Thành phần tham dự hội nghị diên hồng là ai

Thành phần tham dự hội nghị diên hồng là ai

Các bô lão trong Hội nghị Diên Hồng. Tranh vẽ trong sách giáo khoa Lịch sử - Địa lý lớp 4
Sử sách chỉ nhắc hội nghị này thoáng qua nhưng nó là một cột mốc đánh dấu chế độ dân chủ chỉ có ở thời cận đại và hiện đại bắt đầu manh nha. Đây là một hội nghị non sông trước chiến tranh Đại Việt - Nguyên Mông lần thứ 2 ít ngày nên nó còn mang ý nghĩa thời sự nóng bỏng cho đất nước lúc bấy giờ.

Không khí chiến tranh nóng bỏng, cận kề

Kể từ sau chiến tranh Đại Việt - Nguyên Mông lần thứ nhất (năm 1258), Đại Việt có hơn 20 năm để củng cố bộ máy cai trị và xây dựng đất nước. Đây là thời gian quý báu để nhà Trần củng cố lực lượng bảo vệ đất nước. Đế quốc Mông Cổ chưa nuốt nổi mối nhục thua trận và cũng chưa từ bỏ tham vọng xâm chiếm nước ta.

Năm 1279, quân Nguyên Mông đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc). Quân Tống thua trận, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết; hậu cung cùng quan lại, binh lính chết theo rất nhiều, theo sử sách ghi có đến mấy vạn người. Nhà Tống bị diệt vong. Ngọn lửa chiến tranh đang cận kề biên giới Đại Việt.

Năm 1281, vua Trần Nhân Tông từ chối lệnh vào chầu của vua Nguyên, cử chú họ là Trần Di Ái và Lê Mục, Lê Tuân đi sứ nhà Nguyên. Nhà Nguyên lập Di Ái là lão hầu, Lê Mục là hàn lâm học sĩ, Lê Tuân là thượng thư; đồng thời sai Sài Xuân đem cả nghìn binh lính hộ tống nhóm này về Đại Việt. Động thái này của nhà Nguyên nhằm đe dọa vua nhà Trần là nếu không nghe lời (đầu hàng) thì chúng sẽ lập vua và bộ máy cai trị Đại Việt mới.

Tháng 10/1282, nhà vua mở hội nghị Bình Than nhằm họp tướng lĩnh, các nhà quý tộc, quan lại bàn kế giữ nước và phân công nhiệm vụ trấn giữ các khu vực trọng yếu. Trước đó, vua phục chức cho Phó tướng cho Trần Khánh Dư, một tướng tài bị phạt đòn và giáng chức trước đó.

Tháng 7/1283, thái tử Nguyên là A Đài và bình chương A Lạp tập hợp 50 vạn quân ở xứ Hồ Quảng chuẩn bị chiến tranh xâm lược Đại Việt.

Đến tháng 10, vua Trần Nhân Tông phong cho Trần Quốc Tuấn là quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân; đồng thời cho tập trận với cả quân thủy lẫn quân bộ.

Tháng 8/1284, Trần Quốc Tuấn điều động các vương hầu để đại duyệt binh ở bến Bình Đông, phân công nắm giữ các vị trí trọng yếu. Trong thời gian này, vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần viết Hịch tướng sĩ (Dụ chư tỳ tướng hịch văn) nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của các tướng lĩnh, những nhân vật trọng yếu trong chiến tranh. Lời hịch mạnh mẽ có tính khơi gợi, thúc giục và tính cảnh báo, răn đe trước họa mất nước: “Nay ta bảo rõ các ngươi: Nên phải lo cái nguy để mồi lửa dưới củi; nên tự răn cái sợ do canh nóng thổi dưa; dạy rèn binh sĩ, chăm tập cung tên, khiến ai ai cũng là Bàng Mông, người người đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, băm thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Văn học 2009, trang 334).

Đến tháng 12/1284, nhà Trần nắm được tin báo về từ nước Nguyên: Vua Nguyên sai thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, bình chương là A Lạt và bọn A Lý, Hải Nha mang quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành để xâm lược nước ta. Chỉ sau khi nhận tin giặc đã khởi động chiến tranh, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở hội nghị Diên Hồng, mời các vị bô lão trong nước họp và hỏi kế sách giữ nước và cho ý kiến về chủ trương chiến đấu hay hàng giặc. Đại Việt Sử ký toàn thư chỉ nghi lại ngắn gọn: “Thượng hoàng cho gọi các phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, cho ăn và hỏi kế. Các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một”.

Chỉ ngay sau hội nghị, tháng 1/1285, quân Nguyên Mông tràn sang nước ta.

Như lời hiệu triệu của núi sông

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, Hội nghị Diên Hồng có vai trò đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần 2, cũng như đặt một viên gạch đầu tiên trong xây dựng một nền chủ trong một thời đại khái niệm này còn xa lạ. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Giặc Hồ xâm lấn là tai nạn lớn của nước, hai vua hiệp vua, bầy tôi họp bàn, há không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi ban yến hỏi kế các phụ lão ư? Là vì Thánh Tông muốn thế để xét lòng yêu nước của Nhân dân nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Thế là còn giữ ý nghĩa người xưa nuôi già mà xin lời hay vậy” (Sđd 303).

Như đã nói, trong tình thế chiến tranh, nhà Trần đã chuẩn bị rất kỹ để chuẩn bị bước vào cuộc chiến khốc liệt, như đã họp bàn mưu kế ở hội nghị Bình Than, phân công nhiệm vụ cho tướng lĩnh, tập trận, duyệt binh, ra lời hiệu triệu chư tướng… Hội nghị Diên Hồng là bước chuẩn bị cuối cùng: Tìm sự ủng hộ của Nhân dân. Đây cũng là dịp nhà vua truyền đạt những tư duy kháng chiến có thể nói là rất đặc thù của Việt Nam: Toàn dân chống giặc. Trong thời kỳ Ngô Quyền, việc cắm cọc nhọn trên sông Bạch Đằng có sự giúp đỡ của người dân thường. Thời nhà Lý, đông đảo người dân cũng góp phần xây dựng chiến lũy sông Như Nguyệt…

Dưới thời nhà Trần, sự “hợp đồng tác chiến” giữa triều đình và Nhân dân được nâng cao lên một bậc. Nhà Trần ngoài quân đội của triều đình còn có quân của các nhà quý tộc, như quân của Trần Quốc Toản, của dân binh cả miền xuôi và miền ngược dưới một sự chỉ huy thống nhất. Người dân cũng tham gia làm hệ thống cọc nhọn trận chiến sông Bạch Đằng… Nhân dân đã đồng lòng trong mọi chủ trương kháng chiến của triều đình, như việc “thanh dã” (vườn không nhà trống) khiến giặc cướp được đất nhưng không cướp được lương thực. Quân Nguyên Mông điều động nhiều tướng giỏi với 50 vạn quân tràn từ biên giới phía Bắc xuống và từ mạn Nam ra (đội quân của Toa Đô đi đánh Chiêm Thành 3 năm trước đó) với thế công hung hãn. Quân đội nhà Trần buộc nhiều lần phải lui binh, trong đó có lần từ Thiên Trường về Thanh Hóa tránh kìm kẹp của giặc trong mối hiểm nguy gang tấc. Những đợt lui binh và ẩn thân đó chắc chắn phải được Nhân dân che chắn, giữ bí mật và cung cấp thêm lương thảo.

Đặc biệt, trong cuộc chiến Đại Việt - Nguyên Mông lần thứ 2, trong Nguyên sử có ghi: Quân nhà Trần càng đánh càng đông. Đây là chi tiết chứng tỏ người dân nghe lời hiệu triệu của triều đình sẵn sàng tòng quân giết giặc. Bởi thế, trong ngày đầu kháng chiến ác liệt, Trần Nhân Tông mới có thơ tự hào và cũng là tự động viên mình, cùng động viên tướng sĩ: “Cối Kê cựu sự quân tu ký/ Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (Cối Kê việc cũ người nên nhớ/ Hoan Diễn hãy còn mười vạn quân).

Thực tế, trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, thắng lợi vang dội của nhà Trần là thắng lợi của toàn quân, toàn dân. Đó là nhờ chính sách trọng dân, tinh thần dân chủ của nhà vua, của triều đình mà thể hiện đỉnh cao, rõ nhất là ở Hội nghị Diên Hồng, nơi người dân được bày tỏ ý kiến và thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của mình. Để từ đó, người dân đã góp người, góp của cùng với triều đình đánh bại kẻ thù.

Cái cớ nhà Nguyên sử dụng để đem quân xâm lược Đại Việt lần thứ hai là gì?

Ai là tổng chỉ huy quân Nguyên trong lần thứ hai xâm lược Đại Việt (1285)?

 Diên Hồng là một hội nghị quốc dân đầu tiên của người Việt Nam năm 4073 Việt lịch (1284 dl) và cũng là một hội nghị quốc dân đầu tiên của nhân loại được triệu tập bởi nhà cầm quyền để tìm hiểu dân tâm và thăm dò dân ý (Trưng Cầu Dân  Ý). Đây là một sinh hoạt dân chủ trong quốc sự hay nói cách khác là một sinh hoạt dân chủ trong chính trường của người Việt Nam. Nó đã  làm nổi  bật lên những nét đep tuyệt vời của một nền văn hóa nhân bản hay thường gọi là nền văn hiến trong thế kỷ thứ 40 của Việt lịch.

  Hãy tìm một sự tổng hợp cuả những nét đẹp văn hiến đó, hầu góp phần trong việc thắp sáng niềm tin vào nền tảng văn hiến ngàn đời của Việt tộc trước cơn quốc nạn hiện đang bị những dối trá, bạo lực, hận thù thống trị  và chủ nghĩa ngoại lai nô dịch hoá và ngu đầng hóa dân tộc Việt Nam; Hầu phục hoạt nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc.

 1- Hào Khí:
  Hội nghị Diên Hồng đã tạo nên một hào khí dân tộc kiên cường và bất khuất trước giặc ngoại xâm và kế thừa một truyển thồng tự chủ đã được vinh danh

           Kể từ mấy ngàn năm lịch sử,

         Trên chiến trường kim, cổ, Ðông, Tây,

         Bốn mươi quốc thổ dưới tay,

           Chưa từng thấy chuyện xưa nay bao giờ.

          Hơn nửa mảnh thế đồ dẵm nát,

          Giặc Nguyên chưa thỏa đất tung hoành;

         Nào ngờ giấc mộng Nam chinh

           Ba lần tràn xuống tan tành cả ba.

          Ðánh cho giặc biết ta Văn-Hiến,

         Cho ngàn sau hãnh diện giống dòng,

         Cho cao đại nghĩa Diên-Hồng,

        Cho tình thế giới còn trong loài người ...

* Hội nghị Diên Hồng:

 Triệu tập các bô lão khắp trong nước.

          Tết Giáp-Thân (dl.1284) mờ trời gió cát,

         Ðại quân Nguyên đồng loạt tiến công,

         Bộ từ Hồ-Quảng đột xông,

         Thủy quân xuất phát từ vùng Quảng-Châu.

          Trước tình thế hai đầu thọ địch

         Hưng-Ðạo Vương thống lĩnh ba quân;

         Riêng còn ngại nỗi toàn dân

         Ðồng tâm hiệp lực chung phần nước non.

          Từ sơn cốc, hương thôn, bộ thuỷ

         Những bạc đầu trực chỉ Thăng-Long,

         Ðáp lời dự hội Diên-Hồng,

          Trước bàn quốc sự sau chung chuyện nhà.

         Ngoài ải Bắc tin về dồn dập,

         Cõi Nam thuỳ khẩn cấp quân đi;

         "Sơn hà xã tắc lâm nguy,

          "Hoà thì nước mất, chiến thì thân vong!"

          Khắp bô lão một lòng xin đánh,

         Khắp làng thôn một lệnh kháng Nguyên,

         Vừa khi tin ở Bắc biên

          Thoát Hoan quân đã đóng miền Nam-Quan.

          Sai A-Lý chiêu an trá thuyết

         Dụ mượn đường sang diệt Chiêm vương,

         Sự thành tất có tuyên dương,

          Nhược bằng chống lại miếu đường nát tan!

        ( Trích Tuyện Sử của Vũ T.T)


 
 2- Tinh Thần Bất Khuất:
      Đã thể hiện một tinh thần "Uy Vũ bất năng khuất" cuả một dân tộc có một truyền thống kiên cường và hào hùng trước những cuộc xâm chiếm cuả kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc.

 3- Ý Chí Quật Khởi:


    Đã tiếp nối bao thế hệ từ thời dựng nước cho đến Đinh, Lê và Lý, một ý chí quật khởi trước những bất công và tham tàn trong nước, trước sự hung tàn và độc ác cuả  kẻ thống trị ngoại bang trên đất nước.

 4- Dân Tâm:


    Hội nghị Diên Hồng đã thể hiện được trọn vẹn ý nghĩa tuyệt vời của dân tâm trong quốc sự và trước sự tồn vong của quốc dân và quốc gia, trước cảnh quốc phá, gia vong. Lấy Dân Tâm làm kế sách "An Dân & Lạc Quốc" là thượng sách kế trong quốc sự.

 5- Niềm Tin:
   Diên Hồng là một khởi điểm của một sinh hoạt dân chủ trong đó dân tâm và dân ý được nhà cầm quyền lắng nghe và thực thi, là một nét đẹp tuyệt vời của nền dân chủ nhân bản trong đó tình người và nghĩa làm người được tôn vinh và tôn trọng, là một kim chỉ nam của một thể chế dân chủ nơi mà nếp sống được hài hòa giữa việc nước (quốc) và việc nhà (gia), giữa quốc quyền và dân quyền.  Diên Hồng là niềm tin của:
     (1) Tự chủ: Giặc xâm lăng cho dù mạnh bạo và hung hăn như thế nào cũng không khuất phục được Việt tộc mà phải tan hàng rút về nước. Giành lại nển tự chủ cuả dân tộc.
    (2) An lạc: Nơi hài hòa của tình người và nghĩa làm người trong việc nước (quốc) và việc nhà (gia), giữa đời sống vật chất và tinh thần.
    (3) Dân chủ: Nơi mà dân tâm và dân ý được nhà cầm quyền lắng nghe và thực thi. Lấy nhân tâm và dân tâm làm phương tiện và kế sách "An Dân & lạc Quốc".
    (4) Văn hiến: Làm sáng ngời những nét đẹp tinh anh dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm. Nơi mà phẩm giá cuả con ngươì (hiến) được đề cao ngang hàng với phẩm chất cuả nếp sống loài người (văn), đã thành một hiến chương lập quốc bất thành văn cuả Việt tộc. 

6-  Kết:
  Thắp sáng niềm tin Diên Hồng là phục hoạt tinh thần bất khuất, hào hùng và ý chí quật khởi của Việt tộc trước những áp bức, lạm quyền, thối nát của nhà cầm quyền; Trước những mưu đồ xâm lấn và thôn tín của lân bang, trước những sắp xếp của thế lực quốc tế và đồng hành cùng bước tiến của nhân loại.

     Niền tin Diên Hồng là niền tin cuả : Tự ChủAn Lạc để phục hồi một thể chế Dân Chủ Văn Hiến.

  Thắp sáng niềm tin Diên Hồng là nhiệm vụ và bổn phận của nhà cầm quyền và của mỗi người dân nước Việt.

Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là làm sáng ngời niền tin Diên Hồng và góp phần phục hồi nền Văn Hiến ngàn đời cuả Việt tộc


Nam Phong tổng hợp