải kiên trì hai nguyên tắc: (1) Không tham gia liên minh quân sự nào, nhưng sẵn sàng hợp tác với các nước, vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và khu vực. Từng bước nâng cao vai trò, vị thế của quốc gia trong hội nhập quốc tế; (2) Kết hợp đối ngoại song phương và đa phương một cách khôn khéo, trong đó chú trọng đa phương trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp. Trên cơ sở mục tiêu tối cao, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển”; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia có biển và các thách thức an ninh phi truyền thống đang diễn biến ngày càng gay gắt, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do vậy, cần chú trọng hơn nữa nội dung kết hợp kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh hiện nay, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là tất yếu, hoạt động đối ngoại phải góp phần bảo đảm ở mức cao nhất để không dẫn đến đối đầu về kinh tế và quân sự hoặc sự bất ổn về kinh tế, chính trị, quân sự. 5.Kết luận Bối cảnh trong nước, thế giới đã và đang có nhiều thay đổi, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự vận dụng quy luật phổ biến, sự tiếp nối truyền thống của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa những kinh nghiệm truyền thống, quán triệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo, phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tài liệu tham khảo
Kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa08:47 24/04/2017
|