Tam quan lệch lạc là gì

Mục lục

  • 1 Bản chất của sự lệch lạc
  • 2 Những lý thuyết về sự lệch lạc
    • 2.1 Lý thuyết sinh học
    • 2.2 Lý thuyết tâm lý học
    • 2.3 Lý thuyết xã hội học
      • 2.3.1 Mô hình cấu trúc - chức năng
      • 2.3.2 Mô hình tương tác biểu tượng
      • 2.3.3 Mô hình mâu thuẫn xã hội
  • 3 Kiểm soát xã hội
  • 4 Xem thêm
  • 5 Tham khảo
  • 6 Chú thích

Bản chất của sự lệch lạcSửa đổi

Trong cuộc sống, con người thường có khuynh hướng coi sự lệch lạc là do lựa chọn tự do hay sự thất bại của cá nhân. Tuy nhiên, vấn đề hoàn toàn ngược lại, sự lệch lạc hay tuân thủ đều có nguồn gốc xã hội:

  • Sự lệch lạc chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tiêu chuẩn văn hóa, không có hành động lệch lạc nào mang tính vốn có hay nói đúng hơn một hành vi được coi là lệch lạc trong mối quan hệ với những tiêu chuẩn văn hóa cụ thể. Những tiêu chuẩn văn hóa rất khác nhau giữa các nền văn hóa, trong mỗi nền văn hóa cũng khác nhau ở các tiểu văn hóa...; hơn nữa tiêu chuẩn văn hóa còn thay đổi theo thời gian nên quan niệm về sự lệch lạc cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian. "Trong các cộng đồng truyền thống ở đảo Sicilia chẳng hạn, tiêu chuẩn hỗ trợ sự sử dụng bạo lực để trả thù một sự sỉ nhục đối với danh dự gia đình một người nào đó"[2] trong khi những hành động như thế rất có thể bị bắt giam và xử tù ở Roma. Những năm gần đây, ở Việt Nam, hút thuốc lá, đặc biệt là ở nơi công cộng được coi là hành vi lệch lạc trong khi trước đó nó là việc khá bình thường.
  • Sự lệch lạc là kết quả của việc người khác xác định theo cách đó: Một hành vi có được coi là lệch lạc hay không tùy thuộc vào quá trình khả biến của định nghĩa xã hội, vào cách mà người khác nhận thức tình huống. Nhà thơ Phùng Quán có thể tặng sinh nhật người yêu bằng cách đề thơ lên một quả bí xanh nhưng một người khác làm như thế sẽ có thể bị coi là lệch lạc trầm trọng, nếu không muốn nói là đã bị tâm thần.
  • Cả tiêu chuẩn cũng như cách thức để xác định sự lệch lạc đều liên quan đến các mẫu quyền lực xã hội: theo mô hình mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là tư tưởng của Karl Marx, tiêu chuẩn văn hóa, nhất là luật pháp, rất có thể bảo vệ quyền lợi của những người có thế lực. Chẳng hạn, đóng cửa một nhà máy không còn sinh lợi nữa nằm trong quyền hợp pháp của chủ sở hữu nhà máy, mặc dù làm như thế sẽ khiến hàng nghìn người thất nghiệp[3]. Mặc dù đều có những hành vi giống nhau thì trong nhiều trường hợp, người không có quyền lực bị xem là lệch lạc và có thể chịu hình phạt trong khi người có quyền lực thì không. Tóm lại cả tiêu chuẩn văn hóa và cách thức áp dụng chúng đều liên quan đến các mẫu bất công xã hội.

Quan điểm của Xã hội học về Lệch lạc xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.58 KB, 12 trang )

I.

KHÁI NIỆM LỆCH LẠC XÃ HỘI (LLXH).

- Người ta gọi bất kỳ hành vi nào không phù hợp với mong đợi của một nhóm hoặc
của xã hội là hành vi lệch chuẩn. Nói cách khác, hành vi lệch chuẩn là hành vi lệch khỏi
các quy tắc chuẩn mực của nhóm hay xã hội. Nó là hậu quả của quá trình xã hội hoá
không hoàn toàn.
- Các ví dụ điển hình về hành vi lệch chuẩn trong xã hội ta hiện nay:
+ Giết người, trộm cắp, điên loạn, tâm thần, tham ô, nghiện nghập, mại
dâm… Tuy nhiên, thế nào là lệch lạc vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Bởi lẽ như đã định
nghĩa, lệch lạc tùy thuộc vào quan điểm và góc đứng nhìn vấn đề.
+ Về cách ăn mặc của thanh niên học sinh, với cùng một hành vi là mặc áo
sơ mi ngắn và quần ngố, nếu học sinh đó ăn mặc như vậy tới trường thì chắc chắn là
không phù hợp, sẽ bị mọi người đánh giá và coi đó là sai lệch chuẩn mực xã hội. Nhưng
nếu với bộ quần áo đó mà học sinh này mặc đi chơi với bạn bè thì lại được coi là rất phù
hợp và đứng đắn. Vậy nên một hành vi có thể sai lệch ở địa điểm này nhưng lại phù hợp ở
địa điểm khác. Và chúng ta nên có sự nhận thức rõ ràng để không phạm phải các hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội.

II.

CÁCH PHÂN BIỆT.

- Trước hết phải xác định các quy tắc văn hoá của xã hội (nhóm) mà chủ thể hành
vi đang sống. Trên cơ sở đó xác định mức độ phù hợp giữa hành vi của cá nhân, nhóm với
quy tắc đó. Một hành vi cá nhân, nhóm bao giờ cũng là một hành vi xã hội. Nó có thể là
bình thường hay lệch chuẩn, tuỳ thuộc vào giá trị của nó đối với xã hội. Nó có thể được
thừa nhận là đúng đắn trong nền văn hoá xã hội này nhưng lại bị coi là lệch chuẩn so với
văn hoá xã hội khác.
Ví dụ: Đối với người Việt chúng ta ăn thịt heo hay thịt bò không thành vấn đề,


nhưng ăn thịt bò đối với người Chăm theo đạo Bàlamôn hay ăn thịt heo đối với người
Chăm theo đạo Hồi giáo là những hành vi lệch lạc.


 Các loại lệch lạc xã hội: Không có một phương thức đơn giản hay phổ quát để
phân loại các hành vi lệch lạc. Tuy nhiên có thể phân biệt sự lệch lạc ở cấp độ cá nhân, sự
lệch lạc của một nhóm và sự lệch lạc ở cấp độ định chế:
- Lệch chuẩn cá nhân: Hành động của cá nhân không phù hợp với quy tắc văn hoá
của nhóm đã được xác lập trong thực tế đã bác bỏ các quy tắc đó gọi là lệch chuẩn cá
nhân.
Ví dụ: Hành vi thanh niên hư hỏng, trộm cắp…. trong gia đình có nền nếp văn hoá.
Hành vi hư hỏng này một mặt lệch ra khỏi chuẩn mực của giáo dục gia đình, mặt khác đã
phủ nhận giá trị của văn hoá gia đình.
- Lệch chuẩn nhóm: Một nhóm thành viên có hành động trái với quy tắc mà đã
được xã hội thừa nhận là lệch chuẩn nhóm.
Ví dụ: Chẳng hạn, nhóm trẻ em hư, bụi đời, băng đảng Mafia… hành động trái với
những quy tắc, giá trị văn hoá chung nhưng họ còn định ra và hành động theo một giá trị
riêng (văn hoá nhóm) được mọi thành viên trong nhóm tán thành. Điều đáng lưu ý là các
quy tắc này của nhóm không phù hợp với các tiêu chuẩn chung của xã hội.

III.

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM

- Theo quan niệm thường thì hành vi lệch lạc là xấu đáng phê phán. Nhưng trong
xã hội học quan niêm hành vi lệch lạc là hành vi lệch so với chuẩn, không phản ánh tốt
– xấu.
Ví dụ: Một số bạn tuổi teen nguộm tóc nhiều màu, ăn mặc kì quặc.
- Hành vi lệch lạc trong xã hội học là tốt khi hệ thống chuẩn mực không phù hợp
do đó buộc cá nhân phải thực hiện lệch so với chuẩn, hệ thống chuẩn mực không chỉ là


pháp luật mà còn là phong tục tập quán. Do đó hành vi lệch lạc trong xã hội không hẳn là
hành vi phạm pháp.
Ví dụ: trong xã hội phong kiến phụ nữ đúng với chuẩn mực là chăm lo việc gia
đình không đươc đi học, nhưng có một số ngươi đã cải trang thành nam giới để được đi
học.


- Trong xã hội hầu như không có tổ chức nào ép buộc các thành viên phải phục
tùng tuyệt đối mọi quy tắc và chuẩn mực của mình. Múc độ nương nhẹ, dễ dãi đối với
chuẩn mực đến mức độ nào là tùy theo từng nhóm xã hội hoặc tổ chức xã hội. mức độ
Ví dụ: Theo quy định chung của nhà trường thì giáo viên lên lớp vào buổi sáng
đúng 7h, nhưng nhiều giáo viên lên lớp muộn hơn 5 đến 10 phút để sinh viên ổn định tổ
chức, điều này lệch so với chuẩn nhưng không đến mức bị xử phạt.
- Trong thực tế bất kỳ hệ thống xã hội hoặc một tổ chức xã hội nào đó cùng đều có
những “vùng tối”trong đó con người ta có thể tự cho phép mình vi phạm quy tắt mà
không sợ bị trừng phạt.
Ví dụ: một số người khi qua đường có thể gặp một cụ già hoặc một em nhỏ không
qua đường được nhưng họ vẩn làm ngơ mà không giúp đở,mặc dù biết hành động đó vi
phạm chuẩn mực đạo đức nhưng họ vẩn thực hiện.
- Nhưng “vùng tối”cũng là điều kiện cần thiết để một nhóm hoặc một thiết chế vận
hành bình thượng. Theo Emile Durkheim:sự lệch hướng không nhất thiết phải là lối cư xử
tiêu cực. Như vậy sự lêch lạc xã hội là một khái niệm hành động xã hội không hẳn đi ra
ngoài nền văn hóa của xã hội ấy, bởi vì lệch lạc có thể là tiêu cực đi đến tội ác, cũng có
thể là tích cực đi đến những phát minh có ích cho nhân loại hay những quy tắc sử xự
trong xã hội ứng với nền văn hóa, tôn giáo này nhưng có thể lại là hành vi lệch lạc xã hội
đối với nền văn hóa, tôn giáo khác.

IV.

THÀNH PHẦN, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA LỆCH



CHUẨN XÃ HỘI.
1. Thành phần cơ bản trong các lệch chuẩn xã hội bao gồm 4 yếu tố:
- Giá trị xã hội: là yếu tố của ý thức xã hội bao hàm và tích tụ các quan niệm,
quan điểm chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn hóa …của con người, định hướng nhận thức
và hành động của con người nó được coi là nguồn gốc của động cơ và việc hình thành cơ
chế hành động
- Thiết chế xã hội: các thiết chế xã hội được hình thành và tác động trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội (như chính trị, kinh tế, tôn giáo….) Nó chính là tổng
hợp của các môi trường quan hệ xã hội đã được hợp thức hóa thành các chuẩn mực đã


được ổn định và được đảm bảo bằng những phương tiện nhân lực và vật chất nhằm thực
hiện một chức năng xã hội nhất định. Tuy nhiên trong thực tế sự rối loạn các thiết chế xã
hội là nguyên nhân gây ra những lệch chuẩn xã hội. Điều đó được thể hiện như sau:
 Biến dạng các thiết chế gây ra sự căng thẳng xã hội và tạo ra xung đột vì
thiết chế xã hội không thực hiện được chức năng xã hội của nó.
 Trong thực tế có những thiết chế xã hội đã bị vô hiệu, do đó có ý muốn thay
thế nó bằng những quy định khác, chủ yếu là không chính thức.
 Sự rối loạn các thiết chế kéo dài, ảnh hưởng xấu đến đạo đức và hệ thống
định hướng xã hội
 Sự suy yếu các chức năng kiểm tra của thiết chế dẫn đến những kẻ vi phạm
chuẩn mực xã hội.
-

Chuẩn mực xã hội: chuẩn mực xã hội quy định những mục tiêu cơ bản, những

điều kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống
xã hội hoặc đối với nhóm xã hội. Do đó chuẩn mực xã hội giữ một vị trí rất quan trọng
của lệch chuẩn xã hội.


-

Quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội chính là quan hệ giữa người và người đã được

hình thành và phù hợp với bản chất kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. Khi các
quan hệ xã hội bị biến dạng có thể dẫn đến hành vi sai lệch của cá nhân.
Chúng ta có thể biểu diễn vai trò và các mối quan hệ giữa các yếu tố trên theo sơ đồ sau:
Giá trị

Chuẩn mực

Quan hệ

Thiết chế xã hội

2. Nguyên nhân của lệch chuẩn xã hội.
2.1. Nguyên nhân khách quan


-

Thứ nhất: Tính không đồng bộ, không nhất quán trong các hệ thống quy phạm

chuẩn mực dẫn đến sự dung túng trong hành vi cá nhân. Trong trường hợp này cá nhân
phải lựa chọn những chuẩn mực này là vi phạm những chuẩn mực khác.
Ví dụ: Trong những năm gần đây một số tội phạm lợi dụng sự không nhất quán
của pháp luật để lách luật.
- Thứ hai: Tính không hợp lí của hệ thống chuẩn mực tạo ra sự phản ánh trong
hành vi cá nhân.
Ví dụ. Phụ nữ thời phong kiến thì không được đi học mà chỉ được ở nhà làm


những việc đơn giản nhẹ nhàng nếu vi phạm thì bị coi là hành vi lệch lạc.
- Thứ ba: Tình trạng coi thường hệ thống chuẩn mực, hoặc mức độ hiệu lực thấp
của hệ thống chuẩn mực cũng là nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch hành vi, thậm chí có thể
làm cho một hành vi trở nên phổ biến.
Ví dụ: Nhiều người kinh doanh đã lợi dụng việc trợ giá xăng dầu để buôn lợi sang
biên giới để chuộc lợi.
- Thứ tư: Do sự phản ứng của xã hội đối với hành vi cá nhân (cảm xúc tập thể) một
hành động bị cả xã hội lên án khi đó là lệch chuẩn nhưng nếu một hành vi lệch chuẩn
không bị phê phán thì cái lêch chuẩn trở thành chuẩn và cái chuẩn trở thành lệch chuẩn
vào một giai đoạn nào đó.
Ví dụ: Thời phong kiến phụ nữ đi học được coi là lệch chuẩn nhưng trong xã hội
ngày nay nó được xem là chuẩn.
 Chúng ta luôn cố gắng thực hiện hành vi đúng chuẩn nhưng đôi khi nếu ta thực
hiện quá đúng, quá tốt thì lại bị coi là lệch chuẩn. Như vậy những gì phổ biến thì là hành vi
bình thường, cái gì không phổ biến là lệch chuẩn. điều này cũng chính là nguyên nhân của
sự lệch lạc.
2.2.

Nguyên nhân chủ quan

- Thứ nhất: Do điều kiện hoàn cảnh gia đình phản ánh trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách của từng cá nhân, hành vi lệch lạc xảy ra từ mọi thành viên trong
gia đình.


+ Từ cha mẹ: do điều kiện kinh tế một số người buôn gian bán lận để đảm
bảo kinh tế gia đình.do sự thỏa mãn tinh thần, bố nhậu nhẹt say xỉn, bố hoặc mẹ ngoại
tình không quan tâm đến con cái gia đình.
+ Từ phía con cái: Do sự tác động nhận thức từ phía cha mẹ, qua lối sống và
giáo dục của gia đinh từ đó ảnh hưởng tới nhận thức của bản thân.


Ví dụ: Cha mẹ chửi bới ,cãi nhau lâu dài ảnh hưởng đến tính cách con cái dẫn đến
hành vi lệch lạc của con cái.
+ Do sự chủ động của cha mẹ. Cha mẹ cổ vũ ủng hộ cho con mình phạm tội.
Ví dụ: Vì gia đình khó khăn, có nhiều cha mẹ phải ép buộc con cái đi trôm cắp…
+ Từ xã hội: Ảnh hưởng những thói hư tật xấu của bạn bè, phim ảnh…
- Thứ hai: Do mâu thuẫn trong các vai trò, trong đời sống xã hội mỗi cá nhân giữ
những vai trò khác nhau, khi cá nhân không thể đảm nhận tốt những trách nhiệm đặc ra
cho mỗi vai tro, dễ dẫn đến mâu thuẫn vai trò, từ đó những hành vi lệch lạc có thể xảy ra.
Ví dụ: Anh A là công an điều tra một vụ án và phát hiện thủ phạm chính là em trai
mình. Anh A phải thực hiện trách nhiệm một trong hai vai trò là vai trò của anh trai và vai
trò của người công an, nếu anh A dung túng không bắt em trai mình thì anh A đã thực
hiện hành vi lêch lạc.
- Thứ ba: Tự gạt mình ra khỏi nhóm.khi sống trong một cộng đồng người một số
cá nhân bắt nhập vào những chuẩn mực xã hội mà mọi người đang thực hiện, ngược lại tự
gạt mình ra quy củ chấp hành. Đó cũng chính là hành vi lệch lạc so với cộng đồng.
Ví dụ: Sinh viên B không đóng quỹ lớp trong khi các bạn đã hoàn thành đầy đủ.
- Thứ tư: Mâu thuẫn giữa giá trị và phương tiện mà các cá ngân có thể sử dụng để
đạt được giá trị. Giá trị là điều mà xã hội cho là đẹp, là tốt, mang lại lợi ích để thỏa mãn
nhu cầu. nhưng trong những trường hợp có những giá trị mà khả năng của một số cá nhân
chưa vương tới được, do đó bằng cách này hay cách khác các cá nhân sử dụng phương
tiên vật chất hay tinh thần để đạt được điều mà mình mong muốn.
Ví dụ: Trong xã hội việt Nam, trình đôi học vấn cao là giá trị nhưng có một số cá
nhân sử dụng bằng giả, chạy điểm, chạy trường để có được bằng cấp, phương tiện mà họ
dung là tiền.


3. Hậu quả
- Khi xem xết hậu quả của một hành vi nào đó, chúng ta cần căn cứ vào một số yếu
tố như sau:
 Căn cứ vào tính chất, khuynh hướng và sự phổ biến tương đối của hành vi đó.


 Căn cứ vào các điều kiện lịch sử , hoàn cảnh xã hội cụ thể.
 Căn cứ vào thời gian và địa điểm thự hiện hành vi đó
- Hậu quả của hành vi sai lệch có thể được nhìn nhận trên hai phương diện sau:
+ Thứ nhất, hậu quả của hành vi sai lệch có thể mang nội dung, tính chất
tích cực, tiến bộ, cách tân nếu như nó vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự chi phối của các
chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời, phản động đang kìm hãm phát triển của cáccá nhân
và xã hội. Khi đó hành vi sai lệch có thể góp phần làm thay đổi nhận thứcchung của cộng
đồng xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội trong cộng đồng
+ Thứ hai, ngược lại, hậu quả của hành vi sai lệch có thể mang lại nội dung
và tính chất tiêu cực, ảnh hưởng xấu hoặc nguy hiểm cho xã hội nếu nó vi phạm, pháhoại
tính ổn định, sự tác động của những chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đangphát triển,
thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.

MỘT SỐ CƠ CHẾ CỦA HÀNH VI SAI LỆCH CHUẨN MỰC

V.
XÃ HỘI.

1. Sự không hiểu biết, hiểu biết không đúng hoặc không chính xác các
nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội.
- Trong trường hợp này, đa số các hành vi sai lệch xảy ra chủ yếu do các cá
nhân, tập thể thiếu thông tin, kiến thức, hiểu biết về các chuẩn mực xã hội, thiếu
kinh nghiệm thực tế; do họ không hiểu hoặc hiểu không đúng các quy tắc, yêu cầu
của các chuẩn mực xã hội như pháp luật, đạo đức…do đó họ đã thực hiện những
hành vi sai lệch nhất định.
Ví dụ: Tòa án nhân dân quận 8, TP HCM đưa vụ án “giao cấu với trẻ em” ra xét xử,
ngày 23/11, chúng tôi tìm đến nhà của Lê Đức Thiên Tân (21 tuổi, ngụ quận 8), bị cáo


trong vụ án. Nạn nhân trong vụ án này không ai khác là người mà Tân chung sống từ hai


năm nay, và họ đã có với nhau hai mặt con chỉ vì khi kết hôn vợ Tân chưa đủ tuổi pháp
luật cho phép kết hôn.
2. Trong hoạt động nhận thức, tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn
mộtsố chuẩn mực xã hội thiếu căn cứ logic cùng với việc sử dụng các phán đoán
philogic…
Ví dụ: A và B là hàng bạn đại học của nhau. A sang nhà B chơi, khi A về thì B kêu
mất 1 triệu đồng trong nhà; B nghi cho A ăn trộm tiền của mình và chạy sang nhà
A tự ý khám xét nhà A để tìm tiền. Ở đây thì B đã thực hiện hành vi sai lệch, vi
phạm pháp luật.
3. Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội
không còn phù hợp, không còn được cộng đồng xã hội thừa nhận hoặc không ănkhớp
với các nguyên tắc, quy định của pháp luật hiện hành.
- Có nghĩa là ở đây có 1 số nguyên tắc mà xã hội mới đã đặt ra để phù hợp với tình
hình phát triển nhưng một vài cá nhân , nhóm nào đó chưa tiếp thu những nguyên tắc mới
này, vẫn còn sử dụng những nguyên tắc cũ để hành xử trong những quan hệ xã hội dẫn
đến không phù hợp
Ví dụ: Việc đốt pháo vào dịp lễ tết ngày xưa là việc làm thường xuyên và
được coi là tục lệ. Nhưng nhận thức được sự nguy hiểm nên đã được Nhà nước
cấm. Tuy nhiên nhiều cá nhân vẫn thực hiện hành vi sai lệch đó là buôn bán, vận
chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép pháo, thuốc nổ.
4. Do nhận thức chưa đủ, chưa đúng ở một số trường hợp :
- Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tỉ lệ tự tử cũng có xu hướng gia tăng. Dù
chưa có kết quả thống kê chính thức từ các cơ quan hay tổ chức, cá nhân chuyên trách nào
nhưng qua các vụ tự tử được phản ánh trên báo chí cho ta khẳng định điều đó. Nguyên
nhân tự tử cũng rất “phong phú”.
Chẳng hạn như vụ tự tử của 5 em học sinh lớp 7 ở Hải Dương hồi tháng 5/2006 vì
bị ngăn cản yêu sớm. Em Trần Duy Hùng, học sinh lớp 12 chuyên toán trường Lê Hồng
Phong (Nam Định) tự tìm đến cái chết vì sợ trượt Đại học. Gần đây nhất, đầu năm 20014,



bé Huỳnh Thị Bé Tý, học sinh lớp 7A3 Trường THCS Hòa Bình (Tam Nông, Đông Tháp)
tự tử vì bị cô giáo khám người trước lớp vì nghi rằng em đã lấy trộm 100 000 đồng của
bạn khác trong lớp.

VI.

VAI TRÒ

- Cảm giác của chúng ta về sự lệch lạc luôn là tiêu cưc, tội phạm gây thất thoát tiền
của, gây tổn thương thậm chí tước đoạt đi sinh mạng của người khác. thế nhưng các nhà
nghiên cứu theo mô hình cấu trúc chức năng lập luaani rằng sự lệch lạc góp phần quan
trọng cho hoạt động lien tục của xã hội.emile Durkheim là người đã có những công trình
tiên phong về chức năng của lệch lạc đối với xã hội. ông khẳng định sự lệch lạc không có
gì bất thường, nó là một bộ phận gắn liền với mọi xã hội và nó có bốn chức năng chính.
- Sự lệch lạc khẳng địnhgiá trị và tiêu chuẩn văn hóa: cũng như trong xã hội nào có
thể tồn tại nếu không có những giá trị văn hóa, sự lệch lạc là không thể thiếu được nếu
một xã hội như một tu viện hoàn hảo gồm những cá thể gương mẫu thì tội phạm hiểu theo
nghĩa thông thường sẽ không tồn tại, nhưng khi đó một lỗi lầm mà trong xã hội bình
thường coi là không đáng sẽ trở thành tội phạm.cũng vì những lí do đó một người gần
như hoàn hảo sẽ thẳng thắn đánh giá những thất bại nhỏ nhặt với sự nghiêm khắc mà đa
số chỉ dành cho sự phạm tội.
- Phản ứng với sự lệch lạc làm sáng tỏ ranh giới đạo đức: theo Durkheim, phản ứng
với niềm tin và hành động của một số người lệch lạc làm sáng rỏ ranh giới hành vi có thể
chấp nhận được với mọi người trong một xã hội.
- Phản ứng với sự lệch lạc thúc đẩy tính thống nhất của xã hội. khi cộng đồng phản
ứng với một sự lệch lạc họ đã tự nhắc bản thân mình các tiêu chuẩn văn hóa kết hợp họ
với nhau. Đồng thời nếu sự lệch lạc không bị phản ứng thì tính chuẩn về những gì được
xem là đúng đắn sẽ bị kéo giãn ra và phá vỡ tính ổn định.
Ví dụ. ở Việt Nam thường có giờ cao su
- Sự lệch lạc khuyến khích sự thay đổi xã hội. vì nó đưa ra các biện pháp thay thế


các giá trị và tiêu chuẩn đang tồn tại. các giá trị và tiêu chuẩn thay đổi theo thời gian,
những gì ngày hôm nay được xem là lệch lạc có thể trở thành tiêu chuẩn cho ngày mai.


Ví dụ: Ở Mỹ thời xưa nhạc Rock được xem là làm hư hỏng thanh niên, nhưng ngày
nay nó trở thành một trong những nét văn hóa tiêu biểu.

VII.

GIẢI PHÁP

- Xây dựng hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, để phù hợp trước sự thay đổi của điều
kiện hoàn cảnh lịch sử.
- Tăng cường giáo dục để hoàn thiện và phát triển nhân cách, cần phối hợp chặt chẽ
giữa gia đình nhà trường và xã hội.
- Có thái độ chủ động khắc phục những hành vi lệch lạc.

LIÊN HỆ THỰC TIỄN: Tình trạng “Sống thử” trong Sinh viên

VIII.

- Sinh viên là người chủ tương lai của đất nước, được học và hiểu rất nhiều về cái
chuẩn mực của xã hội.nhưng hiện nay sự lệch lạc của sinh viên ngày càng phổ biến như:
hiện tượng sống thử, nữ sinh ẩu đả, mại dâm, nghiện game… tất cả những hành vi lệch
lạc này ngày càng nghiêm trọng và đang gia tăng.
- Chúng ta có thể phân tích một số hiện tượng tiêu biểu trong hành vi lệch lậc của sinh
viên đó là “sống thử”.
- “Sống thử” hay còn gọi là “sống chung trươc khi cưới” là hai người thỏa thuận với
nhau sẽ về chung sống với nhau như vợ chồng, họ chung với nhau tất cả như một cặp vợ
chồng đã cưới nhau chính thức.


- Sống thử đã trở thành vấn đề phức tạp đối với xã hội được coi như là một xu hướng
tất yếu của giới trẻ hiện nay nói chung và sinh viên nói riêng. Vậy nguyên nhân nào dẫn
đến tình trạng lệch lạc này của sinh viên hiện nay.
- Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc sống thử đó là:
 Đa số các bạn sống xa gia đình, xa sự quản lí của bố mẹ nên có thể sống theo ý
mình.


 Sống thử hiện đang là mode vì nó phù hợp với tâm lí tò mò, hào hứng khám phá
điều mới lạ của giới trẻ.
 Do sống thử sẽ tiết kiệm chi tiêu hằng tháng vì ăn chung, ở chung.
Vậy tại sao sống thử lại được coi là một hành vi lệch lạc trong xã hội ?


Bởi vì chuẩn mực của xã hội Việt Nam chúng ta là người phụ nữ phải gìn giữ và

bảo vệ sự trinh tiết của mình. Chưa kết hôn thì nam nữ chưa đươc ở chung vì như thế sẽ
dẫn đến hành vi lệch lạc đi ngược lại với chuẩn mực của xã hội hoặc đạo đức của người
Việt Nam.
 Nhận xét về hiện tượng sống thử.
Hiện tượng sống thử mang ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn tích cực. Tuy nhiên chúng
ta cũng không nên coi việc sống thử như là một tệ nạn xã hội.đây không phải là một hiện
tượng xấu bây giờ mới được bắt đầu. Do đó chúng ta cần phải chấp nhận hiện tượng này
như một tất yếu của xã hội, phải nhìn nhận sự lệch lạc đó như là một hiện tượng bình
thường theo nghĩa xã hội nào cũng cần phải đối mặt, tương tự như một cơ thể cũng sẽ có
bệnh tật.


TÀI LIỆU THAM KHẢO




Làm thế nào lý thuyết phân tâm giải thích lệch lạc

Lý thuyết phân tâm học, được phát triển bởi Sigmund Freud, tuyên bố rằng tất cả con người đều có những động lực và sự thôi thúc tự nhiên được dồn nén trong vô thức . Ngoài ra, tất cả con người đều có xu hướng tội phạm. Tuy nhiên, những khuynh hướng này được hạn chế thông qua quá trình xã hội hóa . Khi đó, một đứa trẻ được xã hội hóa không đúng cách có thể phát triển rối loạn nhân cách khiến trẻ hướng các xung lực chống đối xã hội vào bên trong hoặc bên ngoài. Những người hướng họ vào trong trở nên loạn thần trong khi những người hướng họ ra ngoài trở thành tội phạm.

Cách lý thuyết phát triển nhận thức giải thích sự lệch lạc

Theo lý thuyết phát triển nhận thức, hành vi tội phạm và lệch lạc là kết quả của cách mà các cá nhân tổ chức suy nghĩ của họ về đạo đức và pháp luật. Lawrence Kohlberg, một nhà tâm lý học phát triển, đưa ra giả thuyết rằng có ba cấp độ lý luận đạo đức. Trong giai đoạn đầu tiên, được gọi là giai đoạn tiền quy ước, đạt được trong thời thơ ấu trung niên, lý luận đạo đức dựa trên sự vâng lời và tránh trừng phạt. Cấp độ thứ hai được gọi là cấp độ thông thường và đạt được vào cuối thời thơ ấu. Trong giai đoạn này, lý luận về đạo đức dựa trên những kỳ vọng mà gia đình của đứa trẻ và những người quan trọng khác dành cho nó. Cấp độ lý luận đạo đức thứ ba, cấp độ hậu quy ước, đạt được trong thời kỳ đầu trưởng thành, tại thời điểm đó các cá nhân có thể vượt ra ngoài các quy ước xã hội. Nghĩa là họ coi trọng luật lệ của hệ thống xã hội. Những người không tiến bộ qua những giai đoạn này có thể bị mắc kẹt trong quá trình phát triển đạo đức của họ và kết quả là trở thành kẻ lệch lạc hoặc tội phạm.

Làm thế nào lý thuyết học tập giải thích sự lệch lạc

Lý thuyết học tập dựa trên các nguyên tắc của tâm lý học hành vi, giả thuyết rằng hành vi của một người được học và duy trì bởi các hậu quả hoặc phần thưởng của nó. Do đó, các cá nhân học được hành vi lệch lạc và tội phạm bằng cách quan sát người khác và chứng kiến ​​phần thưởng hoặc hậu quả mà hành vi của họ nhận được. Ví dụ: một cá nhân quan sát một người bạn mua sắm một món đồ và không bị bắt thấy rằng người bạn đó không bị trừng phạt vì hành động của họ và họ được thưởng khi giữ được món đồ bị đánh cắp. Khi đó, cá nhân đó có thể có nhiều khả năng mua sắm hơn, nếu anh ta tin rằng anh ta sẽ được thưởng với cùng một kết quả. Theo lý thuyết này, nếu đây là cách hành vi lệch lạc được phát triển, thì việc lấy đi giá trị phần thưởng của hành vi đó có thể loại bỏ hành vi lệch lạc.

Nguyên nhân của hành vi lệch lạc: 5 lý thuyết

hành vi lệch lạc cho nhiều rắc rối cho xã hội và cho các gia đình cụ thể. Tà hành vi - là sự bất lực của người đó ở lại trong một khuôn khổ xã hội, tuân thủ các quy tắc thành lập trong nhóm. Các nhà nghiên cứu tại thời điểm khác nhau nghĩ về những gì làm cho một người đàn ông cư xử tồi tệ. Nguyên nhân của hành vi lệch lạc ngay cả trong thời đại chúng ta không rõ ràng cho đến khi kết thúc. 5 lý thuyết chính được phát triển cho đến nay, việc giải thích hành vi lệch lạc. Chúng ta hãy xem xét chúng một cách chi tiết.

1. Lý thuyết điều khiển

Lý thuyết này giải thích lý do tại sao hầu hết mọi người vẫn tránh hành vi lệch lạc. Đó là mối quan hệ trong cộng đồng, tham gia, có ảnh hưởng chi phối trên người, do đó, những ai muốn trở thành một phần của xã hội, cố gắng tôn trọng luật bằng văn bản và bất thành văn. Thông thường, hành vi lệch lạc của trẻ em do thực tế rằng họ không có bạn bè người sẽ tôn trọng các chuẩn mực xã hội. Nhưng cha mẹ không phải là thẩm quyền, và không thể tiến hành kiểm tra tính chính xác của hành động. Nếu một người cảm thấy rằng ông đã có những nỗ lực để trở thành một thành viên của nhóm, có một khả năng cao rằng ông sẽ cố gắng để đáp ứng sự mong đợi của những người quan trọng. Do đó, nhóm kiểm soát hành vi của các cá nhân.

2. Các lý thuyết về hiệp hội khác biệt

Hiệp hội trong cụm từ này có nghĩa là giao tiếp xã hội. Nếu bạn giải thích bằng ngôn ngữ đơn giản, lý thuyết này nói rằng mọi người trong quyết định để hành xử không đúng cách nhìn vào những người misbehave quá. Lý thuyết này được đặc biệt yêu thích bởi tội phạm học. Và tất cả chúng ta đều biết rằng trẻ em đã có thành công ty xấu, rủi ro cư xử quá tệ. Vì vậy, tham gia vào các hành vi trộm cắp, lạm dụng ma túy và thậm chí tội phạm có tổ chức. Nguyên nhân của hành vi lệch lạc, theo lý thuyết này, bắt nguồn từ "svliyanii xấu". Để ngăn chặn điều đó, nó là cần thiết để giới thiệu một thiếu niên với người lớn những người có thể trở thành có thẩm quyền cho nó. Đây có thể là một huấn luyện viên thể thao hoặc một phần động viên thể hình chuyên nghiệp. Vì vậy, mọi người tin tưởng vào thanh thiếu niên hơn cha mẹ của mình.

3. Lý thuyết tình trạng bừa bãi

Đừng sợ danh từ thứ hai trong tên của lý thuyết này. Anomie nhắc đến một trạng thái đặc biệt của cá nhân, đó là liên kết với sự mất mát của định hướng giá trị. Lý thuyết này có thể được một cách đúng đắn được gọi là lý thuyết về giá trị xung đột. Đây là những gì đã xảy ra trong sự phân rã của Liên bang Xô viết. Cha mẹ đã nói về tầm quan trọng của giáo dục, và các em thấy rằng các bậc thầy của cuộc sống là cựu Losers. Thúc đẩy cao giá trị đạo đức, và trở thành những người thành công, người bỏ qua ngay cả những chuẩn mực xã hội cơ bản nhất. Đó là, lý thuyết này giải thích lý do cho hành vi lệch lạc rằng một người bối rối và không biết làm thế nào để tiến hành trong một tình huống không rõ ràng.

4. Lý thuyết phím tắt

nó nằm trong thực tế rằng người đàn ông đã từng phạm sai lầm, người ta như thể đánh dấu cho hành vi lệch lạc. Những lý do cho cách "sai" của cuộc sống nằm trong thực tế mà xã hội không phải là xu hướng thay đổi suy nghĩ của họ về một người. Đó là, một thiếu niên có một hồ sơ tội phạm, được coi như một tên tội phạm cho cuộc sống. Và thái độ của mọi người một tai nạn như vậy làm cho những người phù hợp với một khuôn mẫu, nhãn được dán trên họ vì các hành động thường ngẫu nhiên và vô nghĩa. Để giải quyết vấn đề này, những nỗ lực cần thiết để nhà nước Done.

5. Lý thuyết của nền văn hóa khác tà

Một số nền văn hóa khác đang quảng bá lối sống, không chỉ tiêu quá có liên quan của xã hội. lý thuyết này là điểm chung với các lý thuyết của hiệp hội khác biệt. Nhưng như một quy luật, điều này thứ năm sử dụng chỉ để giải thích nguyên nhân của hành vi lệch lạc của giới trẻ. Tất nhiên, chúng ta không thể nói rằng văn hóa của hippies tự nó làm cho mọi người dùng thuốc, hoặc văn hóa Punk làm mọi người quá hung hăng. Tuy nhiên, xu hướng này đã dẫn các nhà nghiên cứu nhấn mạnh lý thuyết này riêng rẽ.

Tất cả các lý thuyết giải thích chỉ là một phần nào đó của hiện thực. Vì vậy, nó không thể là một trong số họ là một phổ quát. Có lẽ sẽ có mới với thời gian chính xác hơn.

Similar articles

  • Phương pháp "Điểm số Kraepelin": Mô tả và giải thích các kết quả xét nghiệm

    Tự trồng trọt

  • Một sự trừu tượng là gì? phương pháp trừu tượng và mục tiêu của mình

    Tự trồng trọt

  • Nhân vật của người dân bởi màu sắc của mắt như có thể được xác định?

    Tự trồng trọt

  • Năm Điên cách để thoát khỏi thân mình của người sầu muộn kéo dài

    Tự trồng trọt

  • Phát triển trí thông minh và trí nhớ. Các bài tập cho sự phát triển của trí nhớ, trí thông minh và sự chú ý ở trẻ em

    Tự trồng trọt

  • Các doanh nghiệp khác nhau và các mối quan hệ cá nhân giữa con người. Bản chất của các mối quan hệ cá nhân và doanh nghiệp

    Tự trồng trọt

Trending Now

  • Fried Lagman: recipe

    Thực phẩm và đồ uống

  • Bác sĩ phẫu thuật nhựa Blokhin: tiểu sử và công trình khoa học

    Sức khỏe

  • Làm thế nào để tăng cường thị giác thủ đoạn môi trang điểm

    Vẻ đẹp

  • Cái gì thuộc về con chó đẹp nhất thế giới

    Trang chủ và gia đình

  • Gạch cao su với bàn tay của họ. cao su trải rộng sản xuất với hai bàn tay của mình

    Sự đạm bạc

  • Làm thế nào để lắp ráp tắm?

    Sự đạm bạc

Newest

  • Một nghiên cứu khả thi là gì?

    Tin tức và Xã hội

  • Làm thế nào để mở một lọ đồ hộp?

    Trang chủ và gia đình

  • Cấp tính suy vành: tiết kiệm trái tim của bạn ngay lập tức!

    Sức khỏe

  • Chủ nghĩa phát xít Ý

    Sự hình thành

  • Kitchen "Thomas" kéo: đánh giá của khách và giá cả. kéo giá thực "Thomas" là gì?

    Sự đạm bạc

  • Nhân chủng học triết học

    Sự hình thành

Lý do

Hợp đồng tâm lý

Bài chi tiết: Hợp đồng tâm lý

Nhân viên thường tạo ra một tập hợp các kỳ vọng về nơi làm việc của họ; mọi người có xu hướng lập hợp đồng tâm lý với tổ chức của họ. Khi những mong đợi của mình không được đáp ứng, người lao động có thể "cảm nhận được tâm lý vi phạm hợp đồng của người sử dụng lao động".[2] Việc "vi phạm" hợp đồng tâm lý này sau đó sẽ gây ra những vấn đề tiềm ẩn, đặc biệt là ở nơi làm việc.

Sự lệch lạc tại nơi làm việc có thể xuất phát từ nhận thức của người lao động rằng tổ chức của họ đã ngược đãi họ theo một cách nào đó. Sau đó, nhân viên sử dụng các hành vi sai trái (hoặc hành động sai trái) như một phương tiện báo thù cho tổ chức của họ về hành vi sai trái đã nhận thức được. Sự lệch lạc nơi làm việc có thể được coi là một dạng của sự tương hỗ tiêu cực. "Định hướng có đi có lại tiêu cực là xu hướng một cá nhân quay lại đối xử tiêu cực để đối xử tiêu cực".[3] Nói cách khác, câu châm ngôn “an eye for an eye” là một khái niệm mà một số nhân viên cảm thấy mạnh mẽ là cách tiếp cận phù hợp với vấn đề của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng trong việc hiểu về hành vi lệch lạc của nhân viên là nhân viên đó nhận thức được việc bị làm sai, cho dù hành vi ngược đãi có thực sự xảy ra hay không.

Giám sát lạm dụng

Bài chi tiết: Giám sát lạm dụng

Sự lệch lạc nơi làm việc cũng liên quan chặt chẽ đến việc lạm dụng giám sát. Giám sát lạm dụng được định nghĩa là "nhận thức của cấp dưới về mức độ mà người giám sát của họ tham gia vào việc thể hiện liên tục các hành vi bằng lời nói và phi ngôn ngữ thù địch".[3] Điều này có thể là khi người giám sát chế giễu nhân viên của họ, cho họ sự đối xử im lặng, nhắc nhở họ về những thất bại trong quá khứ, không đưa ra được tín nhiệm thích đáng, đổ lỗi sai cho họ hoặc nổi nóng vì nóng nảy.[4] Có vẻ như những nhân viên bị cấp trên lạm dụng sẽ trực tiếp trả đũa hoặc rút lui bằng cách bỏ việc nhưng trên thực tế, nhiều nhân viên chống lại chủ nhân của họ bằng cách tham gia vào các hành vi lệch lạc của tổ chức. Vì nhân viên kiểm soát nhiều nguồn lực của tổ chức, họ thường sử dụng hoặc lạm dụng bất cứ thứ gì họ có thể. Việc lạm dụng các nguồn lực này có thể dưới dạng thời gian, vật tư văn phòng, nguyên liệu thô, thành phẩm hoặc dịch vụ mà họ cung cấp. Điều này thường xảy ra trong hai bước. Bước đầu tiên là cam kết bị hủy bỏ và nhân viên ngừng quan tâm đến phúc lợi của người sử dụng lao động. Bước thứ hai là nhân viên bị lạm dụng sẽ được đồng nghiệp của họ chấp thuận (thường ngụ ý) để thực hiện các hành vi lệch lạc.[4]

Kinh nghiệm tại nơi làm việc có thể thúc đẩy người lao động hành động. Nghiên cứu đã được thực hiện chứng minh rằng nhận thức không tôn trọng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lệch lạc nơi làm việc; sự không hài lòng tại nơi làm việc cũng là một yếu tố. Theo Bolin và Heatherly,[5] "không hài lòng dẫn đến tỷ lệ phạm tội nhẹ cao hơn, nhưng không nhất thiết dẫn đến phạm tội nghiêm trọng". Một nhân viên không hài lòng với công việc của mình có thể trở nên kém năng suất hơn do nhu cầu của họ không được đáp ứng. Ở nơi làm việc, "sự thất vọng, bất công và các mối đe dọa đối với bản thân là những nguyên nhân chính dẫn đến sự lệch lạc của nhân viên".[6] Mặc dù sự lệch lạc nơi làm việc có xảy ra, nhưng hành vi này không phổ biến. Có hai biện pháp phòng ngừa mà chủ doanh nghiệp có thể sử dụng để bảo vệ mình. Đầu tiên là củng cố cam kết của nhân viên bằng cách phản ứng mạnh mẽ với sự giám sát lạm dụng để nhân viên biết rằng hành vi đó không được chấp nhận. Đánh giá cao nhân viên bằng cách nhắc nhở họ về tầm quan trọng của họ hoặc thiết lập các chương trình truyền đạt mối quan tâm đến nhân viên cũng có thể củng cố cam kết của nhân viên. Cung cấp một môi trường đạo đức tích cực cũng có thể hữu ích. Người sử dụng lao động có thể làm điều này bằng cách có một quy tắc ứng xử rõ ràng được áp dụng cho cả người quản lý và nhân viên.[4]

Phản ứng với các thành viên nhóm lệch lạc

Năm 1951, nhà tâm lý học người Mỹ Stanley Schachter đã công bố một nghiên cứu trong đó các nhóm từ 8 đến 10 người được yêu cầu đạt được thỏa thuận về cách điều trị hoặc hình phạt thích hợp cho một kẻ phạm tội. Mỗi nhóm bao gồm ba liên minh — một trong số họ phù hợp với quan điểm phương thức của nhóm, một trong số họ không đồng ý (lệch lạc) và một người dần dần thay đổi từ quan điểm lệch sang quan điểm phương thức (thanh trượt). Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng giao tiếp hướng về người lệch lạc thường xuyên hơn so với các quốc gia khác và những người lệch lạc ít có khả năng được đối xử thuận lợi hơn so với các quốc gia khác.

Bằng chứng từ nghiên cứu tiếp theo cho thấy rằng có thể có một hiệu ứng ngưỡng với các chất sai lệch . Một người lệch lạc thể hiện tiềm năng thay đổi (để phù hợp) đáng được đầu tư thời gian và công sức vì sự thay đổi của anh ta hoặc cô ta sẽ củng cố nhóm. Một người lệch lạc cực đoan hoặc quan điểm có vẻ bắt nguồn từ sự khác biệt lan tỏa hơn với nhóm sẽ có nhiều khả năng bị bỏ qua hoặc từ chối hoàn toàn khỏi nhóm. Bằng chứng đó phù hợp với nghiên cứu về ảnh hưởng của thiểu số, trong đó thiểu số cực đoan được tìm thấy có ít ảnh hưởng đến phần còn lại của nhóm hơn là thiểu số vừa phải.

Nghiên cứu của nhà tâm lý học người Mỹ John Levine và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng những thành viên lệch lạc của một nhóm chuyển sang quan điểm đa số được xem là đang tìm kiếm sự chấp thuận nhiều hơn từ nhóm, trong khi những thành viên lệch lạc được coi là độc lập và quyết đoán . Việc giải thích hành vi cũng có thể phụ thuộc vào các yếu tố khác. Ví dụ, nghiên cứu của nhà tâm lý học Edwin Hollander về khái niệm tín dụng theo phong cách riêng đã tiết lộ rằng những người đã thể hiện lòng trung thành với một nhóm trong quá khứ có thể được phép phản đối đa số và ảnh hưởng đến đa số. Nghiên cứu khác đã lập luận rằng một số sai lệch thực sự có thể là quy chuẩn, theo nghĩa là các thành viên trong nhóm sẽ chấp nhận các quan điểm lệch lạc nếu những quan điểm đó được cho là tán thành vì lợi ích hoặc sự bảo vệ của nhóm.