Tiêu biểu xu hướng giáo dục mầm non trên the giới những năm 1990 tiêu biểu là những quốc gia nào

Xem xét, học tập và áp dụng những kinh nghiệm quý báu trong giáo dục, của các nước trên thế giới cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội – văn hóa của Việt Nam.

Đón đầu những yêu cầu đổi mới của xã hội, đối với ngành giáo dục mầm non trong tương lai vô cùng cần thiết. Vì vậy, cần hiểu rõ các quan điểm tiếp cận giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Các phương pháp giáo dục tiên tiến ở một số nước trên thế giới, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp. Bài báo cho cái nhìn tổng quan về các vấn đề này.

1. Đặt vấn đề

Thực hiện chiến lược giáo dục đổi mới căn bản, toàn diện và hội nhập quốc tế cần coi trọng yếu tố con người. Việc xem xét và học tập, áp dụng những kinh nghiệm quý báu về nghiên cứu giáo dục trẻ ở các nước tiêu biểu trên thế giới, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội – văn hóa của đất nước.

Đón đầu những yêu cầu mới của xã hội đối với ngành giáo dục mầm non trong tương lai là vô cùng cần thiết. Thực tế cho thấy, vận dụng tư tưởng giáo dục tiên tiến trên thế giới trong quản lý và thực hiện chương trình đào tạo giáo viên mầm non (GVMN), chương trình giáo dục mầm non (GDMN) ở Việt Nam.

Cũng còn một số bất cập do những lý do khách quan và chủ quan. Kết quả chăm sóc-giáo dục trẻ trẻ chưa thật sự đáp ứng được các yêu cầu của ngành GDMN theo quan điểm “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”.

Vì vậy, lựa chọn phương pháp giáo dục nào để trẻ yêu thích hoạt động, tích cực tự khám phá, trải nghiệm, học sâu và chuẩn bị tốt những tiền đề quan trọng trong học tập cũng như trong cuộc sống của trẻ sau này là vấn đề cần sự quan tâm của toàn xã hội.

2. Các quan điểm tiếp cận giáo dục tiên tiến trên thế giới

2.1.Cách tiếp cận tích hợp

Cách tiếp cận này nhìn nhận sự phát triển của trẻ nhỏ mang tính tổng thể. Trẻ nhận thức, lĩnh hội tri thức trong môi trường tự nhiên – xã hội phong phú, đa dạng và nhiều mặt, mang tính tích hợp.

Việc học của trẻ được thực hiện tích hợp thông qua các hoạt động đa dạng trong môi trường sống. Các hoạt động được tổ chức lồng ghép, tác động một cách đồng bộ đến các mặt phát triển của trẻ.

2.2.Cách tiếp cận phát triển (hay cách tiếp cận quá trình

Có thể nói, đây là cách tiếp cận hiện đang được nhiều người và nhiều nước sử dụng. Theo giải thích của Kelly, cách tiếp cận này xem xét giáo dục là sự phát triển.

Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người tức là phát triển một cách tối đa mọi tiềm năng tiềm ẩn trong mỗi con người, làm cho con người có khả năng làm chủ trong mọi tình huống.

Người học trong cách tiếp cận này được xem như một chủ thể tham gia tích cực vào quá trình hoạt động để nhận thức và phát triển. Theo cách tiếp cận này, người ta chú trọng vào việc dạy cách học hơn là chỉ hoàn toàn chú trọng truyền thụ nội dung kiến thức.

Có thể nói rằng, theo cách tiếp cận phát triển và với quan điểm giáo dục là quá trình phát triển thì người lập chương trình chú trọng nhiều đến khía cạnh nhân văn của chương trình giáo dục mầm non.

Có nghĩa là chú trọng đến nhu cầu, sở thích, khả năng của trẻ để chương trình có thể đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của trẻ. Trong cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên là gợi mở, hướng dẫn trẻ học cách học, tìm kiếm và thu thập thông tin, gợi mở giải quyết vấn đề.

Giáo viên luôn là người tạo cơ hội, tạo điều kiện để trẻ thực hành, trải nghiệm những kiến thức và kỹ năng thu nhận được vào cuộc sống.

Từ chỗ phân tích ở trên, có thể nói ưu điểm của cách tiếp cận này là ở chỗ, nó chú trọng đến nhu cầu, sở thích, khả năng riêng của mỗi trẻ mà không mang tính áp đặt từ phía người lớn.

Các hoạt động chú trọng phát triển sự hiểu biết, năng lực chung, chú trọng vào dạy trẻ cách học, học luôn đi đôi với hành.

Nội dung học được tổ chức dưới dạng các hoạt động và tạo cơ hội cho trẻ tìm kiếm các giải pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề hoặc các tình huống đặt ra. Đây chính là quan điểm giáo dục tiên tiến.

2.3.Vận dụng các quan điểm tiếp cận trong giáo dục mầm non tại các nước trên thế giới

Các quan điểm tiếp cận trên thế giới đều theo triết lý “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” và được thể hiện cụ thể như sau:

– Tại các nước Bắc Âu

Hơn cả triết lý lấy trẻ làm trung tâm đơn thuần, giáo dục mầm non ở Thụy Điển đề cao tinh thần “Thử thách, Khám phá và Phiêu lưu”, khuyến khích trẻ dám chấp nhận thử thách.

Giáo dục mầm non ở các nước Bắc Âu cũng chú trọng giáo dục cho trẻ tinh thần dân chủ, tôn trọng sự khác biệt, tính sáng tạo, hứng thú học hỏi và khả năng tự học.

Bên cạnh đó, nền giáo dục giáo dục này thể hiện tinh thần tích hợp cao về mục tiêu và nội dung thông qua các chủ đề phong phú, đa dạng xuất phát từ chính hứng thú của trẻ trong mỗi lớp học.

Môi trường lớp học thân thiện, cởi mở. Với chương trình khung ngắn gọn, giáo viên mầm non ở các nước Bắc Âu được khuyến khích sáng tạo và linh hoạt trong phát triển chương trình cụ thể cho trường, lớp của mình.

– Tại CHLB Nga

Nội dung giáo dục cho trẻ được lựa chọn một trong số những chương trình đã được Bộ Giáo dục Liên bang phê chuẩn làm cơ sở cho việc tổ chức quá trình giáo dục trong trường mình. Có hai loại chương trình: chương trình giáo dục toàn diện và chương trình giáo dục bổ trợ.

Chương trình giáo dục toàn diện đề cập tới tất cả mọi mặt của công tác giáo dục trẻ, đảm bảo cho sự phát triển của trẻ về mọi phương diện. Chương trình bổ trợ sẽ được lựa chọn tùy theo điều kiện của mỗi nhà trường.

– Tại Úc, Mỹ, Anh, Newzealand…

Hiện nay, giáo dục cho trẻ của các nước Úc, Mỹ, Anh, Newzealand đều có đặc điểm chung là nội dung các hoạt động được xây dựng theo cách tiếp cận tích hợp.

Mục tiêu của các hoạt động là nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất, năng lực chung chứ không quá nhấn mạnh việc hình thành những kiến thức, kỹ năng đơn lẻ.

Newzealand hướng vào mục tiêu phát triển đứa trẻ thành những người học và chủ thể giao tiếp có đủ khả năng và tự tin – khỏe về thể chất, trí tuệ, tinh thần.

Chương trình linh hoạt, mở và theo cách tiếp cận tích hợp và học qua vui chơi được xem là xương sống của trải nghiệm hàng ngày của trẻ ở trường mầm non.

Các hoạt động nhấn mạnh việc kết hợp các lĩnh vực theo các chủ đề hoặc các đề tài cụ thể được cô và trẻ quan tâm. Tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội và khoa học của môi trường đan quyện vào nhau, không có sự phân chia rạch ròi tạo thành một môi trường sống phong phú của trẻ.

Phương pháp giáo dục trẻ đều dựa trên quan điểm hướng vào trẻ, tạo điều kiện thích hợp cho sự phát triển của từng trẻ. Các hoạt động phát triển cho trẻ tại Mỹ, úc, Anh, Newzealand đều dựa trên quan điểm cho rằng hoàn cảnh văn hóa, xã hội mà trẻ đang sống ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của chúng.

Vấn đề trọng tâm là hiểu biết về trẻ thông qua quá trình quan sát trẻ khi tương tác với mọi người, với nguyên vật liệu và những ý tưởng của trẻ trong môi trường ở trường mầm non. Trong quá trình giáo dục trẻ, hoạt động vui chơi đóng vai trò trung tâm.

– Tại Mỹ

Người Mỹ rất coi trọng tinh thần độc lập của mỗi người. Những người làm công tác giáo dục mầm non ở Mỹ đều được nhấn mạnh việc giáo dục cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ.

Ở các trường mầm non ở Mỹ, ngoài việc khơi mở trí lực giai đoạn đầu cho trẻ, người ta rất coi trọng việc dạy cho trẻ các quy tắc lễ nghi.

Yêu cầu đối với mỗi em là phải nghe theo lời chỉ bảo của các giáo viên, học cách tham gia các hoạt động tập thể. Một trong những yếu tố rất được đề cao là vai trò của người giáo viên. Do đó, những giáo viên mẫu giáo ở Mỹ đều phải thông qua những yêu cầu rất nghiêm ngặt về trình độ.

– Tại Canada

Phương pháp giáo dục mầm non không gây áp lực học tập, rất thoải mái và phù hợp tâm lý trẻ em, song lại giúp xây dựng một nền tảng tối ưu về mọi mặt: trí tuệ, sáng tạo, tình cảm, xã hội và thể chất, cũng như cung cấp mọi kỹ năng mềm để trẻ có thể học tập hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo.

Đặc biệt, giáo dục mầm non Canada rất thành công với phương pháp giáo dục sớm và chương trình học tích hợp. Điều này giúp trẻ trau dồi được những kiến thức đa dạng và kỹ năng mềm từ sớm, trẻ thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo, có khả năng tiếp thu và học hỏi vượt trội hơn trong những năm tiếp theo.

– Tại Singapore

Giáo dục trẻ tại Singapore đi theo hướng tích hợp chủ đề. Tiếp cận tích hợp chủ đề chính là cách thức định hướng mở cho phép giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục xoay quanh chủ đề.

Giáo dục tích hợp theo chủ đề theo nguyên tắc giáo dục phải “hướng vào trẻ”, tổ chức hoạt động cho trẻ phải xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của chính trẻ, gắn với cuộc sống thực gần gũi của trẻ. Giáo viên là người tổ chức dẫn dắt, cùng trẻ đưa ra ý tưởng thực hiện chủ đề.

Mục tiêu của chương trình hướng đến sự hình thành những năng lực chung, giúp trẻ có khả năng giải quyết tình huống nảy sinh trong cuộc sống và có ý thức trách nhiệm trong xã hội chứ không nhằm hình thành những kiến thức, kĩ năng đơn lẻ.

Chương trình chú trọng phát triển toàn diện cho trẻ cả về thể chất lẫn tinh thần, giúp trẻ có ý thức tự học suốt đời. Chương trình đề cập đến công tác xây dựng môi trường học tập tích cực cho trẻ. Nội dung của chương trình hướng tới các mặt phát triển của trẻ như thể chất, nhận thức, thẩm mĩ, ngôn ngữ và tình cảm xã hội.

– Tại Nhật Bản

Giáo dục mầm non ở Nhật bản thể hiện rất rõ quan điểm lấy hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, chú ý tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ.

Các chuyên gia giáo dục Nhật cho rằng vui chơi ngoài trời cần được ưu tiên vì nó sẽ thúc đẩy trí tò mò, trẻ có thể học được cách làm thế nào để tập trung và chú ý. Các hoạt động phát triển coi trọng nhu cầu và hứng thú của trẻ, đưa ra các phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục đa dạng.

Quan điểm giáo dục của mỗi nhà trường là khác nhau và sao cho phù hợp với sự phát triển của trẻ và các điều kiện hoàn cảnh khác tại địa phương. Sự khác biệt lớn nhất của nền giáo dục Nhật Bản là cách người Nhật rèn tinh thần tập thể, khả năng làm việc nhóm cho học sinh từ khi còn rất nhỏ.

Chú trọng nét đặc trưng riêng, thể hiện các giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi của người Nhật: tính kỷ luật, tự lập, gọn gàng, tinh thần vượt khó… Đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản.

Giáo viên mầm non tại Nhật Bản được ví như một người nghệ sĩ thực thụ. Giáo dục mầm non được coi trọng và dựa trên nguyên tắc đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi trẻ. Môi trường giao tiếp ngôn ngữ thân thiện và đầy tính nhân văn, coi trọng những cảm xúc và sự sáng tạo của trẻ.

– Tại Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, các trường mầm non thực hiện việc phát triển cho trẻ dựa trên các yếu tố cơ bản như: Các mối quan hệ xã hội trong đời sống hàng ngày; Biểu cảm trong đời sống hàng ngày; Ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày; Năng lực giải quyết vấn đề hợp lý giáo viên chủ động xây dựng chương trình và thiết kế các hoạt động phát triển cho trẻ.

Nội dung giáo dục không thể hiện sự phân biệt giữa các độ tuổi nhưng nội dung đó được đề nghị ở hai mức độ phát triển cao – thấp khác nhau ở từng lĩnh vực phát triển của trẻ.

– Tại Trung Quốc

Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước Trung Quốc rộng, dân số đông, sự phát triển giữa các vùng miền trên đất nước không đồng đều nên các nhà nghiên cứu, thiết kế các hoạt động cho trẻ chứa đựng nhiều đặc điểm như dân tộc, khu vực, ngành nghề để thích nghi với điều kiện khu vực khác nhau, bối cảnh văn hóa khác nhau, nhu cầu về điều kiện kinh tế khác nhau.

Lấy môi trường thiên nhiên xung quanh và nội dung sinh hoạt xã hội làm cơ sở các hình thức: trò chơi, tiết học, lao động trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi hình thức đều có tác dụng giáo dục đặc thù của nó. Kết hợp bồi dưỡng nhận thức, tình cảm, hành vi, năng lực trong một quá trình thống nhất.

2.4. Tóm lại

Các nước chủ yếu đi theo hướng tiếp cận tích hợp và phát triển dựa trên quan điểm “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” giúp trẻ phát triển các năng lực, có khả năng thích ứng và giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Nhà giáo dục luôn quan tâm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đa dạng, hấp dẫn với trẻ, tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ chủ động giao tiếp, chia sẻ và hợp tác cùng nhau.

Thực tế cho thấy, ở hầu hết các nước trên thế giới, hệ thống các cơ sở giáo dục mầm non rất đa dạng để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của các gia đình.

Xu hướng chung của các nước trên thế giới là nỗ lực tìm kiếm sự thống nhất và chuẩn mực chất lượng chung trong sự đa dạng của các loại hình trường.

Để làm được điều đó, các nước ban hành mục tiêu, kết quả mong đợi cần đạt được và các nguyên tắc mang tính định hướng cho giáo dục mầm non, bên cạnh việc duy trì cho phép các trường có thể tự do lựa chọn mô hình giáo dục.

Nhiều nước đã xây dựng chương trình khung với yêu cầu về mục tiêu cần đạt được trong các lĩnh vực phát triển chính nhằm định hướng cho các trường phát triển chương trình theo cách riêng của mình.

Thực tiễn chương trình và phương pháp giáo dục mầm non ở một số nước XHCN đang chuyển dần từ thuần nhất sang đa dạng: từ chỗ chỉ có một chương trình duy nhất, chi tiết, áp đặt chung cho cả quốc gia chuyển sang chế độ chương trình khung để tạo điều kiện cho các trường mầm non được linh hoạt phát triển chương trình phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Các công trình nghiên cứu về tâm lý và giáo dục học trong thời gian qua cũng đã làm thay đổi mạnh mẽ cách nhìn về quá trình học và phát triển của trẻ và xu hướng xây dựng chương trình và phương pháp giảng dạy trong giáo dục mầm non trên thế giới.

Trong nửa sau của thế kỷ 20 giáo dục mầm non trên thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết kiến tạo của Jean Piaget. Piaget xem trẻ là chủ thể tích cực của quá trình nhận thức, do đó cần tạo điều kiện cho trẻ được tương tác với môi trường vật chất xung quanh, được trải nghiệm để kiến tạo nên tri thức mới cho mình.

Piaget cũng phân định các thời kỳ phát triển của trẻ và cho rằng ở mỗi thời kỳ khả năng nhận thức của trẻ dừng ở một mức độ nhất định với một số đặc trưng riêng.

Quan điểm của Piaget đã làm cho cách tiếp cận dạy học lấy trẻ làm trung tâm và dạy học tích cực, dù khởi nguồn từ nhiều năm trước từ tư tưởng của Rousseau và Dewey, trở thành đặc trưng nổi bật của giáo dục mầm non ở các nước Phương Tây trong nửa sau của thế kỷ 20.

Mô hình giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm dưới ảnh hưởng của Piaget đề cao việc xây dựng môi trường vật chất để khuyến khích, “mời gọi” trẻ khám phá và học hỏi, tạo cơ hội cho trẻ học qua trải nghiệm của chính mình, cho phép trẻ chủ động đề xuất và khởi xướng các hoạt động học theo hứng thú.

Đặc biệt ở Mỹ, khái niệm “dạy học tương thích với sự phát triển”, có nghĩa là dạy học vừa sức, thuận theo khả năng ở từng thời kỳ phát triển của trẻ, trở nên phổ biến như là một trong những ảnh hưởng quan trọng đến từ học thuyết của Piaget.

Giáo dục mầm non ở các nước phương Tây, dưới quan niệm của Piaget, đã rất chú trọng tới cá nhân hóa trong dạy học: mỗi đứa trẻ bên cạnh các đặc điểm chung của lứa tuổi, có nhịp độ phát triển, hứng thú, khả năng riêng và dạy học cần xử lý các điểm riêng biệt này. Vai trò của giáo viên mang tính chất hỗ trợ, khích lệ, chia sẻ, đồng hành hơn là dẫn dắt và lái quá trình học của trẻ.

Thuyết lịch sử – xã hội của Vygotsky bắt đầu được biết đến ở Phương Tây từ những năm 1980 và ngày càng được thừa nhận rộng rãi. Học thuyết này đã thay đổi, bổ sung khía cạnh xã hội vào cách nhìn về trẻ em của Piaget.

Piaget và Vygotsky đều coi trẻ em là một chủ thể tích cực của quá trình nhận thức. Vygotsky cho rằng, trẻ học qua tương tác với môi trường vật chất xung quanh chưa đủ.

Tương tác xã hội là điều kiện thiết yếu để học hỏi, để phát triển: trẻ học những tri thức, kinh nghiệm được lưu giữ qua giao tiếp với bạn bè và người lớn xung quanh. Dạy học không chỉ cần tính tới đặc điểm phát triển của trẻ mà còn tính tới đặc điểm của bối cảnh văn hóa-xã hội xung quanh trẻ.

Quan điểm dạy học hướng tới vùng phát triển gần nhất của Vygotsky được vận dụng phổ biến trên thế giới và làm thay đổi cách nhìn nhận về vai trò của giáo viên: giáo viên thể hiện vai trò tích cực hơn trong việc dẫn dắt trẻ học hỏi thay vì mối quan hệ nhẹ nhàng, ấm áp và mang tính chất hỗ trợ nhiều hơn là dẫn dắt trước đây.

Ở các nước Đông u, giáo dục mầm non vốn được xây dựng trên quan điểm của Vygotsky những cách hiểu và thực thi tư tưởng Vygotsky có sự khác biệt: chương trình và phương pháp giảng dạy khá cứng nhắc trong khi kỷ luật và khuôn khổ được đề cao.

Từ những năm 1990, sau những thay đổi trong bối cảnh kinh tế-xã hội, các nước này đã tiến hành cải cách theo hướng giảm bớt sự gò bó trong phương pháp giảng dạy.

Chú trọng tới phát triển tính độc lập, lòng tự trọng, sự tự tin và thái độ vui vẻ, cho phép trẻ tự do nhiều hơn và được hoạt động theo sở thích, không quá theo khuôn mẫu và bớt kỷ luật khắt khe.

Ở các nước Châu Á, đang nỗ lực cải cách giáo dục mầm non đi theo xu hướng lấy trẻ làm trung tâm, tạo cơ hội cho trẻ thể hiện vai trò chủ động và tích cực trong học tập thay vì tăng cường vai trò của giáo viên như ở Phương Tây.

Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được xem là tiến bộ hơn so với cách dạy học truyền thụ lấy người lớn làm trung tâm.

Tuy vậy, con đường chuyển đổi gặp không ít khó khăn do các giá trị văn hóa truyền thống ở Châu Á đề cao việc học sinh cần nghe lời người thầy, trẻ con cần nghe lời người lớn và tương đối khó chấp nhận tư duy phản biện, làm khác với khuôn mẫu.

Các xu hướng trên đều thể hiện sự giao thoa, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các nền giáo dục mầm non trên thế giới và những cách tiếp cận mới được du nhập vào mỗi quốc gia đều là sự bù đắp vào những thiếu hụt, điểm yếu mà thực tế giáo dục mầm non tại quốc gia đó đang gặp phải.

Hiện nay trên thế giới tồn tại 2 xu hướng trong GDMN: lấy giáo viên làm trung tâm và lấy trẻ làm trung tâm. Xu hướng giáo viên làm trung tâm là giáo viên quyết định học cái gì và học như thế nào và thực hiện theo qui trình chặt chẽ.

Ngược lại, mô hình lấy trẻ làm trung tâm khuyến khích trẻ được lựa chọn, được tham gia lập kế hoạch học cái gì và học như thế nào, kế hoạch xuất phát từ hứng thú và nhu cầu của trẻ, linh hoạt và mở với cách tiếp cận tích hợp. Bầu không khí lớp học nhẹ nhàng, chú trọng môi trường cho trẻ hoạt động và tương tác nhóm. Dạy học ở mô hình lấy trẻ làm trung tâm thường được tiến hành theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân.

Hoạt động vui chơi luôn được xem là nền tảng cho chương trình giáo dục mầm non: các trò chơi mang tính chất tự nhiên hơn là được người lớn sắp đặt theo luật lệ gò bó. Cách tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm được cho là thích hợp với đặc điểm lứa tuổi và bản chất tích cực của trẻ.

Một điều đặc biệt cần thống nhất trong giáo dục mầm non là: giáo dục không phải chỉ là việc của nhà trường, để đạt hiệu quả tốt giáo dục trẻ nhỏ cần có sự tham gia của cả gia đình, nhà trường và cộng đồng.

Sự tham gia của gia đình và cộng đồng được hiểu là tham gia xác định từ mục tiêu, chương trình giáo dục đến các hoạt động học tập hàng ngày của trẻ.

Bên cạnh đó, các nước ngày càng chú trọng vai trò của giáo viên mầm non: trình độ chuyên môn của giáo viên được xem là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng nhà trường.

3. Các phương pháp giáo dục tiên tiến ở một số nước trên thế giới

3.1 Phương pháp giáo dục Waldorf /Steiner

Bên cạnh các xu hướng giáo dục mầm non được định hình bởi vùng, quốc gia, châu lục như trên, cũng cần kể đến một số mô hình giáo dục mầm non cổ điển và hiện đại đang được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.

Cùng với Froebel, Montessori thì Steiner là mô hình giáo dục mầm non cổ điển vẫn tiếp tục được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.

Steiner chú trọng các giá trị nhân văn và năng lực: Năng lực tự lập; Tinh thần hợp tác, hỗ trợ cùng phát triển; Tư duy độc lập, tự chủ; Trực giác nhạy bén; Năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.

Đây là một phương pháp giáo dục rất được thế giới ưa chuộng, giúp trẻ thích nghi với môi trường sống và phát triển óc sáng tạo, tưởng tượng, hòa nhập vào thiên nhiên, xây dựng một thể chất bền vững.

Học tập ở Steiner là niềm vui. Là sự khơi dậy, nhớ lại, chứ không phải nhồi nhét. Tương tự ở Montessori, giáo cụ hay chương trình chỉ có tính gợi mở. Ở Steiner, giáo viên phải là hình mẫu của chân thiện mỹ cho trẻ noi theo.

Việc đào tạo đội ngũ giáo viên là khó nhất đối với Steiner. Steiner đã có sẵn một chương trình dạy hết sức khoa học, hấp dẫn và sáng tạo.

Chính sự dịu dàng, nhỏ nhẹ, nhân cách và thái độ sống của giáo viên là chuẩn mực đạo đức và hành vi cho trẻ trong môi trường ấm áp yêu thương.

Waldorf (cũng được biết đến như giáo dục Steiner) là một phương pháp tiếp cận nhân văn, dựa trên triết lý giáo dục của nhà triết học người Áo Rudolf Steiner.

Học tập là liên ngành, tích hợp các yếu tố thực tế, nghệ thuật , và khái niệm, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tưởng tượng, phát triển tư duy.

3.2. Phương pháp Giáo dục Montessori

Đây là phương pháp đã có lịch sử hơn 100 năm trên thế giới, nhưng mới du nhập vào Việt Nam thời gian gần đây, và nhận được sự quan tâm chú ý.

Khác với phương pháp giáo dục truyền thống, phương pháp giáo dục Montessori đặc biệt nhấn mạnh vai trò của tính chủ động, tự lập và khơi gợi tiềm năng, và định hình nhân cách trẻ.

Bản chất của phương pháp Montessori là hoạt động tự do của trẻ trong môi trường đã được chuẩn bị với sự hướng dẫn trực tiếp rất hạn chế của giáo viên. Ưu tiên những điều kiện tốt nhất cho trẻ.

Các hoạt động giáo dục được thiết kế xuất phát từ nhu cầu, hứng thú, khả năng, trình độ và điều kiện cụ thể của từng trẻ. Nếu chỉ hiểu phương pháp Montessori là tự do, quy tắc, giáo cụ học tập thì chưa hoàn toàn đầy đủ.

Phương pháp Montessori là một hình thái chuyển tải cái truyền thống văn hóa phương Tây, cái truyền thống ăn nói nhỏ nhẹ, tôn trọng bản thân và người khác, luôn khám phá và ham hiểu biết, cũng như là luôn muốn giúp đỡ và cực kỳ tôn trọng cái tôi của người khác và của chính mình, từ đó tài năng tự nảy mầm.

Montessori xem mục tiêu giáo dục mầm non không chỉ là đạt được những thành công học thuật trước mắt mà là trao cho trẻ những năng lực lâu dài và toàn diện, có ích cho trẻ trong suốt cuộc đời.

Với Montessori, trẻ em là các chủ thể tích cực, có khả năng vượt xa những gì người lớn thường nghĩ. Trẻ không cần sự can thiệp của người lớn, chỉ cần cho trẻ một môi trường vật chất thích hợp để trẻ tự khám phá ra tri thức: trẻ học hỏi thông qua thao tác với môi trường hơn là sự chỉ dẫn của người lớn.

Vì vậy, môi trường được xem là người thầy giáo thứ 2 trong lớp học và bao gồm một bộ sưu tập các bộ học cụ nhằm phát triển các mặt: tri giác, ngôn ngữ, toán, sinh vật, địa lý và kỹ năng tự phục vụ.

Trẻ tự lựa chọn hoạt động với các bộ học cụ và hoạt động của trẻ không bị gián đoạn, không bị giới hạn về mặt thời gian. Trật tự, tự do lựa chọn, độc lập và kỷ luật là các đặc điểm nổi bật của lớp học Montessori.

Trong lớp học Montessori, vai trò của giáo viên Montessori là tổ chức và chuẩn bị môi trường, khích lệ mối liên kết giữa trẻ và môi trường, quan sát trẻ trong quá trình hoạt động và ghi chép, hướng dẫn trẻ cách sử dụng đồ dùng.

3.3. Phương pháp giáo dục Highscope

Phương pháp giáo dục mầm non hiện đại được ưa chuộng là Highscope (xuất phát từ Mỹ). Bắt đầu được thử nghiệm từ những năm 1960 và được xây dựng từ các ý tưởng của Piaget và Dewey.

Highscope xem trẻ là những chủ thể tích cực của quá trình học và trẻ học hiệu quả nhất khi trẻ được tự lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch.

Do vậy, phương pháp Highscope khuyến khích trẻ tự lập kế hoạch (định làm gì, với ai, với cái gì..?), thực hiện kế hoạch đã định và đánh giá kết quả mỗi ngày.

3.4. Phương pháp giáo dục Reggio Emilia

Cũng bắt đầu hình thành từ những năm 1960 tại Ý. Các nguyên tắc chính của Reggio Emilia được xây dựng dựa trên sự kết hợp tư tưởng Piaget, Vygotsky and Bruner.

Mô hình Reggio Emilia có một số điểm nổi bật như sau: người lớn tin tưởng vào khả năng to lớn của trẻ, tôn trọng hứng thú của trẻ; cộng đồng và gia đình tham gia tích cực vào các hoạt động của trường mầm non; môi trường lớp học được chú trọng và được xem là người thầy giáo thứ 3 của trẻ (người thầy giáo thứ 2 chính là bạn bè trẻ).

Các dự án dài hơi với từng nhóm trẻ là xương sống của chương trình giáo dục, tạo cơ hội cho trẻ khám phá, tích cực suy nghĩ, giải quyết các vấn đề của thực tế cuộc sống, phát triển khả năng suy luận và dự đoán.

Khi giáo viên làm việc với các nhóm trẻ đang khám phá theo dự án, các trẻ khác trong lớp hoạt động tích cực với các góc chơi như những lớp học mầm non bình thường khác.

Mô hình Reggio Emilia khuyến khích trẻ dùng nhiều cách thức, phương tiện khác nhau để thể hiện tình cảm và cảm xúc của mình (vẽ, nặn, múa, hát, viết, chơi đóng vai…). Trẻ ý thức trách nhiệm, bình an, trải nghiệm, hạnh phúc.

3.5. Phương pháp giáo dục của Glenn Doman

GS Glenn Doman Nghiên cứu trẻ nhỏ và ông đó phát hiện ra những điều mới mẻ về năng lực kì diệu của não bộ trẻ sơ sinh đến 6 tuổi đặc biệt đến 3 tuổi. Sách dạy trẻ biết đọc sớm “How to teach your baby to read”.

Glenn Doman đã công nghệ việc dạy đọc cho trẻ nhỏ với bộ đồ dùng dạy học được ứng dụng trên 80 quốc gia. Phương pháp Giáo dục sớm Glenn Doman hướng vào việc kích hoạt tiềm năng não bộ cho trẻ từ 0 – 6 tuổi.

Phương pháp này hỗ trợ việc cung cấp học liệu flashcard, dot card về dạy trẻ biết đọc sớm, dạy trẻ học toán, dạy trẻ về thế giới xung quanh, dạy trẻ nhỏ luyện tập các vận động thô và vận động tinh.

3.6. Phương án 0 tuổi

Phùng Đức Toàn với là đại diện tiêu biểu của giáo dục sớm ở Trung Quốc.

Phát triển tài năng sớm cho trẻ MN (dạy chữ, đọc, ngôn ngữ, năng khiếu khác,…)

Các tác giả cho rằng: dạy học cho trẻ sớm nhất có thể, nhất là bắt đầu từ sơ sinh.

3.7. Phương pháp giáo dục của Shichida Makoto (Nhật Bản)

Phương pháp này đề cập phát triển trí lực và tài năng của trẻ nhỏ. Ông nhấn mạnh mọi em bé đều là thiên tài và gợi ý các phương pháp giáo dục trẻ ở các độ tuổi.

Ông nghiên cứu về não trái và não phải của trẻ; chú trọng giáo dục tâm hồn và phát triển giác quan (ghi nhớ bằng hình ảnh) và phát triển vận động cho trẻ;

Cha mẹ áp dụng yêu thương, khen ngợi, tôn trọng trẻ, tương tác nhiều với trẻ; Tạo môi trường phát triển ngôn ngữ phong phú cho trẻ; Cha mẹ học cùng trẻ.

3.8. Thuyết trí thông minh đa diện của Howard Gardner (Mỹ)

Thuyết này hướng vào việc nghiên cứu và phát triển 8 năng lực thông minh cho trẻ. Sau khi dành thời gian làm việc với hai nhóm khác nhau: Trẻ em bình thường và có năng khiếu, người lớn nhưng có vấn đề về trí não.

Gardner đã bắt đầu phát triển một lý thuyết để tổng hợp lý thuyết và khảo sát của mình. Năm 1983, ông nêu ra lý thuyết về “Trí Thông minh Đa dạng”.

Theo lý thuyết này, người ta có rất nhiều cách khác nhau để học tập. Không giống như cách truyền thống, trí thông minh là duy nhất và chỉ tập trung vào một, Gardner tin rằng mọi người có nhiều cách khác nhau để suy nghĩ và học tập.

Ông đã xác định và mô tả được 8 loại khác nhau của trí thông minh: Thông minh ngôn ngữ; Thông minh logic – toán học; Thông minh thể chất; Thông minh về không gian; Thông minh về giao tiếp xã hội; Thông minh nội tâm; Thông minh âm nhạc; Thông minh về tự nhiên.

Lý thuyết của Howard có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực giáo dục. Học thuyết này không chỉ giúp chúng ta tự tin hơn vào khả năng của bản thân mà còn làm thay đổi sâu sắc phương pháp học tập của trẻ em trên toàn thế giới.

Trường học đã tạo cơ hội cho mọi đứa trẻ khám phá năng lực của mình qua việc học tập với âm nhạc, vận động, được nói lên suy nghĩ của mình, được tương tác với bạn bè và được học tập trong môi trường thiên nhiên.

Khi được tiếp xúc trực tiếp trẻ sẽ bộc lộ những điểm mạnh điểm yếu của mình và tự rút ra được cách thức học tập nào phù hợp nhất với bản thân.

4. Đề xuất giải pháp

* Đối với các các cấp quản lý tại các cơ sở đào tạo và các cơ sở giáo dục mầm non:

Tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên (GV) và giáo viên mầm non được tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn về việc vận dụng hiệu quả các phương pháp giaos dục tiên tiến trên thế giới.

Khi vận dụng các phương pháp này cần linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Khuyến khích GV, GVMN tự làm giáo cụ và tổ chức các hoạt động sáng tạo cho trẻ.

Trang bị giáo cụ và các phương tiện nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động của trẻ. Tổ chức tham quan mô hình vận dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến hiệu quả.

Tổ chức tổng kết kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ chăm sóc-giáo dục trẻ theo triết lí của mỗi phương pháp giáo dục tiên tiến.

Khuyến khích các nhà nghiên cứu, GV, GVMN chủ động chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp trong quá trình vận dụng phương pháp giáo dục tiên tiến.

* Đối với giảng viên, giáo viên mầm non:

Chủ động vận dụng tư tưởng, triết lí giáo dục của phương pháp giáo dục tiên tiến vào việc thực hiện chương trình đào tạo và chương trình GDMN.

Lồng ghép các nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động theo tư tưởng của phương pháp giáo dục tiên tiến tùy theo điều kiện thực tiễn. Yêu thương, tôn trọng sự khác biệt của mỗi trẻ và thúc đẩy tiềm năng sẵn có của mỗi trẻ.

Quan sát trẻ cẩn thận và nhận định mức độ phát triển của trẻ để tự làm giáo cụ, thiết kế môi trường hoạt động. Hướng dẫn trẻ sử dụng giáo cụ và môi trường hiệu quả nhất.

5. Kết luận

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thực hiện đổi mới trong nền giáo dục Việt Nam các cơ sở đào tạo GVMN cần có những thay đổi lớn về chương trình đào tạo.

Cơ sở đào tạo phải đón đầu trong việc nghiên cứu các phương pháp giáo dục tiên tiến và vận dụng sáng tạo vào quá trình đào tạo. Quá trình đào tạo cần gắn với nhu cầu thực tiễn xã hội ở trong nước và quốc tế.

Vấn đề đặt ra ở đây là cần có các chiến lược định hướng cho việc thúc đẩy đổi mới phương thức đào tạo để tạo ra một thế hệ GVMN đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho xã hội.

Mỗi người GVMN trong tương lai cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với sự phát triển của trẻ thơ. Việc đồng hành cùng trẻ phải trong suốt cuộc đời và những năm đầu đời của trẻ là rất quan trọng.

Tuổi ấu thơ của trẻ chỉ có một lần và người lớn cần quan tâm để tuổi ấu thơ đó được tỏa sáng. Xã hội cùng chung tay góp sức tạo cơ hội phát triển toàn diện cho trẻ.

Giúp trẻ trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước luôn tự tin, năng động, sáng tạo với nhiều niềm vui, hạnh phúc và thành công trong cuộc sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Chương trình giáo dục mầm non của Singapore (2007). Bản dịch, Trường CĐSPTW. [2]. Carol Garhart Mooney(2016), Các lý thuyết về trẻ em của Dewey, Montessori, Erikson, Piaget&Vygottsky. Nguyễn Bảo Trung (dịch). Nhà sách Thái Hà. [3]. Merete Sorensen, Phát triển giáo dục xuyên lục địa, Hợp tác Đan mạch – Việt Nam thúc đẩy tính sáng tạo và quá trình giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non. Trường Đại học Zealand, Soro 2015, Đan Mạch. [4]. Machado (2002), Những kinh nghiệm của trẻ mầm non trong nghệ thuật ngôn ngữ – Hiệp hội GDMN tại Mỹ. [5]. Maria Montessori (2014), Phương pháp Giáo dục Montessory, NXB Đại học Sư phạm [6]. Elijabet.J & John.N (2009) , Emergent curriculum, Washington.

[7]. Viện IRED (2014), Phương pháp Montessori ngày nay, Công ty TNHH sách Dân Trí