Thế nào là thích ứng với biến đổi khí hậu

(TN&MT) - Sự gia tăng nhiệt độ Trái đất, biến đổi khí hậu (BĐKH) là nguyên nhân gây ra hàng loạt thảm họa thiên tai trên khắp thế giới thời gian qua. Dự báo trong nhiều thập kỷ tới, chu kỳ xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ rút ngắn lại, đặc biệt là nắng nóng cực đoan, mưa, lũ lớn và hạn hán. Các mốc lịch sử xuất hiện ngày càng nhiều và thiệt hại cũng ngày càng lớn hơn.

Chưa bao giờ yêu cầu thích ứng với tác động của BĐKH lại trở nên bức thiết đến thế. Để hiểu hơn về ảnh hưởng khắc nghiệt của BĐKH lên khí quyển, con người thời gian gần đây, Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc phỏng vấn Giáo sư Trần Thục - Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Quốc gia về BĐKH.

Thế nào là thích ứng với biến đổi khí hậu

Giáo sư Trần Thục - Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Quốc gia về BĐKH

PV: Thưa Giáo sư, mới đây, khu vực vốn có khí hậu ôn hòa quanh năm như châu Âu đã gặp mưa lũ lớn lịch sử, tiếp sau đó là nắng nóng gây ra hàng chục nghìn vụ cháy rừng tồi tệ; hay cơn bão Ida lớn nhất trong lịch sử đổ bộ vào Mỹ cho thấy tình hình BĐKH đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng. Phải chăng, con người sẽ phải chấp nhận những biến đổi bất thường của thời tiết, khí hậu như một trạng thái “bình thường mới” trong tương lai?

GS. Trần Thục:

Biến đổi khí hậu đã có tác động rõ nét đối với sự gia tăng thiên tai trên thế giới và ở Việt Nam. Nhiệt độ tăng có thể dẫn đến thay đổi hoàn lưu gió mùa; thay đổi hoạt động của xoáy ở các cực gây nên các đợt nóng hoặc lạnh bất thường ở một số vùng; nhiệt độ nước biển tăng sẽ cung cấp nhiều năng lượng hơn khiến bão có cường độ mạnh gia tăng, bốc hơi tăng dẫn đến mưa cực đoan gia tăng và thiếu nước vào mùa khô.

Dữ liệu quan trắc hơn 50 năm qua trên toàn cầu cho thấy, các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan đã có xu thế gia tăng cả về cường độ và tần suất. Đến năm 2019, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 1,1°C so với thời kỳ tiền công nghiệp; mực nước biển trung bình toàn cầu giai đoạn 1902 - 2015 tăng khoảng 1,5mm/năm, giai đoạn 1993 - 2015 tăng 3,16mm/năm và giai đoạn 2006 - 2015 tăng 3,6mm/năm; số lượng bão nhiệt đới cường độ mạnh tăng và các siêu bão ngày càng xuất hiện nhiều hơn.

Ở Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm tăng 0,89°C trong thời kỳ 1958 - 2018, riêng giai đoạn 1986 - 2018 tăng 0,74°C; mưa cực đoan tăng ở hầu hết các vùng của cả nước; số ngày nắng nóng tăng, số ngày rét đậm, rét hại giảm; hạn hán xảy ra thường xuyên hơn; mực nước biển tăng 2,74mm/năm; số lượng các cơn bão mạnh trên Biển Đông có xu thế tăng. Qua phân tích số liệu mưa trong bão ở miền Trung có thể thấy, với cùng một tần suất xuất hiện thì lượng mưa 1 ngày lớn nhất trong bão ở giai đoạn 1993 - 2017 đã tăng khá nhiều so với giai đoạn 1977 - 1992. Theo kịch bản BĐKH thì sự gia tăng mưa cực đoan này càng lớn. Dưới tác động của BĐKH, thời tiết có dấu hiệu cực đoan hơn cả về 2 phía nóng hơn và lạnh hơn. Sự bất thường của thời tiết cực đoan và thiên tai sẽ trầm trọng hơn trong tương lai, khiến cho việc dự báo, cảnh báo và quản lý rủi ro thiên tai càng khó khăn hơn.

Thế nào là thích ứng với biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu đã có tác động rõ nét đối với sự gia tăng thiên tai trên thế giới và ở Việt Nam. Ảnh: MH

PV: BĐKH là thách thức của cả hiện tại và tương lai. Vậy đầu tư cho thích ứng BĐKH có mối quan hệ như thế nào với đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, thưa Giáo sư?

GS. Trần Thục:

Việc phân biệt giữa đầu tư cho thích ứng với BĐKH và đầu tư cho phát triển là khá phức tạp. Sự khác biệt này là khó phân biệt, tạo ra thách thức trong việc quyết định hoạt động nào nên nhận được hỗ trợ dành cho thích ứng với BĐKH.

Một số quỹ thích ứng quốc tế và các nhà tài trợ song phương đã nỗ lực làm rõ định nghĩa về thích ứng với BĐKH, thiết lập các chỉ số để tiếp cận hỗ trợ thích ứng với BĐKH, và phân biệt hỗ trợ này với tài trợ phát triển. Tuy nhiên, quá trình này có thể không được đo lường dễ dàng như các hoạt động tăng cường khả năng thích ứng dựa trên quan điểm của phát triển kinh tế - xã hội thông thường. Trong một số lĩnh vực, có thể đo đạc và phân biệt được giá trị tăng thêm khi thực hiện các hành động thích ứng vào các hoạt động phát triển thông thường, thí dụ như các dự án trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định ranh giới và những giá trị tăng thêm khi thực hiện các hành động thích ứng là rất khó trong một số lĩnh vực, thí dụ như lĩnh vực liên quan đến tài nguyên nước, vệ sinh và môi trường…

Thêm vào đó, một trong những thách thức lớn nhất trong việc thực hiện thích ứng với BĐKH là tính không chắc chắn trong các kịch bản BĐKH, những tác động có tính lâu dài và không thể lường trước của BĐKH.

Vì vậy, thích ứng với BĐKH nên được xem như một quá trình. Nó không phải là một chính sách hoặc dự án, mà là mối liên hệ giữa các hành động về tăng cường khả năng thích ứng và chuyển đổi trên nhiều cấp độ, lĩnh vực và đối tượng. Các nhiệm vụ/dự án thích ứng nên hướng tới việc giải quyết các nguyên nhân cơ bản của tình trạng dễ bị tổn thương. Do vậy, không cần thiết phải phân biệt giữa thích ứng và phát triển mà cần xem xét liệu hoạt động được đề xuất có thể giải quyết tình trạng dễ bị tổn thương hay không.

Các nỗ lực thích ứng sẽ tập trung vào sự thay đổi các quá trình cũng như những yếu tố gây ra tính dễ bị tổn thương. Các vấn đề nghèo đói, giới, sinh kế, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng cũng cần được xem xét và giải quyết. Kết quả là các nỗ lực về tăng cường cơ hội học hỏi, trao quyền lãnh đạo và hợp tác giữa các ngành và tổ chức sẽ được triển khai, thúc đẩy tiếp cận chuyển đổi thay vì chỉ tập trung vào điều chỉnh và gia tăng khả năng thích ứng để duy trì hệ thống.

PV: Thưa Giáo sư, Việt Nam được biết là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của BĐKH nhất trên thế giới và cũng đã triển khai nhiều hoạt động thích ứng. Vậy với những tác động từ từ, diễn biến chậm lên tới hàng chục năm, làm thế nào để xác định các hành động thích ứng phù hợp và tạo động lực cho chính quyền, nhân dân triển khai?

GS. Trần Thục:

Thích ứng với BĐKH ở Việt Nam nên được dựa trên quan điểm: Thích ứng với BĐKH là một quá trình; là kết quả của nhiều hoạt động được phối hợp từ các cấp, các lĩnh vực và các đối tượng; các khoản đầu tư cho thích ứng là đầu tư vào sự phát triển. Các nhiệm vụ thích ứng cần được xem xét là những hành động không hối tiếc, là sự kết hợp hài hòa của các hành động phát triển kinh tế - xã hội thông thường và các hành động nhằm nâng cao khả năng thích ứng và giảm tính dễ bị tổn thương phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế.

Các hành động thích ứng với BĐKH cần hướng đến các mục tiêu thích ứng trong Kế hoạch thích ứng quốc gia của Việt Nam, giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của BĐKH thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.

Các mục tiêu cụ thể bao gồm: (1) Nâng cao hiệu quả thích ứng với BĐKH thông qua việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BĐKH, trong đó có hoạt động thích ứng với BĐKH, thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch; (2) Tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái thông qua việc đầu tư cho các hành động thích ứng, khoa học và công nghệ, nâng cao nhận thức để sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu; (3) Giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH.

PV: Dịch bệnh Covid-19 đã làm đứt gãy nhiều ngành kinh tế và ít nhiều cản trở mục tiêu ứng phó BĐKH của Việt Nam. Dưới góc độ chuyên gia, ông có nhận xét và đề xuất gì để Việt Nam có thể đạt được mục tiêu giảm phát thải như mong muốn trong thời gian tới?

GS. Trần Thục:

Dịch bệnh Covid-19 đã có những ảnh hưởng lớn đến công tác ứng phó với BĐKH của Việt Nam. Việc tập trung nguồn lực ứng phó với Covid-19 đã làm giảm nguồn lực (cả về kinh tế và con người) cho hoạt động thích ứng với BĐKH. Dịch bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Tuy nhiên, dù phải dành nguồn lực để đối phó với Covid-19, các nỗ lực ứng phó với BĐKH vẫn theo lộ trình đã được xác định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020. Bộ TN&MT đang xây dựng Dự thảo Nghị định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; Dự thảo quyết định về Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH quốc gia; Dự thảo Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.

Hiện tại, Bộ TN&MT đang xây dựng Dự thảo Chiến lược quốc gia về BĐKH với 2 mục tiêu chính là thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cùng với kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược.

PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Thế nào là thích ứng với biến đổi khí hậu

Các tổ chức quốc tế và đối tác phát triển đánh giá cao sự chủ động của Việt Nam trong thích ứng với biến đổi khí hậu - Ảnh: VGP/Thu Cúc

Ngày 26/4, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo tham vấn dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.

Quan điểm xuyên suốt của dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 khẳng định, biến đổi khí hậu là xu thế không thể đảo ngược và là thách thức lớn nhất đối với nhân loại. Thích ứng với biến đổi khí hậu và mục tiêu phát thải ròng bằng "0" là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân.

Việt Nam sẽ ứng phó với biến đổi khí hậu trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế.

Dự thảo Chiến lược nhấn mạnh, ứng phó với biến đổi khí hậu là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện. Quá trình này cần sự nỗ lực liên tục, kiên định, thống nhất trong nhận thức và hành động.

Các giải pháp cấp bách giảm mức độ dễ bị tổn thương, tăng cường sức chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu sẽ được triển khai. Trong đó, ưu tiên cao nhất bảo đảm an toàn, sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề; tập trung phát triển hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển dịch năng lượng dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, miền.

Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành, Việt Nam đã trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2015, hoàn thành cập nhật NDC vào 2020, đưa trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành để toàn dân thực hiện. Đồng thời, Việt Nam cũng đã tập trung xây dựng dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.

Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh: "Dự thảo Chiến lược xây dựng các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phù hợp với mục tiêu cam kết tại Hội nghị COP26 và thực hiện các yêu cầu của Thỏa thuận Paris. Dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 phản ánh sự chuyển đổi về chất trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam, thể hiện lộ trình để hiện thực hoá cam kết của Việt Nam tại COP26, các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm đạt mục tiêu đưa mức phát thải ròng về "0" vào năm 2050".

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương từ khi xây dựng đề cương Chiến lược, khảo sát 63 địa phương và thực hiện phỏng vấn sâu 20 tỉnh, thành phố. Đến nay, dự thảo Chiến lược cũng đã được gửi xin ý kiến các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các địa phương trên cả nước, tham vấn các nhà khoa học…

"Trong thời gian tới, chúng tôi rất mong các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược, thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cũng như các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26", Thứ trưởng Lê Công Thành chia sẻ.

Những cam kết mạnh mẽ và những đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị COP26 đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trước bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 cần được xây dựng nhằm cập nhật những xu thế mới của quốc tế cũng như định hướng rõ các vấn đề cấp bách, ưu tiên gắn với việc thực hiện Thỏa thuận Paris, các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.

Lồng ghép giới trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu

Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP nhấn mạnh: "Tôi hy vọng chiến lược về biến đổi khí hậu dài hạn này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho các kế hoạch và chính sách khí hậu quan trọng khác, chẳng hạn như Quy hoạch phát triển điện VIII sắp tới và Kế hoạch tổng thể về phát triển năng lượng quốc gia, cập nhật NDC, NAP và Chiến lược tăng trưởng xanh".

Bà Caitlin cũng đưa ra các khuyến nghị như: Việt Nam cần có một kế hoạch nhất quán để cải cách chính sách khí hậu, đẩy nhanh các biện pháp thích ứng để tăng cường khả năng chống chịu cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người bị ảnh hưởng đầu tiên; có quy hoạch minh bạch cho quá trình chuyển đổi xanh và công bằng; đưa ra khung chính sách minh bạch về các dòng tài chính để hỗ trợ các dự án và các nhiệm vụ đầu tư xanh.

Đề xuất lồng ghép giới vào Chiến lược quốc gia về biến đối khí hậu giai đoạn đến năm 2025, đại diện Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) cho rằng, phụ nữ không chỉ là đối tượng dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu mà còn đóng vai trò tích cực, chủ động trong các hoạt động thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Lồng ghép giới trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu sẽ góp phần giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Các nỗ lực giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ hiệu quả và bền vững hơn nếu tích hợp các yếu tố xã hội và giới.

Nhiệm vụ tại dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu:

Về chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu: Nhóm nhiệm vụ nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, đảm bảo sinh kế bền vững; nhóm nhiệm vụ, giải pháp giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do biến đổi khí hậu.

Về giảm phát thải khí nhà kính bao gồm các nhiệm vụ chung và giảm phát thải khí nhà kính theo các lĩnh vực cụ thể gồm: Năng lượng; nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và thay đổi sử dụng đất; chất thải; các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm công nghiệp.

Về hoàn thiện thể chế, phát huy tiềm năng và nguồn lực ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu trước năm 2030; truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo; huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và ngoại giao khí hậu trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thu Cúc