Tiểu cầu giảm là bệnh gì năm 2024

Giảm tiểu cầu miễn dịch (ITP) là tình trạng rối loạn chảy máu thường không dẫn đến thiếu máu hoặc giảm bạch cầu. Thông thường, nó là mạn tính ở người lớn, nhưng thường là cấp tính và tự hạn chế ở trẻ em. Không có lách to nếu không có các bệnh nền khác. Chẩn đoán thường dựa trên lâm sàng, dựa trên việc loại trừ các nguyên nhân khác gây giảm tiểu cầu (ví dụ, nhiễm HIV, nhiễm viêm gan C). Điều trị bao gồm corticosteroid, cắt lách, thuốc ức chế miễn dịch, thuốc chủ vận thụ thể thrombopoietin hoặc fostamatinib ức chế tyrosine kinase lá lách. Đối với chảy máu đe dọa tính mạng, truyền khối tiểu cầu, corticosteroid đường tĩnh mạch, truyền globulin miễn dịch, globulin miễn dịch có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp.

Giảm tiểu cầu miễn dịch thường là kết quả từ sự phát triển của một tự kháng thể chống lại một kháng nguyên cấu trúc tiểu cầu. Các kháng thể chống kết tập tiểu cầu này dẫn đến tăng phá hủy tiểu cầu, thường là ở lách và ức chế quá trình sản sinh và giải phóng tiểu cầu từ tế bào nhân khổng lồ. Trong ITP trẻ em, tự kháng thể có thể được kích hoạt do các kháng nguyên virus. Tác nhân gây bệnh ở người lớn chưa được biết rõ, mặc dù ở một số quốc gia (ví dụ: Nhật Bản, Ý), ITP có liên quan đến nhiễm Helicobacter pylori và việc điều trị nhiễm trùng đã được theo sau bằng cách thuyên giảm ITP ( ). Nhiễm COVID-19 hiếm khi gây ra ITP, nhưng tiêm vắc xin phòng COVID-19 có thể làm trầm trọng thêm tình trạng giảm tiểu cầu ở 2 đến 12% số bệnh nhân mắc ITP. và làm tăng nguy cơ bệnh nặng của mẹ.

  • 1. Kuter DJ: The treatment of immune thrombocytopenia (ITP)—focus on thrombopoietin receptor agonists. Annals of Blood Volume 6 March 2021

Triệu chứng và Dấu hiệu của ITP

Mặc dù thường không có triệu chứng và chỉ được xác định bởi số lượng tiểu cầu thấp trên một xét nghiệm thường quy, nhưng khi có các triệu chứng và dấu hiệu của giảm tiểu cầu miễn dịch là

  • Xuất huyết dưới da
  • Chấm xuất huyết và/hoặc vết bầm máu
  • Chảy máu niêm mạc
  • Tăng lượng máu kinh
  • Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi với tiểu cầu và tiêu bản máu ngoại vi
  • Hiếm khi phải chọc hút dịch tủy xương
  • Loại trừ các rối loạn giảm tiểu cầu

ITP được nghi ngờ ở những bệnh nhân chỉ có giảm tiểu cầu đơn thuần (ví dụ, CBC và tiêu bản máu ngoại vi bình thường). Vì các biểu hiện của giảm tiểu cầu miễn dịch (ITP) không đặc hiệu, (ví dụ thuốc, rượu, rối loạn tăng sinh lympho, các bệnh tự miễn khác, nhiễm virus) cần được loại trừ bằng cách đánh giá lâm sàng và xét nghiệm phù hợp. Thông thường, bệnh nhân cần được xét nghiệm đông máu, gan, và virus viêm gan C và HIV. Cần đánh giá xét nghiệm tiêu bản máu ngoại vi để đánh giá kích thước và độ hạt của tiểu cầu và để có thể loại trừ các nguyên nhân chính khác gây giảm tiểu cầu như ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối (TTP) Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối (TTP) là tình trạng rối loạn cấp tính, trầm trọng đặc trưng bởi giảm tiểu cầu và thiếu máu tán máu. Các biểu hiện khác có thể bao gồm sự thay đổi về mức... đọc thêm

Tiểu cầu giảm là bệnh gì năm 2024
(TTP), giảm tiểu cầu di truyền và bệnh bạch cầu Tổng quan về Bệnh bạch cầu Bệnh bạch cầu là một tình trạng ác tính liên quan đến việc sản xuất quá nhiều bạch cầu chưa trưởng thành hoặc bất thường, cuối cùng sẽ ngăn chặn việc sản sinh ra các tế bào máu bình thường và... đọc thêm . Xét nghiệm tìm kháng thể kháng tiểu cầu có thể hỗ trợ chẩn đoán trong một số trường hợp . Tỷ lệ tiểu cầu chưa trưởng thành có thể tăng trong ITP khi số lượng tiểu cầu < 50.000/mcL (< 50 × 109/L).

Xét nghiệm tủy xương không bắt buộc nhưng được thực hiện nếu xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm tiêu bản máu cho thấy có bất thường ngoài giảm tiểu cầu, khi các đặc điểm lâm sàng không điển hình hoặc nếu bệnh nhân không đáp ứng với các điều trị tiêu chuẩn (ví dụ: corticosteroid). Ở bệnh nhân với ITP, xét nghiệm tủy xương cho thấy số lượng mẫu tiểu cầu bình thường hoặc tăng lên trong một mẫu tủy xương bình thường.

  • 1. : A modern reassessment of glycoprotein-specific direct platelet autoantibody testing in immune thrombocytopenia. Blood Adv 4(1):9–18, 2020. doi: 10.1182/bloodadvances.2019000868

Trẻ thường tự phục hồi, trong vài tuần tới vài tháng thậm chí từ giảm tiểu cầu nặng.

  • 1. Sailer T, Lechner K, Panzer S, et al: The course of severe autoimmune thrombocytopenia in patients not undergoing splenectomy Haematologica 91:1041–1045, 2006.
  • Corticosteroid đường uống
  • Globulin miễn dịch (IVIG)
  • Globulin miễn dịch anti-D đường truyền
  • Đôi khi cắt lách
  • Chất chủ vận thụ thể của thrombopoietin (TPO-RA)
  • Rituximab
  • Fostamatinib
  • Các chất ức chế miễn dịch khác
  • Đối với xuất huyết trầm trọng, IVIG, globulin miễn dịch chống D, corticosteroid tĩnh mạch, và/hoặc truyền khối tiểu cầu

Người lớn mắc ITP mới được chẩn đoán bị chảy máu và số lượng tiểu cầu < 30.000/mcL (< 30 × 109/L) thường được dùng corticosteroid đường uống (ví dụ, prednisone 1 mg/kg uống một lần một ngày). Một phác đồ điều trị khác bằng corticosteroid, có thể hiệu quả tương đương là dexamethasone 40 mg đường uống x 1 lần/ngày, trong 4 ngày. Ở hầu hết bệnh nhân, số lượng tiểu cầu tăng lên trong vòng 2 đến 5 ngày. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, đáp ứng có thể mất từ 2 đến 4 tuần. Khi corticosteroid giảm dần sau khi đáp ứng, hầu hết bệnh nhân đều tái phát. Điều trị corticosteroid nhắc lại có thể có hiệu quả nhưng làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. Corticosteroid thường không được tiếp tục sau vài tháng đầu; có thể thử các loại thuốc khác để tránh cắt lách. Nếu điều trị nội khoa có hiệu quả, hầu hết các hướng dẫn đều khuyên bạn nên tiếp tục nó trong ít nhất một năm trước khi xem xét việc cắt lách.

Cắt lách có thể đạt được lui bệnh hoàn toàn ở khoảng hai phần ba số bệnh nhân tái phát sau khi điều trị corticosteroid ban đầu, Cắt lách thường được dành riêng cho những bệnh nhân bị giảm tiểu cầu nặng (ví dụ, < 15.000/mcL [< 15 × 109/L]) mà nguy cơ chảy máu không thể kiểm soát được bằng liệu pháp y khoa hoặc những người vẫn mắc bệnh sau 12 tháng. Nếu giảm tiểu cầu có thể được kiểm soát bằng phương pháp điều trị nội khoa bậc hai, cắt lách thường không cần thiết ( ). Cắt lách làm tăng nguy cơ huyết khối và nhiễm trùng (đặc biệt với các vi khuẩn có vỏ như phế cầu); bệnh nhân cần tiêm phòng Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae và Neisseria meningitidis (tốt nhất > 2 tuần trước khi làm phẫu thuật).

Điều trị bậc hai dành cho bệnh nhân giảm tiểu cầu miễn dịch

  • Đang trì hoãn cắt lách để hi vọng lui bệnh
  • Không đủ điều kiện hoặc từ chối cắt lách
  • Đã cắt lách không hiệu quả

Những bệnh nhân này thường có số lượng tiểu cầu < 10.000 đến 20.000/mcL (< 10 to 20 × 109/L), (và do đó có nguy cơ chảy máu). Điều trị bước hai bao gồm các chất chủ vận thụ thể thrombopoietin (TPO-RAs), rituximab, fostamatinib hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác.

Các thuốc chủ vận thụ thể thrombopoietin như romiplostim 1 đến 10 mg/kg tiêm dưới da một lần/tuần, eltrombopag 25 đến 75 mg uống một lần/ngày và avatrombopag 20 mg uống một lần/ngày có tỷ lệ đáp ứng > 85% TPO-RAs thường cần được sử dụng liên tục để duy trì số lượng tiểu cầu \> 50.000/mcL (> 50 × 109/L), nhưng dữ liệu cho thấy rằng một phần ba số người trưởng thành sẽ thuyên giảm không cần điều trị sau 1 năm và > 50% sau đó. 2 năm.

Có thể cần dùng thêm thuốc ức chế miễn dịch tăng cường như cyclophosphamide, cyclosporine, mycophenolate và azathioprine ở bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc khác và có giảm tiểu cầu trầm trọng.

Methylprednisolone liều cao (1 g đường tĩnh mạch x 1 lần/ngày trong 3 ngày) dễ sử dụng hơn IVIG hoặc globulin miễn dịch kháng D đường tĩnh mạch nhưng có thể không hiệu quả. Bệnh nhân bị ITP và chảy máu đe dọa tính mạng cũng được truyền khối tiểu cầu. Truyền khối tiểu cầu không được sử dụng dự phòng.

Vincristine (1,4 mg/m2, liều tối đa 2 mg) cũng đã được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp nhưng có thể gây ra bệnh lý thần kinh khi sử dụng nhiều lần.

Điều trị ITP trẻ em có thường chỉ hỗ trợ bởi vì hầu hết trẻ em tự hồi phục. Ngay cả sau vài tháng hoặc nhiều năm giảm tiểu cầu, hầu hết trẻ em đều tự khỏi. Nếu có chảy máu niêm mạc, có thể dùng corticosteroid hoặc IVIG. Sử dụng corticosteroid và IVIG đang gây tranh cãi bởi vì số lượng tiểu cầu tăng lên có thể không cải thiện được hiệu quả lâm sàng. Ít khi cắt lách ở trẻ em. Tuy nhiên, nếu giảm tiểu cầu trầm trọng và có triệu chứng \> 6 tháng, sau đó nên xem xét các thuốc chủ vận thụ thể thrombopoietin (ví dụ, romiplostim, eltrombopag).

  • 1. Neunert C, Terrell DR, Arnold DM, et al: American Society of Hematology 2019 guidelines for immune thrombocytopenia. Blood Adv 3(23):3829–3866, 2019. doi: 10.1182/bloodadvances.2019000966
  • 2. Provan D, Arnold DM, Bussel JB, et al: Updated international consensus report on the investigation and management of primary immune thrombocytopenia. Blood Adv 3(22):3780–3817, 2019. doi: 10.1182/bloodadvances.2019000812
  • 3. Patel VL, Mahevas M, Lee SY và nnk: Outcomes 5 years after response to rituximab therapy in children and adults with immune thrombocytopenia. Blood 119:5989–5995, 2012. doi: 10.1182/blood-2011-11-393975
  • 4. Bussel J, Arnold DM, Grossbard E, et al: Fostamatinib for the treatment of adult persistent and chronic immune thrombocytopenia: Results of two phase 3, randomized, placebo‐controlled trials. Am J Hematol 93: 921–930, 2018. doi: 10.1002/ajh.25125
  • 5. Kuter DJ, Tarantino MD, Lawrence T: Clinical overview and practical considerations for optimizing romiplostim therapy in patients with immune thrombocytopenia. Blood Rev 49:100811, 2021. doi: 10.1016/j.blre.2021.100811
  • 6. Lozano ML, Godeau B, Grainger J, et al: Romiplostim in adults with newly diagnosed or persistent immune thrombocytopenia. Expert Rev Hematol 13(12):1319–1332, 2020. doi: 10.1080/17474086.2020.1850253
  • Trong bệnh giảm tiểu cầu miễn dịch (ITP), hệ thống miễn dịch phá hủy các tiểu cầu trong tuần hoàn và đồng thời có thể tấn công các tế bào nhân khổng lồ của tủy xương, do đó làm giảm sản sinh tiểu cầu.
  • Các nguyên nhân khác của giảm tiểu cầu đơn thuần (ví dụ, thuốc, rượu, rối loạn tăng sinh lympho, các bệnh tự miễn, nhiễm virus) cần được loại trừ.
  • Trẻ em thường tự lui bệnh; người lớn có thể tự lui bệnh trong năm đầu tiên nhưng không phổ biến (khoảng 33%) ở trẻ em sau thời gian đó.
  • Corticosteroid (và đôi khi là globulin miễn dịch đường tĩnh mạch (IVIG) hoặc globulin miễn dịch kháng D đường tĩnh mạch) là các phương pháp điều trị bước một cho giảm tiểu cầu có chảy máu nặng.
  • Sinh thiết tủy xương thường không cần thiết trừ khi có các bất thường khác liên quan đến hồng cầu hoặc bạch cầu hoặc ở những bệnh nhân được xem xét để cắt lách không đáp ứng với điều trị tiêu chuẩn bằng corticosteroid hoặc IVIG.
  • Thuốc chủ vận thụ thể thrombopoietin có hiệu quả cao trong việc duy trì số lượng tiểu cầu an toàn ở > 85% số người lớn.
  • Nhiễm COVID-19 hiếm khi gây ra ITP, nhưng tiêm vắc xin phòng COVID-19 có thể làm trầm trọng thêm tình trạng giảm tiểu cầu ở 2 đến 12% số bệnh nhân mắc ITP.

Cắt lách thường hiệu quả nhưng được dành riêng cho những bệnh nhân mà điều trị nội khoa không hiệu quả hoặc những người có bệnh vẫn tồn tại sau 12 tháng.