Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

Tình hình chính trị và kinh tế của nước Đại Việt dưới thời Lý - trần như thế nào?

A.Chính trị ổn định, kinh tế chậm phát triển

Show

B.Chính trị chưa ổn định, kinh tế còn khó khăn

C.Chính trị ổn định, kinh tế phát triển

D.Chính trị chưa ổn định nhưng kinh tế đã phát triển thịnh đạt.

Đáp án và lời giải

Đáp án:C

Lời giải:Đáp án: C

Vậy đáp án đúng là C.

Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử?

Bài tập trắc nghiệm 15 phút Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở các thế kỉ X – XV - Lịch sử 10 - Đề số 7

Làm bài

Chia sẻ

Một số câu hỏi khác cùng bài thi.

Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    If he __________ late, he would have caught his bus.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    If Mary __________ to sit in for us, we __________ to the movies yesterday.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    He __________ his exams well if he ___________ hard.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    I would have prepared everything yesterday if I ____________your message ononday.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    He failed to appreciate our difficulty. He ____________ differently if he ___________ the situation.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    He often asks me about you. If you __________ to see him tonight, he ____________delighted.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    Why did you leave so hurriedly?

    If you __________ there for another week, he __________your portrait.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    Why do you always talk in such a scornful manner?

    If I __________ in your shoes,I _________ so rude.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    if __________ you less, you ___________ much better.

  • Choose the best answer for the following sentence:

    She looked at him as if she __________ a ghost.

Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV)

Bởi

vansudia.net

-

28/07/2021

Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

https://vansudia.net/wp-content/uploads/speaker/post-16128.mp3?cb=1627428724.mp3

Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV)

1 Tình hình chính trị

Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con của Lê Hoàn huy động lực lượng trong các thái ấp của mình đánh lẫn nhau trong 8 tháng để tranh giành ngôi báu. Năm 1006, Lê Long Việt lên ngôi mới được 3 ngày, bị em là Long Đĩnh giết để cuớp ngôi. Long Đĩnh vừa tàn bạo vừa ham mê tửu, sắc, bị bệnh không ngồi được, nên khi coi chầu phải nằm, sử cũ gọi là vua Ngọa triều. Tình hình chính trị cuối triều Lê ngày càng thối nát, nhân dân oán giận. Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì vậy, các sư tăng và đại thần, đứng đầu là sư Vạn Hạnh, tôn Điện tiền chỉ huy sứ tên là Lý Công Uẩn lên làm vua, mở đầu cho Vương triều nhà Lý (l010- 1225). Tiếp theo triều Lý là Vương triều Trần (1226-1400).

Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế (Thái Tổ), đặt niên hiệu là Thuận Thiên, cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, sau đó đổi thành Thăng Long (rồng bay), chính thức gọi tên nước là Đại Việt. Từ đó, trải qua các triều vua, nhà Lý và nhà Trần ra sức xây dựng, làm hoàn thiện dần bộ máy nhà nuớc quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng các bộ luật thành văn, củng cố lực lượng quốc phòng vững mạnh, xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm thắng lợi.

– Tổ chức hành chính và bộ máy quan lại

Quan chế của nhà nước Lý – Trần có quy củ, chặt chẽ hơn các triều đại trước. Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng đầu các quan lại trong triều, đó làthái sư, thái phó, thái bảo(tam thái). Dưới đó là chứcthái úy, nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi làtể tướng. Tiếp đến là các chứctư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy(phụ trách cấm quân),nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.

Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hànhHội điển, quy định các phép tắc chính trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập, thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao được phong thực phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới được làm quan.

Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý. Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng làThái thượng hoàng. Chế độ Thái thượng hoàng thời Trần có tác dụng ngăn chặn tình trạng các đại thần chuyên quyền, cướp ngôi khi vua còn ít tuổi. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư phó, bảo) chỉ có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàmthống quốc, tá thánh, phụ quốcđể gia phong thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng quốc) đổi thànhtả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời Trần đặt thêm các chứchành khiểnnằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chứcthượng thư(đứng đầu bộ),tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu. Dưới các chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một viênthượng thư. Ban đầu mới có thượng thư hành khiển, thượng thư hữu bật (2 bộ), từ cuối thế kỷ XIV (1388-1398), đời Quang Thái mới có thêm thượng thư các bộ binh, hình… Dưới thượng thư cóthị lang, lang trunggiúp việc. Bên võ có các chức vụphiêu kỵ tướng quân, đại tướng, đô tướng, tướng quân, lúc có chiến tranh, đặt thêm chức tiếtchế tổng chỉ huy toàn quân.

Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức chặt chẽ hơn như: cáccục(Nội thư hoả cục, Chi hậu cục); cácđài(Ngự sử đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám sát ngự sử v.v.); cácviện(Khu mật viện với các chức tri mật viện sự, khu mật tham chính, thiêm tri mật viện sự, giám sự, v.v.),hàn lâm viện(với các chức hàn lâm học sĩ phụng chỉ, hàn lâm viện học sĩ..), Quốc sử viện, Thâm hình viện;giám(Quốc tử giám),v.v..

Nhìn chung, bộ máy quan lại ở trung ương thời Lý – Trần cấu trúc theo ba cấp: trung ương, cấp hành chính trung gian, cấp hành chính cơ sở, nhưng ngày càng có hệ thống, đầy đủ hơn từ thời Lý đến thời Trần. Ở các địa phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10đạothời Lê làm 24lộ, đặt thêm một số đạo vàtrại, châu. Một số châu, trại đổi làmphủ, các vùng xa gọi làchâu(như châu Vĩnh An, Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.). Dưới lộ cóhuyện, hương.

Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thânvương trông coi gọi làkinh sư lưu thủ. Ở các châu gần, đặt các chứctri châu, thông phán, tổng quảnđể trông coi. Ở các châu biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chứctri phủ, tri phủ sự, phán phủ sựphụ trách.

Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ (từ năm 1242): Lộ Thiên Trường (gồm Xuân Trường, Mỹ Lộc thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay), Long Hưng (Tiên Hưng, Thái Bình) Quốc Oai (Hà Tây), Bắc Giang (nay là Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh), Trường Yên (Hà Nam), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng (Hải Dương), Khoái (Hưng Yên), Thanh Hoá, Hoàng Giang (Hà Nam), Lạng Giang (Lạng Sơn). Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ làan phủ sử, ở các phủ làtri phủ, trấn phủrồi đến các viên chứcthông phán, thiên phán, tào, vận lệnh uý v.v..Các châu dochuyển vận sứ, thông phánquản lý, ở huyện dolệnh uý, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã quan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các viên xã quan được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm trở lên làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã (xã nhỏ). Dưới đại, tiểu tư xã có các chứcxã trưởng, xã giámgiúp việc sổ sách.

Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi làtông chính phủ. Năm 1230, nhà Trần cho ban hành bộ sách Thông chế gồm 20 quyển, lại cho soạn sáchQuốc triều thường lễ, ghi chép công việc của triều đình. Việc cai quản đất nước dưới thời Trần theo quy chế rõ ràng, có bước tiến bộ, phát triển hơn thời Lý. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng.

Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ. Bởi vậy nhà Trần nắm khá chắc toàn bộ công việc chủ chốt trong triều, quyền lực tập trung trong tay nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được củng cố thêm một bước.

Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý – Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần. Cũng có thể nói nhà nước thời Lý – Trần lànhà nước quân chủ quý tộc.

–Tổ chức quân đội và quốc phòng

Nhà nước Đại Việt thời Lý – Trần rất chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh. Tổ chức quân đội có quy củ, chặt chẽ. Thời Lý, lực lượng quân đội cócấm quân(bảo vệ Hoàng cung và nhà vua) gồm 10 vệ gọi làđiện tiền cấm quân. Về sau, từ năm 1059, Lý Thánh Tông chia thành 16 vệ, với tổng số quân chừng 3200 người, do một viên thiếu uý đứng đầu. Ngoài cấm quân còn có quân ở các lộ, phủ.

Tất cả nam đến tuổi 18 (gọi là hoàng nam) đều phải đăng lính. Bộ phận quân thường trực được chia thành 5 phiên, luân phiên nhau cày cấy nhằm vừa bảo đảm sản xuất nông nghiệp, vừa bảo đảm số quân cần thiết. Đây là chính sách “ngụ binh ư nông” có ý nghĩa tích cực trong công cuộc dựng nước và giữ nước dưới thời Lý – Trần. Chỉ huy quân đội thời Lý cóđô thống, nguyên soái, tổng quản, thượng tướng, đại tướng, đô tướng.

Thời Trần, quân đội cũng chia làm hai bộ phận như thời Lý là cấm quân và quân các lộ. Cấm quân được tuyển chọn kỹ, gồm những thanh niên khoẻ mạnh, thông thạo võ nghệ. Cấm quân chia thành đội ngũ, mỗi quân gồm 30 đô, mỗi đô 80 người, tổng số có 10 quân.

Trong thời chiến nhà nước cho phép các vương hầu được mộ dân làm gia thuộc, gia đồng, lập thành đội quân riêng và trực tiếp chỉ huy, tạo nên một bộ phận “quân đội vương hầu’, khác với thời Lý.

Đội quân này đã góp phần tích cực và có hiệu quả trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.

Ngoài lục quân, thuỷ quân thời Trần cũng như thời Lý là một lực lượng mạnh gồm nhiều thuyền chiến, được luyện tập binh pháp, giỏi bơi lội, thiện chiến.

–Luật pháp

Về mặt pháp chế, thời Lý – Trần có bước tiến bộ hơn thời Khúc, Ngô – Đinh – Lê ở chỗ nhà nước tăng cường hoạt động lập pháp, ban hành các luật lệ đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam thời trung đại.

Năm 1040, Lý Thái Tông xuống chiếu từ nay về sau phàm nhân dân trong nước, ai có việc kiện tụng thì giao cho thái tử xét xử trước khi trình lên vua quyết định. Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành bộ luật Hình thư, đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước quân chủ Việt Nam. Bộ Hình thư ra đời thay thế cho các quy chế, luật lệ, chiếu chỉ trước đó. Nhu cầu và tác dụng của Hình thư được phản ánh trong nhận xét của nhà sử học Ngô Sĩ Liên như sau: “Trước kia, trong nước, việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai sửa định luật lệnh, châm chước cho, thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản làm sách hình luật của một triều đại để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện”.

Các triều vua Lý về sau tiếp tục ban hành những luật lệ bổ sung về hành chính, hình sự, dân sự.

Pháp luật thời Lý nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà nước trung ương tập quyền, của giai cấp thống trị, trước hết là của nhà vua. Củng cố chế độ đẳng cấp, hạn chế sự bành trướng thế lực của bọn quan liêu quý tộc, bảo vệ nguồn bóc lột của nhà nước. Đối với tội thập ác, đặc biệt tội chống đối lại nhà Lý thì bị hình phạt rất nặng, tàn khốc như bị xẻo thịt, róc xương ở chợ, bị tùng xẻo, chặt chân, tay. Pháp chế thời Lý cũng có những mặt tích cực như coi trọng việc bảo vệ và phát triển sức sản xuất của dân tộc, quan tâm đến đời sống của con người, thể hiện tinh thần nhân ái trong pháp trị, tiêu biểu nhất là dưới triều đại Lý Thánh Tông (l054-l072) “Thánh Tông thành thực thương dân, khoan rộng việc hình. Cứ theo đạo ấy mà làm, thói dở đâu còn che lấp, dân tình đâu còn không thông, thiên hạ đâu còn lo chẳng thịnh trị”.

Đến thời Trần, pháp luật từng bước được đổi mới. Hoạt động pháp chế được tăng cường. Gốc nhân ái của pháp luật vẫn được giữ gìn, nhưng tinh thần pháp trị ngày càng được đề cao.

Năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý cai quản đất nước. Năm 1230, Trần Thái Tôn đã cho soạnQuốc triều hình luật. Năm 1341, Trần Dụ Tông sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạnHình thư. Tên Hình luật và Hình thư đã nói rõ tính chất của các bộ luật đó. Việc xừ án, thi hành án cũng được chú ý.

Luật của nhà Trần về nội dung cũng giống luật của nhà Lý, bảo vệ địa vị và quyền lợi kinh tế của vua quan, quý tộc, củng cố quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, đặc biệt của nhà vua. Đối với tội thập ác, đặc biệt tội phản nghịch, phản quốc bị xử rất nặng. “Hình phạt nhà Trần rất tàn khốc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người (sự chủ) được thoả ý (xử trị) hoặc cho voi giầy chết”.

Có thể nói, nếu nhà Lý mở đầu cho thời kỳ pháp luật thành văn và đưa pháp luật chính thức đi vào cuộc sống, thì nhà Trần đã kế thừa di sản tích cực đó, nâng cao hơn một bước để thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đất nước, có tác dụng góp phần bảo vệ thành công nền độc lập, thống nhất quốc gia. Nét đặc sắc của pháp luật thời Lý – Trần là tinh thần pháp chế ngày càng được đề cao nhưng cái gốc của đạo trị nước là nhân và đức vẫn được chú trọng trong thực thi pháp luật, mặc dù tính giai cấp và đẳng cấp trong pháp luật vẫn rất đậm nét.

–Hoạt động đối ngoại

Nhà nước Lý – Trần tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao tích cực thời Đinh – Lê là chủ trương giao hảo với các nước lân bang, nhưng kiên quyết chống trả các thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

Nhà Lý thường cử các đoàn sứ giả sang Tống nộp cống lễ Vua Tống biết chưa thể xâm lược được Đại Việt, nên đã phong vương và công nhận các vua triều Lý. Từ những năm 70 của thế kỷ XI, để cứu vãn tình thế nguy ngập trong nội bộ triều chính, nhà Tống chủ động phá mối quan hệ hòa hảo giữa hai nước, gây cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. Đối với Chămpa và Chân Lạp, nhà Lý theo đuổi chính sách giữ yên biên giới của một vương triều mạnh. Nhưng Chămpa về hùa với Chân Lạp, nhiều lần đem quân xâm phạm Đại Việt, như vào các năm 1020, 1044, 1065. Nhà Lý đã điều quân đánh trả. Có những lần đánh vào tận kinh đô Phật Thệ như các năm 1044, 1069.

Nhà Trần tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ, nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ, mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của đất nước.

2. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời Lý – Trần

–Cuộc kháng chiến chống Tống của quân dân Đại Việt ở thế kỷ XI

Sau lần thất bại vào năm 981, triều đình nhà Tống chưa từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta nên năm 1005, khi Lê Hoàn mất, các hoàng tử đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi vua, nhà Tống đã muốn nhân cơ hội đó đem quân xâm lược, nhưng bấy giờ nhà Tống đang gặp nhiều khó khăn về nội trị và ngoại giao, không có điều kiện thực hiện âm mưu đó đối với Đại Việt.

Năm 1068, Tống Thần Tông lên cầm quyền, Vương An Thạch được cử làm tể tướng. Để mong vượt qua những khó khăn chồng chất về đối nội (ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn), đối ngoại (hai nước Liêu-Hạ thường xuyên uy hiếp), Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã quyết định xâm lược Đại Việt. Tống Thần Tông trắng trợn nói rõ mục đích xâm lược của chúng đối với nước ta: “Sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận huyện mà cai trị và hãy sung công của cải”, và nếu thắng được thì “thế Tống sẽ tăng và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.

Xuất phát từ mục đích đó, triều đình nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt (tăng cường lực lượng quân sự ở biên giới, tổ chức các căn cứ xuất phát cho cuộc xâm lược gần biên giới với Đại Việt, chọn những viên tướng hiếu chiến, am hiểu tình hình Đại Việt làm tướng chỉ huy quân đội, cắt đứt quan hệ bang giao với Đại Việt để giữ bí mật việc chuẩn bị xâm lược của mình, v.v.). Nhà Tống còn xúi giục Chămpa đánh phá vùng biên giới phía Nam Đại Việt.

Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, triều đình nhà Lý quyết tâm chủ động đối phó bằng biện pháp tích cực nhất “ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước hết chặn thế mạnh của giặc” (Tiên phát chế nhân). Đó là biện pháp phòng ngự tích cực nhất do Lý Thường Kiệt đề xuất và được triều đình nhà Lý tán thành. Với biện pháp táo bạo và sáng tạo đó, nhà Lý sẽ giành được thế chủ động tấn công tiêu diệt các cứ điểm xuất phát của giặc trước khi chúng có thời gian hoàn tất công việc chuẩn bị lực lượng kéo vào Đại Việt.

Nhà Lý huy động một lực lượng khá lớn, khoảng gần 10 vạn quân, gồm có quân đội chủ lực của nhà Lý và dân binh các bộ tộc miền núi do các tù trưởng chỉ huy như Tông Đản, Thân Cảnh Phúc. Lý Thường Kiệt trực tiếp làm tổng chỉ huy đạo quân này.

Ngày 27-10-1075, cánh quân đầu tiên của Lý Thường Kiệt đã tiến vào bao vây trại Cổ Vạn, tiếp đó, các cánh khác do các tù trưởng miền núi chỉ huy cũng đánh phá các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, Châu Lộc, Tây Bình… Đại quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy tấn công tiêu diệt các cứ điểm Khâm Châu, Liêm Châu và ngày 18-1-1075 tấn công Ung Châu, cứ điểm mạnh của quân Tống gồm có 2800 quân do Tô Giám chỉ huy. Đến ngày 1-3-1076 quân đội nhà Lý hạ thành Ung Châu. Khi các mục tiêu chiến lược của cuộc hành quân đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh cho toàn bộ quân rút về nước, chuẩn bị đánh quân Tống sang xâm lược.

–Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược

Sau khi rút quân về, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương chuẩn bị chống xâm lược, mai phục vùng biên giới, đường tiến quân của giặc. Nhiều phòng tuyến được dựng lên ở các nơi. Phòng tuyến chủ yếu xây dựng trên bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu, đoạn chảy qua huyện Yên Phong – Bắc Ninh) dài 100km đắp bằng đất cao, vững chắc, có nhiều lớp giậu tre dày đặc, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy bảo vệ phòng tuyến.

Cuối năm 1076, quân Tống xâm phạm biên giới nước ta và ngày 18-1-1077 hàng vạn quân Tống do Quách Quỳ tổng chỉ huy ồ ạt tràn vào nước Đại Việt và hội quân bên phía bắc sông Cầu, rải quân trên một tuyến dài từ bến Như Nguyệt đến núi Nham Biền. Không có thuyền để vượt qua sông Cầu tiến vào Thăng Long, Quách Quỳ cho quân lính đóng bè vượt sông, nhưng đều bị thất bại. Cánh thủy quân giặc do Hòa Mâu chỉ huy đã bị quân Lý do Lý Kế Nguyên đánh tan, không tiếp ứng được cho Quách Quỳ. Quách Quỳ thất vọng ra lệnh “ai bàn đánh sẽ bị chém” và quay về phòng ngự. Cuối mùa xuân 1077, quân Lý mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến địch, đánh thẳng vào các doanh trại giặc. Quân Tống thua to, bị tiêu diệt đến quá nửa. Quân Tống lâm vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng. Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp chính trị mềm dẻo, đề nghị “giảng hoà”. Quách Quỳ chấp thuận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước. Cuộc kháng chiến thắng lợi vẻ vang, đã bảo vệ được nền độc lập, tự chủ của Đại Việt.

–Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông- Nguyên

+Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1257)

Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định tấn công với quy mô lớn nhằm tiêu diệt nước Nam Tống. Trong đợt tấn công xâm lược này, một đạo quân gồm 3 vạn do tướng Uryangkhađai (còn gọi là Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy được lệnh đánh thẳng vào Đại Việt rồi từ đây tiến vào miền Quảng Tây phối hợp với các đạo khác. Trước khi xâm nhập biên giới nước ta, tướng Mông Cổ cho sứ giả sang dụ hàng vua nhà Trần. Vua Trần bắt trói sứ giặc, ra lệnh cho nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Chờ mãi không thấy sứ giả về, quân Mông Cổ chia 2 đường dọc sông Thao tiến vào. Ngày 17-1-1258 giặc kéo đến Bình Lệ Nguyên (Thuộc Tam Đảo, Vĩnh Yên). Cuộc giao chiến lớn đầu tiên xảy ra, sau đó quân nhà Trần rút về Phù Lỗ. Tiếp đó, quân Trần cho phá cầu Phù Lỗ, dàn quân phòng ngự bên bờ sông, quân giặc tấn công đuổi theo quân Trần đến Đông Bộ Đầu. Triều đình nhà Trần chủ trương rút khỏi Thăng Long về đóng ở Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên). Nhân dân thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống” của nhà vua, quân giặc vào Thăng Long không người, chỉ thấy các sứ giả của chúng bị trói nằm trong ngục tối. Chiếm được kinh thành bỏ trống, không có lương thực, quân Mông Cổ lúng túng. Lợi dụng thời cơ, ngày 29-1-1258 quân Trần phản công đánh tan quân địch ở Đông Bộ Đầu. Quân địch bị đánh bật khỏi Thăng Long, tháo chạy về Vân Nam. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.

+Cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285)

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt cùng với tướng Aric Khaya (còn gọi là A Lý Hải Nha) cầm đầu ồ ạt tràn vào xâm lược Đại Việt. Các trận đánh diễn ra quyết liệt ở nhiều nơi trên vùng biên giới. Thấy thế giặc đang mạnh, Trần Hưng Đạo quyết định rút quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Hưng). Sau một vài trận đánh nhằm tiêu hao sinh lực địch, quân chủ lực nhà Trần rút khỏi Thăng Long. Nhân dân lại thực hiện “vườn không nhà trống” để chống giặc. Quân giặc hùng hổ kéo vào Thăng Long vắng lặng, chúng vội rút về đóng ở phía bắc sông Hồng.

Cùng thời gian này, Toa Đô từ Chămpa chỉ huy một đạo quân đánh ra Nghệ An thực hiện thế hai gọng kìm hòng siết chặt quân ta lại để tiêu diệt. Trần Quốc Tuấn và vua Trần lui quân ra các lộ miền biển rồi rút vào Thanh Hoá (tháng 4- 1285). Tháng 4 năm Ất Dậu (tháng 5-1285) không bắt được vua Trần và không tiêu diệt được quân chủ lực nhà Trần, quân giặc lâm vào một tình thế khó khăn lớn, thiếu lương thực, ốm đau, bệnh tật. Nắm đúng thời cơ đó, quân đội nhà Trần liên tiếp tấn công quân giặc và tiêu diệt chúng ở bến Tây Kết (Khoái Châu – Hưng Yên), Hàm Tử (Khoái Châu), Chương Dương (Thường Tín – Hà Tây), Thăng Long. Ngày 10-6-1285 Thoát Hoan cùng quân giặc tháo chạy, trên đường chạy trốn, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát thân, Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết, Ô Mã Nhi chạy trốn thoát thân. Đất nước Đại Việt sạch bóng quân xâm lược.

+Cuộc kháng chiến lần thứ ba (1287-1288)

Thất bại nặng nề, nhục nhã ở Đại Việt làm cho vua Nguyên hết sức căm giận. Y hạ lệnh điều động hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền lớn, thuyền lương thực để xâm lược Đại Việt lần thứ 3. Thoát Hoan lại được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy đạo quân này. Tháng 12-1287, quân Nguyên ồ ạt tràn vào nước ta. Quân bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy vượt biên giới, đánh vào Lạng Sơn, rồi tiến xuống phía nam, đóng quân tại Vạn Kiếp, xây dựng căn cứ vững chắc. Cùng lúc đó, đạo thuỷ quân gồm 600 chiếc thuyền lớn do tướng Ô Mã Nhi cầm đầu theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Phó tướng Trần Khánh Dư chỉ huy quân Trần tổ chức đánh tập kích vào Vân Đồn nhưng bị thất bại. Ô Mã Nhi dong thuyền vượt qua sông Bạch Đằng tiến về hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.

Đoán biết thuyền lương của giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy sắp tiến vào nước ta, Trần Khánh Dư bố trí trận phục kích và khi đoàn thuyền lương đến, quân Trần từ nhiều phía đổ ra đánh dữ dội ở Vân Đồn, phần lớn thuyền địch bị đắm, số còn lại bị quân Trần chiếm. Đợi mãi, không thấy đoàn thuyền lương đến, Thoát Hoan ra lệnh cho quân tiến vào Thăng Long (tháng 1 – 1288). Quân giặc vào kinh thành vắng lặng, điên cuồng cướp phá, nhưng đến đâu cũng bị nhân dân ta chống trả quyết liệt. Đạo quân xâm lược đông đảo rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, thiếu lương ăn, không hợp thủy thổ.

Tin chiến thắng Vân Đồn, tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ và những khó khăn của giặc sau đó là thời cơ để quân Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân xâm lược ở trên sông Bạch Đằng bằng việc bố trí trận địa bãi cọc trên sông và cho quân mai phục, thống nhất kế hoạch đánh giặc. Đầu tháng 4-1288, đoàn thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy có kỵ binh hộ tống rút về trước theo hướng sông Bạch Đằng. Quân dân ta liên tiếp tập kích khiến cho chúng vất vả mới tiến được đến sông Bạch Đằng. Lúc đó, đoàn thuyền nhẹ của quân Trần ra khiêu chiến, giả vờ thua chạy. Đại quân Ô Mã Nhi đuổi theo lọt vào trận địa mai phục, đó cũng là lúc nước triều xuống nhanh. Từ hai bên bờ, quân Trần đổ ra đánh, phá vỡ đội hình giặc. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt. Bị đánh bất ngờ và quá mạnh, giặc hốt hoảng đua nhau rút nhanh ra biển, xô cả vào bãi cọc đang nhô lên, ùn lại, vỡ tan. Giữa lúc đó, hàng loạt bè lửa xuôi nhanh theo nước triều xuống, lao vào thuyền giặc. Bọn giặc khiếp sợ, nhảy lên bờ lại bị quân Trần đón chúng tiêu diệt. Toàn bộ đạo thuỷ quân của Ô Mã Nhi bị tiêu diệt. Lần này Ô Mã Nhi bị bắt sống.

Cùng thời gian đó, đạo quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy rút chạy theo hướng Lạng Sơn, bị quân dân ta phục kích đánh tan tác. Vất vả lắm Thoát Hoan mới chạy thoát về nước.

Ngày 18-4-1288, nhà Trần làm lễ tế mừng thắng trận trước Lăng Trần Thái Tôn.

Thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên ở thế kỷ XIII đã chứng minh chân lý: khi một nước nhỏ, dân không đông nhưng đoàn kết, quyết tâm cầm vũ khí và mưu trí đánh giặc thì có thể đánh bại những kẻ thù mạnh và hung hãn nhất.

Trần Quốc Tuấn, người có công lớn nhất trong kháng chiến (lần thứ 2,3), nhà chỉ huy quân sự thiên tài, người anh hùng của dân tộc đã khẳng định nguồn gốc của sức mạnh để chiến thắng kẻ thù là “cả nước ra sức đánh giặc” nên “bọn giặc phải bị bắt”.

Những cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta thời Lý – Trần đã góp phần xây đắp truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, thà hy sinh tất cả chứ không chịu để mất nước, làm nô lệ cho ngoại bang của dân tộc Việt Nam.


Nguồn:Lương Ninh 2000, Chương V – Đại Việt trong các thế kỷ X-XIV (Thời Lý – Trần), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr.125-139.


NGUỒNlichsuvietnam.vn

Chia sẻ

Facebook

Linkedin

Twitter

Telegram

Pinterest

Viber

WhatsApp

Print

Email

Tumblr

Bài trướcMột số đặc điểm mang tính dân tộc trong Khóc Dương Khuê qua đối sánh với Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng thư

Bài tiếp theoSun Group khẩn cấp hỗ trợ trang thiết bị y tế cho bệnh viện dã chiến Tây Ninh

https://vansudia.net

TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ , KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VĨNH PHÚC THỜI LÝ - TRẦN

TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ , KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều đình do Đào Cam Mộc khởi xướng, tôn quan Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều Lý. Mùa thu năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên thành Thăng Long. Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt.

Thời Lý, cả nước được chia thành 24 lộ, phủ, miền núi có các châu. Tuy nhiên, do cách thức quản lí và chính sách của triều đình, cách gọi lộ, phủ, châu không thống nhất. Ở vùng đồng bằng chủ yếu là lộ hay phủ, ở miền núi gọi là châu hay đạo. Dưới phủ là huyện, dưới huyện có các hương.

Vĩnh Phúc thời kì này thuộc lộ (châu) Quốc Oai (đời Trần Thuận Tông đổi gọi là trấn Quốc Oai, gồm một phần đất tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Hà Tây trước đây) cùng một phần châu Chân Đăng (phạm vi gồm hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc hiện nay).

Triều Lí kế thừa thành quả của các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê tiếp tục xây dựng và không ngừng củng cố bộ máy triều chính, ban hành luật pháp, tổ chức quân đội, phát triển kinh tế...Đối với các thổ hào, tù trưởng địa phương, triều Lí thi hành chính sách chiêu dụ, chủ trương cai trị ràng buộc lỏng lẻo, song kiên quyết trấn áp những hành động chống đối, cát cứ. Vĩnh Phúc là vùng đất trọng yếu, tiếp giáp với kinh thành Thăng Long trên con đường hành quân lên vùng Tây Bắc, vì thế rất được triều Lí coi trọng.

Năm Thuận Thiên 15 (1024), vua Lí Thái Tổ hạ chiếu cho Khai Thiên vương Phật Mã cầm quân đi đánh Phong Châu. Năm Thông Thụy 4 (1037), Lí Thái Tông tiếp tục thân chinh "đi đánh đạo Lâm Tây, sai Khai Hoàng vương (Nhật Tông) làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn vương (Nhật Trung) làm kinh sư lưu thủ. Quân đi từ kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được".

Bên cạnh các cuộc hành quân trấn áp, nhằm thắt chặt sự ràng buộc các thủ lĩnh, hào trưởng địa phương với chính quyền trung ương, nhà Lý đã nhiều lần phong chức tước, gả các công chúa và ngược lại con em họ nhiều người được các vua Lý lấy làm vợ.

Nhiều sự kiện được sử ghi lại liên quan đến châu Chân Đăng cho thấy mối quan tâm đặc biệt của triều Lý đối với vùng đất này. Đại Việt sử kí toàn thư chép: tháng 2 năm 1033, châu Định Nguyên làm phản, vua Lý Thái Tông thân chinh tiễu phạt, đóng lại châu Chân Đăng, có người họ Đào dâng con gái, được vua nhận làm phi. Tháng 3 năm Bính Tị (1036), vua Lý Thái Tông gả công chúa Kim Thành cho châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận. Con gái của Phụng Càn vương là công chúa Ngọc Kiều, được Lí Thánh Tông nuôi trong cung, sau gả cho châu mục châu Chân Đăng. Vua Lý Thần Tông (1116 - 1137) có 4 người vợ, bà thứ nhất là Cảm Thánh Hoàng hậu (mẹ đẻ của vua Lí Anh Tông), bà thứ tư là Phụng Thánh phu nhân đều là con gái châu mục châu Chân Đăng.

Để tỏ lòng kính thuận, cũng là đáp lại ân huệ của nhà vua, châu mục Chân Đăng thường dâng biếu vua Lý sản vật địa phương.

Dưới thời Lý nhà nước rất chăm lo sản xuất nông nghiệp. Nghi lễ cày ruộng tịch điền có từ thời Tiền Lê được các vua đầu triều Lý duy trì và rất coi trọng. Về ruộng đất, trên danh nghĩa, quyền sở hữu thuộc về nhà nước, triều đình trực tiếp quản lí các loại ruộng quốc khố, đồn điền, tịch điền, ruộng đất công làng xã, đồng thời sử dụng để ban thưởng phân phong cho các công thần. Ngoài ra, ruộng chùa là một loại hình sở hữu ruộng đất phổ biến thời kì Phật giáo phát triển thịnh đạt. Năm 1086, nhà Lý phân biệt chùa làm 3 loại: đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam. Cách phân biệt này có lẽ cũng phản ánh sự khác nhau về kinh tế giữa các chùa thời ấy. Thực tế thì ruộng chùa thời Lý chiếm một diện tích không nhỏ.

Bên cạnh ruộng công, thời Lý, chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân đã khá phổ biến. Hiện tượng mua bán, kiện tụng và cúng tặng ruộng đất đã xuất hiện nhiều nơi. Nhà Lí đã ban hành nhiều điều luật công nhận quyền tư hữu này. Năm 1123, nhân việc cấm giết trâu bò nhà Lí ra lệnh: "Từ nay về sau cứ 3 người làm 1 bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì bị trị tội theo hình luật”. Các năm sau (1137, 1143), nhà Lí lại tiếp tục khẳng định biện pháp cứ “3 nhà làm 1 bảo” liên kết với nhau, kiểm tra mùa màng và không được tự tiện giết trâu bò. Việc kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên số lượng dân đinh, số lượng hộ gia đình gắn liền với việc bảo vệ sức kéo trâu bò là một chính sách nông nghiệp tích cực trong điều kiện nước ta.

Thời Lí, thủ công nghiệp khá phát triển. Tại Vĩnh Phúc, nghề gốm phát triển khá mạnh. Người thợ nung gốm Vĩnh Phúc đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm, kĩ thuật tinh xảo, đã làm được những viên gạch xây tháp Đạo Trù, tháp Kim Tôn, đặc biệt là tháp Bình Sơn rất đẹp. Tại Phong Châu, triều đình mở xưởng luyện sắt, do nhà nước quản lí. Công xưởng này thiết lập trên khu mỏ sắt lộ thiên tại Thanh Vân, Đạo Tú (hiện nay thuộc huyện Tam Dương)

Đạo Phật được truyền bá vào vùng đất Vĩnh Phúc từ sớm. Thời Lý, khi Phật giáo phát triển, nhiều ngôi chùa nổi tiếng được xây dựng trên đất Vĩnh Phúc: chùa Cói (nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên), chùa Yên Nhiên (nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường), chùa Then (nay thuộc xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch)... Tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Sông Lô) cao 16,115m, chân đế mỗi cạnh 4m có 11 tầng (không kể tầng bệ), là công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng. Kết cấu và kiến trúc tháp khá đặc biệt, hoàn toàn bằng đất nung lắp ghép. Toàn bộ thân và móng đều bằng gạch. Bốn mặt tháp trang trí đầy hoa văn khắc chìm hoặc đắp nổi các hình hoa sen, lá đề, rồng, run, sư tử hí cầu, hoa chanh, dây leo.

Từ giữa thế kỉ XII, triều chính nhà Lí dần suy yếu. Kinh tế, nhất là nông nghiệp, ngày càng sa sút, các phe phái phong kiến đánh lẫn nhau. Vua Lí vì thế phải nhiều lần chạy loạn và nương tựa vào thế lực họ Trần. Từ thế kỉ XIII, họ Trần dần nắm quyền hành trong triều. Năm 1226, Trần Thủ Độ ép Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều Lí kết thúc, triều Trần được thành lập (1226 - 1400). Nhà Trần áp dụng nhiều biện pháp để khôi phục sức mạnh của chính quyền trung ương, củng cố nền thống trị của dòng họ, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình xã hội. Các vua Trần truyền ngôi cho con sớm, lên làm Thái thượng hoàng, cùng với vua trẻ lo việc chính sự.

Về mặt hành chính, năm 1242, nhà Trần đổi 24 lộ, phủ thời Lí thành 12 lộ (nhà Hồ đổi các lộ thành trấn). Dưới lộ (hay trấn) là các phủ, được phủ là châu, dưới châu là huyện, dưới huyện là các xã. Xã là đơn vị hành chính cơ sở, đứng đầu là Đại tư xã (từ ngũ phẩm lên), Tiểu tư xã (từ ngũ phẩm xuống), đặt xã quan, xã chính, xã sử, xã giám.

Vùng đất Vĩnh Phúc cho đến cuối thời Trần thuộc vào các châu Tam Đới (sau đổi thành phủ Vĩnh Tường) lộ Đông Đô và trấn Tuyên Quang. Thuộc châu Tam Đới nay có các huyện Yên Lạc, huyện Lập Thạch; thuộc trấn Tuyên Quang nay có huyện Tam Dương (vốn là huyện Dương). Thời Hồ và thuộc Minh, về cơ bản đơn vị hành chính Vĩnh Phúc không thay đổi nhiều.

Về kinh tế, đầu triều Trần, nông nghiệp được triều đình quan tâm phát triển. Công cuộc khẩn hoang, xây dựng điền trang cũng được chú ý.

Về quân sự, nhà Trần rất chăm lo xây dựng và củng cố quân đội theo phương châm “binh lính cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”. Ngoài lực lượng quân đội chính quy, nhà Trần cho phép các vương hầu, các chủ trại, phụ đạo tự lập quân đội riêng. Ở các xã, nhà Trần thành lập lực lượng dân binh lo bảo vệ trật tự trị an, khi có giặc, tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương.

Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã đạt được những thành tựu nổi bật gì?

Đề bài

Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã đạt được những thành tựu nổi bật gì?

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào những kiến thức đã học bài 12 và bài 15 để trả lời.

Lời giải chi tiết

* Những thành tựu nổi bật của nước Đại Việt thời Lý - Trần

Thành tựu

Thời Lý

Thời Trần

Kinh tế

- Nông nghiệp:Nhà nước quan tâm đến sản xuất, trị thủy, khuyến khích khai hoang.

- Thủ công nghiệp: có bước phát triển mới, nhất là ngành ươm tơ, dệt lụa.

- Thương nghiệp: buôn bán, trao đổi trong nước và ngoài nước được mở mang.

- Nông nghiệp:Khai hoang mở rộng diện tích trồng trọt, đắp đê được củng cố.

- Thủ công nghiệp:nhiều ngành nghề, trong nhân dân rất phổ biến và phát triển.

- Thương nghiệp: chợ ngày càng nhiều, trao đổi buôn bán trong và ngoài nước được đẩy mạnh.

Văn hóa

- Đạo Phật phát triển mạnh nhất.

- Các hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú, đa dạng.

- Đạo Phật phát triển cực thịnh.

Giáo dục

- Năm 1070, xây dựng Văn Miếu.

- Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên.

- Đã bắt đầu quan tâm đến giáo dục, khoa cử song chế độ thi cử chưa có nền nếp, quy củ.

- Quốc tử giám mở rộng đào tạo.

- Có trường công, trường tư.

- Các kì thi được tổ chức ngày càng nhiều, có quy củ và nề nếp.

Khoa học - kĩ thuật

- Kiến trúc, điêu khắc: Các công trình có quy mô tương đối lớn, độc đáo.

- Trình độ điêu khắc tinh vi, thanh thoát. Phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt.

- đạt được những thành tựu đáng kể.

- Nhiều công trình kiến trúc mới, có giá trị ra đời như: tháp Phổ Minh (Nam Định), thành Tây Đô (Thanh Hóa),…

- Phổ biến điêu khắc các hình, tượng hổ, sư tử, trâu, chó và các quan hầu bằng đá. Hình rồng khắc trên đá trau chuốt, có sừng uy nghiêm.

Loigiaihay.com

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Diễn biến các cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, chống Mông - Nguyên thời Trần

    Diễn biến các cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, chống Mông - Nguyên thời Trần

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Thời Lý - Trần, nhân dân ta đã phải đương đầu với những cuộc xâm lược nào? (Thời gian? Lực lượng quân xâm lược?)

    Thời Lý - Trần, nhân dân ta đã phải đương đầu với những cuộc xâm lược nào? (Thời gian? Lực lượng quân xâm lược?)

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Lập bảng thống kê những sự kiện lớn đáng ghi nhớ trong lịch sử nước ta thời Lý - Trần theo trình tự thời gian và nội dung (niên đại và sự kiện).

    Lập bảng thống kê những sự kiện lớn đáng ghi nhớ trong lịch sử nước ta thời Lý - Trần theo trình tự thời gian và nội dung (niên đại và sự kiện).

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Em hãy trình bày và vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

    ◦ Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tôg hoàn chỉnh và chặt chẽ nhất so với trước .Triều đình có đầy đủ các bộ ,tự ,các khoa và các cơ quan chuyên môn.

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Luật pháp thời Lê sơ có điểm gì giống và khác thời Lý - Trần?

    - Giống nhau là về bản chất mang tính giai cấp và đẳng cấp. Mục đích chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Chiến tranh Nam - Bắc triều

    Tóm tắt mục 1. Chiến tranh Nam - Bắc triều. Triều đình nhà Lê càng suy yếu thì sự tranh chấp giữa các phe phái phong kiến

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Chiến tranh Trịnh - Nguyễn và sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài

    Tóm tắt mục 2. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn và sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài

Tình hình kinh tế thời Lê sơ có gì giống và khác thời Lý - Trần ?

Đề bài

Tình hình kinh tế thời Lê sơ có gì giống và khác thời Lý - Trần?

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào những kiến thức đã học bài 12, 15, 20 để so sánh, đánh giá.

Lời giải chi tiết

* Giống nhau:

- Nông nghiệp:chính sách khuyến nông:

+ Khuyến khích khai hoang.

+ Quan tâm đến vấn đề trị thủy

+ Bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp.

- Thủ công nghiệp:

+ Thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp trong nhân dân, đều phát triển.

+ Xuất hiện làng nghề, thợ thủ công giỏi, khéo tay.

- Thương nghiệp:

+ Chợ làng, chợ huyện được lập ra ở nhiều nơi.

+ Giao lưu buôn bán với các nước bên ngoài phát triển.

=> Như vậy, ở cả hai thời kì nền kinh tế đều phát triển, đạt được nhiều thành tựu trên các mặt nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp.

* Khác nhau:

Thời Lý - Trần

Thời Lê sơ

Nông nghiệp

- Tổ chức lễ “cày tịch điền”

- Chính sách ruộng đất: điền trang, thái ấp.

- Không tổ chức lễ “cày tịch điền”

- Chính sách ruộng đất: quân điền.

-Đặt một số chức quan chuyên về nông nghiệp.

Thủ công nghiệp

- Thời Lý: Nghề chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa rất phát triển.

- Thời Trần: mặt hàng thủ công càng ngày càng tốt, đẹp: thạp gốm hoa nâu, gạch đất nung chạm khắc nổi,…

- Có các làng nghề thủ công, phường thủ công.

- Các xưởng do nhà nước quản lí, gọi là "Cục bách tác".

Thương nghiệp

- Đã có sự phát triển, tuy nhiên chưa phát triển bằng thời Lê sơ.

- Chợ búa được khuyến khích mở để lưu thông hàng hóa trong và nước ngoài. Phát triển hơn thời Lý - Trần.

Loigiaihay.com

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Luật pháp thời Lê sơ có điểm gì giống và khác thời Lý - Trần?

    - Giống nhau là về bản chất mang tính giai cấp và đẳng cấp. Mục đích chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Nhà nước thời Lê sơ và nhà nước thời Lý - Trần có điểm gì khác nhau?

    - Thành phần quan lại cao cấp của nhà nước thời Lý - Trần là quý tộc, vương hầu. Còn ở nhà nước thời Lê sơ là các nho sĩ trí thức đỗ đạt

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Bộ máy nhà nước thời vua Lê Thánh Tông có tổ chức hoàn chỉnh, chặt chẽ hơn bộ máy nhà nước thời Lý - Trần ở những điểm nào ?

    - Chú ý ở triều đình, vua trực tiếp nắm mọi quyền hành và điều hành công việc, kể cả quyền của tể tướng, tổng chỉ huy quân đội và sáu bộ

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Lập bảng thống kê các tác phẩm văn học, sử học nổi tiếng thời Lý - Trần và Lê sơ.

    Lập bảng thống kê các tác phẩm văn học, sử học nổi tiếng thời Lý - Trần và Lê sơ.

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Xã hội thời Lý -Trần và thời Lê sơ có những giai cấp, tầng lớp nào ? Có gì khác nhau và giống nhau ?

    - Khác nhau : Thời Lý - Trần, tầng lớp quý tộc vương hầu rất đông đảo, nắm mọi quyền lực, tầng lớp nông nô nô tì có số lượng lớn, rất đông đảo trong xã hội.

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Em hãy trình bày và vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

    ◦ Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tôg hoàn chỉnh và chặt chẽ nhất so với trước .Triều đình có đầy đủ các bộ ,tự ,các khoa và các cơ quan chuyên môn.

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Chiến tranh Nam - Bắc triều

    Tóm tắt mục 1. Chiến tranh Nam - Bắc triều. Triều đình nhà Lê càng suy yếu thì sự tranh chấp giữa các phe phái phong kiến

  • Tình hình chính trị kinh tế của Đại Việt dưới thời Lý Trần như thế nào

    Chiến tranh Trịnh - Nguyễn và sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài

    Tóm tắt mục 2. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn và sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài

Mục lục

  • 1 Tôn xưng
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Thành lập
    • 2.2 Dời đô về Đại La
    • 2.3 Loạn tam vương
    • 2.4 Thời kỳ thịnh trị
    • 2.5 Thời kỳ trung suy
    • 2.6 Thời kỳ suy vong
      • 2.6.1 Loạn Đoàn Thượng, Quách Bốc
      • 2.6.2 Tô Trung Từ và họ Trần
      • 2.6.3 Trần - Đoàn tranh vị
      • 2.6.4 Bất lực trong đại loạn
      • 2.6.5 Họ Trần nắm quyền
      • 2.6.6 Chiêu Hoàng nhường ngôi
    • 2.7 Nhận định
  • 3 Địa giới hành chính và hệ thống quan lại
  • 4 Luật pháp
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Nông nghiệp
      • 5.1.1 Ruộng công
      • 5.1.2 Ruộng đất nhà chùa
      • 5.1.3 Ruộng tư
    • 5.2 Thủ công nghiệp
    • 5.3 Thương nghiệp
    • 5.4 Tiền tệ
  • 6 Giáo dục, khoa cử
  • 7 Tôn giáo
  • 8 Văn học
  • 9 Nghệ thuật
    • 9.1 Kiến trúc
    • 9.2 Điêu khắc, đúc tượng
    • 9.3 Âm nhạc
  • 10 Ngoại giao
    • 10.1 Với nhà Tống
    • 10.2 Với nhà Kim
    • 10.3 Với Chiêm Thành và Chân Lạp
  • 11 Quân sự
    • 11.1 Tổ chức quân đội
    • 11.2 Chiến tranh với các quốc gia lân cận
      • 11.2.1 Đánh Tống ở Ung châu
      • 11.2.2 Chống Tống ở phòng tuyến sông Như Nguyệt
      • 11.2.3 Chiến tranh với Chiêm Thành
      • 11.2.4 Chiến tranh với Chân Lạp
      • 11.2.5 Chiến tranh với Đại Lý
  • 12 Đền thờ
  • 13 Thế phả nhà Lý
  • 14 Xem thêm
  • 15 Ghi chú
  • 16 Chú thích
  • 17 Tham khảo
  • 18 Liên kết ngoài

Tôn xưngSửa đổi

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm Thiên Thành thứ 7 (1034), Lý Thái Tông ban chiếu định các đình thần khi tâu việc phải gọi vua là "triều đình" (朝庭)[1]. Đến Lý Thánh Tông lại đổi là "vạn thặng" (萬乘); danh xưng này lấy ý từ sách Mạnh tử: "Một trời muôn xe" (一天萬乘), "Giết một vị vua có vạn cỗ xe thì cũng không khác việc giết một kẻ thường dân [làm nhục mình]" (視刺萬乘之君、若刺褐夫). Sau cùng, Lý Cao Tông yêu cầu quan viên gọi vua là "phật" (佛).

Lịch sửSửa đổi

Loạt bài
LịchsửViệtNam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I (207 TCN – 40)
Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 – 43)
Bắc thuộc lần II (43 – 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương (541 – 602)
Bắc thuộc lần III (602 – 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ (905 – 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 – 967)
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 – 980)
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Nhà Lý (1009 – 1225)
Nhà Trần (1225 – 1400)
Nhà Hồ (1400 – 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 – 1427)
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
Nhà Lê sơ (1428 – 1527)

trung
hưng
(1533 – 1789)
Nhà Mạc (1527 – 1592)
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 – 1802)
Nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Pháp thuộc (1887 – 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976)

Xem thêm

  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa

Thành lậpSửa đổi

Việc hình thành nhà Lý gắn liền với sự kiện Lý Công Uẩn thay ngôi Lê Long Đĩnh. Các bộ sử cổ của Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục thống nhất chép rằng tháng 10 năm 1009, vua nhà Tiền Lê là Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điện tiền Chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy tôn.[2][3]

Lý Thái Tổ (李太祖) (974-1028)

Riêng trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ ghi lại lời nghi vấn về việc Lý Công Uẩn nhân lúc Long Đĩnh bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép[4]. Tuy nhiên, các bộ sử, kể cả Đại Việt sử ký tiền biên, đều ghi nhận việc trăm quan của triều đình cũ suy tôn Lý Công Uẩn khi ông lên ngôi và sử sách không ghi nhận một cuộc nổi dậy nào của những người nhân danh trung thành với nhà Tiền Lê để chống lại nhà Lý sau khi triều đại này hình thành.

Nhà sử học Lê Văn Hưu viết: Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn, theo học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Sau đó làm quan nhà Lê, giữ đến chức Điện tiền Chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư. Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng.

Việc Lý Công Uẩn trưởng thành, thăng tiến trong bộ máy nhà Tiền Lê và lên ngôi vua có vai trò gây dựng rất lớn của thiền sư Vạn Hạnh[5]. Các nhà nghiên cứu thống nhất ghi nhận vai trò của sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi nhanh chóng, êm thấm và kịp thời, khiến cục diện chính trị nước Đại Cồ Việt được duy trì ổn định trong quá trình chuyển giao quyền lực, không gây xáo trộn từ trong cung đình lẫn bên ngoài[6]. Việc lên ngôi nhanh chóng và êm thuận của Lý Công Uẩn được xem là điều kiện thuận lợi và nền tảng để ông yên tâm bắt tay xây dựng đất nước thống nhất, mở đầu một vương triều thịnh vượng lâu dài[7], mở ra thời kỳ phục hưng toàn diện của đất nước[8].

Dời đô về Đại LaSửa đổi

Gần 1 năm sau khi lên ngôi vua, tháng 7 âm lịch năm 1010, Lý Thái Tổ tiến hành dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ông đã ban hành Chiếu dời đô vào mùa xuân năm 1010.

Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thủy. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: triều nhà Lý dời đô bằng đường thủy, và chỉ có dời đô bằng đường thủy thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.[9][10]

Bia Lý Thái Tổ bên sông Sào Khê tại Cố đô Hoa Lư, nơi vua ban Chiếu dời đô.

Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Thái Tổ dời đô cũng cần dùng tới đội thuyền. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở Khu di tích Cố đô Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.[11]

Như vậy hành trình dời đô đi qua sáu con sông khác nhau, trong đó các hành trình trên sông Sào Khê, sông Hoàng Long, sông Châu Giang là đi xuôi dòng, trên sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch là đi ngược dòng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển.

Sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên nhận xét về kinh đô Thăng Long như sau:

"Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này".

Quyết định dời đô ra Thăng Long của Lý Thái Tổ được xem là sự kiện trọng đại, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của vương triều Lý[12]. Trong vòng 8 thế kỷ tiếp theo, hầu hết các triều đại phong kiến kế tục nhà Lý như nhà Trần, nhà Mạc, nhà Hậu Lê đều tiếp tục dùng Thăng Long làm kinh đô và có thời gian tồn tại tương đối lâu dài.

Loạn tam vươngSửa đổi

Khoảng tháng 3 năm 1028, Lý Thái Tổ qua đời, hưởng dương 55 tuổi, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế (神武皇帝), an táng ở Thọ lăng.

Các đại thần đều đến cung Long Đức để dâng biểu, xin Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi nhưng 3 người em của ông là Đông Chinh vương, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương không đồng ý nên đem quân của mình phục sẵn ở trong Hoàng thành nhằm cướp ngôi.

Lúc đó Đông Chinh vương phục ở trong Long Thành còn Dực Thánh vương và Vũ Đức vương phục binh ở cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử đến sẽ đánh úp. Một lát sau, Thái tử từ cửa Tường Phù vào, đến điện Càn Nguyên, biết có biến, sai người hầu đóng hết các cửa điện và sai các vệ sĩ trong cung phòng giữ. Thấy Phật Mã không nỡ xuống tay, nội thị là Lý Nhân Nghĩa xin đánh một trận để quyết được thua, theo gương Đường Thái Tông và Chu Công Đán.

Quân của ba vương đánh đến rất gấp, Thái tử bèn sai vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh. Lê Phụng Hiểu sức khỏe hơn người, một mình vượt hơn trăm quân lính, ra trước cửa Quảng Phúc xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của ba vương thua chạy. Quan quân đuổi theo chém giết hết, chỉ có hai vương Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được.

Thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là Lý Thái Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thành. Hai vương chạy thoát sau đó được tha tội. Cũng vì biến loạn này, để ngăn ngừa về sau, Lý Thái Tông đặt ra Hội thề thần Đồng Cổ, là một buổi lễ thề rất quan trọng suốt triều đại nhà Lý. Ông xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu ở bên phải thành Đại La sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết". Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ, chuyển sang mồng 4 tháng 4. Nếu không có mặt trong buổi lễ, người bị tội sẽ bị đánh 50 trượng.

Việc Thái tử Phật Mã dẹp được loạn, giữ được ngôi khiến chính trị nhà Lý từ đó được duy trì ổn định trong thời gian dài, chấm dứt tình trạng biến loạn gây hậu quả nặng nề sau khi vua khai quốc qua đời đã xảy ra với các triều đại trước như Ngô (Dương Tam Kha đoạt ngôi), Đinh (trung thần nhà Đinh chống Lê Hoàn dẫn tới nhà Đinh mất), Tiền Lê (các hoàng tử tranh ngôi).

Thời kỳ thịnh trịSửa đổi

Lý Thái Tông (李太宗) (1000-1054)

Ngay từ thời Lý Thái Tổ đến các vị hoàng đế tiếp theo là Thái Tông và Thánh Tông, nhà Lý tập trung giải quyết những vấn đề lớn sau:

  1. Củng cố nội trị: Phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp; ban hành Hình thư, hệ thống pháp luật đầu tiên từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc; xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống[13].
  2. Củng cố cương vực cai trị, vươn rộng quyền lực đến những vùng xa. Nhà Lý dùng chính sách hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng địa phương để thắt chặt mối quan hệ. Với những nơi không thần phục, vua cử các hoàng tử hoặc thân chinh đi đánh dẹp. Chính sử ghi nhận ba vị vua đầu triều Lý đã nhiều lần xuất quân các châu như Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, Định Nguyên, Trệ Nguyên, Thất Nguyên, Văn, Hoan, Diễn, Phong v.v... Lớn nhất là biến loạn họ Nùng những năm 1038-1041[14].
  3. Bảo vệ biên giới các phía: giải quyết những xung đột nhỏ xảy ra vùng biên với nhà Tống, và thường có liên quan tới các tù trưởng địa phương; đánh lui những cuộc tấn công cướp phá của Nam Chiếu, Chiêm Thành.

Lý Thánh Tông (李聖宗) (1023–1072)

Một sự kiện lớn trong những năm thịnh trị thời Lý là việc đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt (大瞿越) sang Đại Việt (大越) vào năm 1054, mở ra kỷ nguyên Đại Việt trong lịch sử Việt Nam.

Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh nước Chiêm Thành do Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu, cướp phá. Quân nhà Lý bắt được quốc vương Chiêm Thành là Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đáng kể về phía nam.

Năm 1070, Thánh Tông cho xây dựng Văn miếu, đắp tượng thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cũng tế, để mở mang Nho học. Ông là vị vua đầu tiên khởi xướng Nho giáo vào việc cai trị của các Hoàng đế Đại Việt sau này.

Ba vị hoàng đế đầu tiên triều Lý đều lên ngôi ở tuổi trưởng thành và qua đời ở độ tuổi 55, có tư tưởng và thực thi chính sách kế tục nhau khá nhất quán. Các ngài đều ở ngôi trong thời gian tương đối dài, sau Loạn tam vương không còn tranh chấp nội bộ, vì vậy chính quyền nhà Lý ngày càng được củng cố.

Lý Nhân Tông (李仁宗) (1066–1128)

Từ sau đời Lý Thánh Tông, nhà Lý bắt đầu đối mặt với vấn đề nhân sự. Thánh Tông muộn con, khi ông mất thì Thái tử Lý Càn Đức (李乾德) mới 7 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông. Dương Hoàng hậu được Thái sư Lý Đạo Thành (李道成) lập làm Hoàng thái hậu và có quyền nhiếp chính. Việc này gọi là Thùy liêm thính chính (垂簾聽政 - rủ mành nghe việc nước), các Thái hậu sẽ thượng triều, ngồi sau long tọa đã được buông 1 tấm rèm the và quyết định thay vua.

Ỷ Lan phu nhân (倚蘭夫人) - mẹ đẻ của Nhân Tông, được tôn làm Hoàng thái phi. Thái phi do nghĩ mình là mẹ đẻ mà không được can dự triều đình nên rất buồn bực, hằng ngày bà than thở với Nhân Tông khiến vị vua cũng dần nhận ra và quyết định phế truất Dương thái hậu và bắt giam bà cùng 72 cung nhân khác của Thánh Tông, đến khi linh cữu Thánh Tông được hạ huyệt thì Thái hậu và các cung nhân đó đều bị chôn sống theo. Lý Đạo Thành, do ủng hộ Dương thái hậu nên bị Ỷ Lan thái phi điều ra trấn thủ Nghệ An.

Sau khi Dương thái hậu bị phế truất, Ỷ Lan thái phi được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nghe chính sự. Bên dưới mọi việc do Thái úy Lý Thường Kiệt (李常傑), một trọng thần thời Thánh Tông đảm nhiệm.

Lúc này, nhà Tống đang khủng hoảng về vấn đề biên giới với nhà Liêu, Tây Hạ muốn nhân lúc vua Lý còn nhỏ, Thái hậu nhiếp chính mang quân đánh chiếm. Thái úy Lý Thường Kiệt chủ động xóa tan hiềm khích, mời Lý Đạo Thành về triều để bàn đối sách chống quân Tống.

Năm 1075, ngay khi nhà Tống đang tập kết lực lượng ở Ung châu chuẩn bị tiến sang, Lý Thường Kiệt chủ động mang thủy quân, kết hợp quân trên bộ của Nùng Tôn Đản (儂宗亶) đánh sang đất Tống trước. Sang đầu năm 1076, quân Lý hạ thành Ung châu.

Năm 1076, nhà Tống cử Quách Quỳ (郭逵), một viên tướng dày dạn trận mạc cùng Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Thế quân nhà Tống rất mạnh, quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã chống trả hết sức quyết liệt. Ông đã cử Lý Kế Nguyên đánh bại đội quân thủy của quân Tống sang kết hợp với quân bộ của Quách Quỳ. Cuối cùng, Lý Thường Kiệt đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận cho Đại Việt giảng hòa và rút quân trở về.

Nhà Lý vượt qua thử thách lớn nhất từ khi hình thành và tiếp tục thịnh trị. Sau khi đánh được quân Tống, Nhân Tông bắt tay vào việc cai trị, mở khoa thi đầu tiên và chọn ra 10 người thi đỗ, nổi tiếng nhất là Lê Văn Thịnh (黎文盛). Ông còn củng cố nông nghiệp, cấm nạn giết trâu và xử phạt rất nặng. Quốc gia yên bình, Nhân Tông chuyên tâm theo Phật giáo, mở nhiều cuộc vui như đua thuyền, múa rối nước,... Đại Việt luôn có hội hè, trở nên cực kỳ phồn vinh và phát triển.

Thời kỳ trung suySửa đổi

Đại Việt ở thế kỷ XI

Nhân Tông là vị hoàng đế trị vì lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông không có con. Vì vậy, ông chọn trong các con em hoàng tộc một người để kế vị và chọn được Lý Dương Hoán (李陽煥), là con của người em Sùng Hiền hầu, tức là cháu gọi ông bằng bác.

Năm 1128, Lý Nhân Tông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi, Dương Hoán lúc đó mới 11 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Thần Tông. Có một truyền thuyết rằng Thần Tông là do Từ Đạo Hạnh (徐道行) đầu thai.

Việc Nhân Tông qua đời và truyền ngôi cho Thần Tông đánh dấu sự chuyển dời ngôi vua từ chi trưởng cho chi dưới và cũng kết thúc thời kỳ phát triển đỉnh cao của nhà Lý. Từ Nhân Tông trở đi, trong 4 đời vua liên tiếp, người kế vị của nhà Lý đều nhỏ tuổi. Tuy việc cai trị bên ngoài chưa có nhiều ảnh hưởng trong thời kỳ đầu nhưng trong cung đình đã chịu ảnh hưởng trực tiếp vì sự tranh chấp quyền lực của những người tham gia nhiếp chính.

Thời Lý Thần Tông, các đại thần giúp vua gồm Thái sư Lê Bá Ngọc (黎伯玉), Thái phó Dương Anh Nhĩ (杨英耳), Thái úy Lý Công Bình, Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô (缪攸度), Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Sơn(李山),... đều là những người có năng lực, được Nhân Tông tin tưởng giao trọng trách nên thời đại Thần Tông cai trị, nước Đại Việt vẫn giữ được ổn định.

Nhà Lý từ những đời trước đã có thú thích vật hiếm lạ, đến khi Lý Thần Tông trưởng thành, việc đó ngày càng thịnh hành. Biết được ý vua, nhiều người dâng những vật lạ lên như hươu trắng, rùa có chữ trên mai, chim sẻ, cá sấu, cá sông, cây cảnh...; nhiều người như Lý Lộc (李禄), Lý Tự Khắc (李自克) tuy chỉ là quan hèn mọn nhưng do dâng hươu trắng quý hiếm mà cho làm Đại liêu ban, Minh tự. Ngoài ra xuất hiện nhiều quan lại có ý xu nịnh, nhân ý vua còn ham vui mà hùa theo nhà vua.

Năm 1138, Lý Thần Tông qua đời khi mới 23 tuổi, trị vì được 10 năm. Trước đây Thần Tông đã lập con trưởng là Lý Thiên Lộc (李天禄) làm Thái tử. Nhưng Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人) cùng Phụng Thánh phu nhân (奉聖夫人), Nhật Phụng phu nhân (日奉夫人) đã dùng tiền hối lộ hoạn quan Từ Văn Thông (徐文通) mà cho vào gặp Thần Tông, xui vua bỏ thái tử Thiên Lộc. Thần Tông nghe theo, bèn lập con nhỏ là Thiên Tộ làm Hoàng thái tử, giáng Thiên Lộc xuống làm Minh Đạo vương. Lý Thiên Tộ (李天祚) khi đó mới 3 tuổi lên ngôi, tức là Lý Anh Tông.

Cảm Thánh phu nhân Lê thị trở thành Hoàng thái hậu. Bà trọng dụng Đỗ Anh Vũ người tình của vua Lý Thần Tông(vì có tướng mạo đẹp nên Anh Vũ được vua cho vào hầu trong màn trướng) (杜英武) - người em ruột của Đỗ thái hậu và là cháu gọi Lý Thường Kiệt bằng cậu và Anh Vũ cũng là con nuôi của Thái sư Trương Bá Ngọc, cho làm nhiếp chính. Vì những điều đó nên Thái Hậu chỉ tin tưởng Anh Vũ. Việc đó khiến nhiều đại thần, gồm Điện tiền Chỉ huy sứ Vũ Đái (武戴), Phò mã Dương Tự Minh (杨字明) cùng một số thân vương nhà Lý bất bình và làm binh biến bắt Anh Vũ, nhưng không quyết đoán giết ông. Vì vậy Anh Vũ chỉ bị đày làm Cảo điền nhi - cày ruộng cho nhà nước. Không lâu sau, Thái hậu cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy Phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn. Đỗ Anh Vũ tìm cách trả thù. Anh Tông còn nhỏ, chuẩn tâu theo Anh Vũ, do đó những người tham gia binh biến đều bị giết hoặc đi đày.

Năm 1158, Đỗ Anh Vũ qua đời. Tô Hiến Thành (蘇憲誠), có họ hàng là Tô thị vợ của Anh Vũ, được thăng làm Thái úy. Hiến Thành giỏi việc dụng binh, lại là người chính trực, chuyên tâm tuyển chọn quân lính, biên giới nhiều lần bình định Chiêm Thành, Ai Lao.

Năm 1174, nhà Lý lại xảy ra việc thay ngôi thái tử. Thái tử là Lý Long Xưởng gian dâm với cung phi, làm chuyện thất đức nên bị phế truất làm Bảo Quốc vương. Anh Tông lập người con trai nhỏ là Lý Long Cán (李龍翰), con của một cung phi là cháu gái Đỗ Anh Vũ, làm Hoàng thái tử. Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu Thái phó bình chương quân quốc trọng sự, tước Vương, được giao phụ chính giúp người kế vị.

Năm 1175, Anh Tông qua đời khi mới 40 tuổi, trị vì được 36 năm. Thái tử còn nhỏ tuổi lên ngôi, sử gọi là Lý Cao Tông. Từ đây nhà Lý bắt đầu con đường suy vong.

Thời kỳ suy vongSửa đổi

Đoàn sứ triều Lý (phải) dẫn hai con voi sang triều Bắc Tống, phía bên trái là đoàn sứ Đại Liêu.

Lý Cao Tông lên ngôi khi mới 3 tuổi, mẹ là Đỗ phu nhân trở thành Chiêu Thiên Chí Lý Hoàng thái hậu, Đỗ An Di em trai bà trở thành ngoại thích, Tô Hiến Thành được giao cho việc kèm cặp phụ chính.

Chiêu Linh Hoàng thái hậu, mẹ của thái tử cũ Lý Long Xưởng cố giành lại ngôi báu cho con trai nhưng không thành vì thái độ cương quyết của Tô Hiến Thành.

Giữa năm 1179, khi Cao Tông mới lên 6 tuổi thì Thái úy Tô Hiến Thành qua đời. Đỗ An Di được phong làm phụ chính. Năm 1188, Đỗ An Di qua đời, Ngô Lý Tín (吳理信) được trao quyền phụ chính đến khi ông qua đời năm 1190. Đàm Dĩ Mông (譚以蒙) là em trai của An Toàn hoàng hậu được cất nhắc làm phụ chính.

Lý Cao Tông trưởng thành chỉ thích chơi bời, cho mua bán chức tước, khiến xã hội bất ổn, bọn bất tài cứ có nhiều tiền là làm quan gây phiền nhiễu cho dân chúng; lại cho bán tội ngục, tức là nếu có hai người tranh giành nhau về một vật, tài sản giá trị mà hễ có ai dâng tiền bạc thì được lấy tài sản đó về làm của công, không cần qua tra xét gì cả, nên kho bạc tài sản trong cung thì như núi mà dân đói khổ cứ thế kêu than bên ngoài, giặc cướp như ong. Nhiều thủ lĩnh địa phương nhân lúc triều đình trung ương suy yếu cũng ngầm xây dựng lực lượng nổi dậy.

Loạn Đoàn Thượng, Quách BốcSửa đổi

Đoàn Thượng (段尚) ở vùng Hồng Châu (Hải Dương và Hải Phòng) nổi dậy chống triều đình, Cao Tông sai các đại thần là Phạm Bỉnh Di (范秉異), Phạm Du (范兪), Đàm Dĩ Mông cùng các tướng khác đem quân đến định tiêu diệt. Đoàn Thượng sai người đem của đút lót Phạm Du, mong muốn lui binh. Du về tâu với Cao Tông, dùng mọi lời thuyết phục và khiến Cao Tông gọi tất cả quay về, Thượng thoát khỏi cảnh nguy khốn.

Phạm Du được quản việc binh ở Nghệ An, thuyết phục Cao Tông cho chiêu tập thêm người để củng cố lực lượng, Cao Tông đồng ý. Phạm Du chiêu dụ bọn cướp, những người vô gia cư tạo thành quân lực của riêng mình mà đi khắp nơi cướp bóc. Cao Tông sai Phạm Bỉnh Di đi dẹp, Bỉnh Di thắng liền mấy trận, đốt phá dinh thự nhà cửa của Phạm Du, Du phải chạy sang Hồng Châu mà trốn.

Năm 1209, Cao Tông triệu Phạm Du về Thăng Long. Phạm Du hết lời vu cáo Phạm Bỉnh Di. Cao Tông tin theo, bèn sai người bắt giam Bỉnh Di cùng con trai là Phạm Phụ. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc (郭卜) đang đóng ở ngoài nghe tin thì mang quân đánh vào kinh thành Thăng Long hòng giải cứu Bỉnh Di. Cao Tông và Phạm Du vội giết chết Bỉnh Di và Phụ rồi chạy lên vùng Quy Hóa (Vĩnh Phú, Yên Bái). Quách Bốc vào kinh sư an táng cha con Bỉnh Di rồi lập con thứ của Cao Tông là Lý Thầm lên ngôi Hoàng đế.

Hoàng tử Lý Hạo Sảm (李日旵) cùng mẹ là An Toàn hoàng hậu phải chạy về Hải Ấp, được Trần Lý (陳李) cùng Phạm Ngu là một học giả người vùng Diêu Hào lập làm minh chủ, giáng Lý Thầm xuống làm Vương. Hạo Sảm được sắp xếp kết hôn với con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung (陳氏庸), ban chức cho những người trong phe họ Trần như Trần Lý, Phạm Ngu và Tô Trung Từ (蘇忠詞).

Cao Tông nghe tin Thái tử Sảm tự ý lập triều đình riêng ở Hải Ấp, cho là chống lại mình nên cử Phạm Du huấn luyện binh sĩ ở vùng Hồng mà đi đánh. Nhưng Phạm Du mải tư thông với Thiên Cực công chúa, nên trễ hẹn với bọn Đoàn Thượng, bị thuộc hạ của Thái tử Sảm (thực chất là thuộc hạ họ Trần) mai phục và bắt giết. Sau đó, Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ đứng đầu cầm quân đánh đến kinh sư, đánh bại Quách Bốc và đồng đảng, dẹp tan loạn Quách Bốc.

Tô Trung Từ và họ TrầnSửa đổi

Cao Tông được rước về kinh thành Thăng Long. Không lâu sau, năm 1210, Cao Tông qua đời lúc 38 tuổi. Thái tử Lý Sảm (李旵) lên ngôi, tức Lý Huệ Tông, lúc ấy mới 16 tuổi. Huệ Tông cho lão thần Đỗ Kính Tu làm Thái úy phụ chính.

Vì Trần Lý đã chết, Tô Trung Từ nắm binh quyền thế lực Hải Ấp, giết chết Đỗ Kính Tu. Các tướng Đỗ Quảng, Đỗ Thế Qui và Phí Lệ cùng nhau mưu lập đánh Trung Từ. Trung Từ biết thế quân của mình nhỏ hơn liên quân của họ, bèn lập mưu kế lừa gạt, vờ hòa hoãn với họ mà đang đêm tăng cường binh sĩ mưu trừ. Rồi ông cho tùy tướng Đào Phán bất ngờ ùa binh đánh lên diệt bọn Đỗ Quảng, Phí Lệ. Bọn họ xung phong tiến đánh quân của Đào Phán và chạy thoát được, Phán bèn đánh úp Đỗ Thế Qui, Qui bị bắt và bị tùng xẻo ở giữa chợ trời.

Huệ Tông sợ hãi, vội phong Trung Từ làm Thái úy phụ chính, ban tước Vương; sai người đi đón Trần Thị Dung và phong làm Nguyên phi (元妃), cho anh của Nguyên phi là Trần Tự Khánh (陳嗣慶) làm Chương Thành hầu (章成侯).

Sau khi dẹp được các thế lực chống đối mình, Tô Trung Từ lại bị giết đột ngột vào năm 1211 khi thông dâm với Thiên Cực công chúa - người trước đây đã tư thông với Phạm Du - và bị chồng công chúa là Vương Thượng bắt quả tang (Luật nhà Lý cho phép giết gian phu mà không bị tội). Quan đầu triều bị giết, kinh thành hỗn loạn. Con rể Trung Từ là Nguyễn Ma La thế cô, mưu dựa vào họ Trần, bèn cùng với vợ là Tô thị (em họ Tự Khánh) lên thuyền sang đạo Thuận Lưu để gặp bộ tướng của Tô Trung Từ là Nguyễn Trinh thì bị Nguyễn Trinh giết rồi cướp lấy Tô thị đem về. Tô thị sai người tố cáo với Trần Thừa. Trần Thừa bèn sai Tô thị dụ được Trinh và giết chết. Lực lượng của Tô Trung Từ tan rã hoàn toàn. Trần Tự Khánh nhân lúc Ma La kéo đi, kinh thành bỏ trống, lập tức mang quân về kinh sư và an táng Tô Trung Từ ở làng Hoạch.

Sau khi Tô Trung Từ chết, Huệ Tông dùng cậu là Đàm Dĩ Mông làm Thái úy phụ chính, Đàm thái hậu cũng xen vào việc chính sự. Họ Đàm muốn nhân quyền ngoại thích mà lộng hành, chính sự ngày càng suy.

Trần - Đoàn tranh vịSửa đổi

Hai lực lượng lớn nhất tranh quyền lúc đó là họ Trần và họ Đoàn. Lý Huệ Tông lo ngại ngoại thích nhà vợ họ Trần thế lực lớn, nên cùng ngoại thích nhà mẹ là cậu Đàm Dĩ Mông muốn dựa vào họ Đoàn. Nghe họ Đoàn gièm pha Trần Tự Khánh muốn phế lập, Huệ Tông tức giận hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh, và giáng Trần Thị Dung xuống làm Ngự nữ (御女). Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng.

Lúc bấy giờ, Trần Tự Khánh dẫn quân đi đánh khắp nơi, thu phục được nhiều đất, đặc biệt chiếm được Hồng châu, vùng từ Lạng châu đến núi Tam Trĩ hết thảy đều là đất của họ Trần.

Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nên nhanh chóng bị thua trận. Cánh quân Đoàn Thượng cử đi do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn (阮嫩) đánh bại. Huệ Tông bỏ chạy lên Lạng châu, quân họ Đoàn rút khỏi kinh đô trở về vùng Hồng.

Trần Tự Khánh cố thuyết phục Lý Huệ Tông trở về kinh không được, bèn lập một hoàng thân nhà Lý là Lý Nguyên Vương lên ngôi làm vua mới.

Bất lực trong đại loạnSửa đổi

Năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết chết được Đoàn Nguyễn. Tuy nhiên lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị (杜備) lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi đánh được họ Đoàn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về hành cung Lý Nhân (Hà Nam).

Song lực lượng họ Trần vẫn rất mạnh. Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải tính trở về dựa vào họ Trần. Cuối năm, Trần Tự Khánh dẫn binh đánh được Đinh Khả và Bùi Đô ở Đại Hoàng (Ninh Bình), chiếm luôn vùng đất này.

Năm 1216, Huệ Tông sách phong Ngự nữ Trần thị làm Thuận Trinh phu nhân (順貞夫人). Đàm thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, nên ghét Trần Thị Dung, bảo vua đuổi bỏ đi, lại nhiều lần muốn làm hại, nhưng Huệ Tông đều che chở.

Trước sức ép muốn giết con dâu của Đàm Thái hậu, Huệ Tông cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh. Tự Khánh bèn phế bỏ vua mới Lý Nguyên Vương, tôn Huệ Tông là vua như cũ mà chuyên tâm bình định các thế lực: Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Hiển Tín vương Nguyễn Bát, Đoàn Văn Lôi và Đoàn Thượng ở Hồng châu và Hà Cao ở Qui Hóa (Yên Bái, Tuyên Quang).

Họ Trần nắm quyềnSửa đổi

Cuối năm đó, mùa đông, Thuận Trinh phu nhân được sắc phong làm Hoàng hậu. Huệ Tông phong chức cho một loạt người họ Trần: Tự Khánh làm Thái úy phụ chính, anh trai Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ, tước Liệt hầu, Phùng Tá Chu làm Quan nội hầu; con trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu (陳柳) làm Quan nội hầu, con trưởng của Thái úy Tự Khánh là Trần Hải (陳海) làm Hiển Đạo vương (顯道王).

Năm 1217, Đoàn Thượng quy phục triều đình, được ban làm Hồng vương, cai quản Hồng Châu. Từ đấy, họ Đoàn yên bình, tự gây lực lượng cát cứ. Cùng năm đó, các thế lực cát cứ ở Phong Châu, Hiển Tín vương Lý Bát cũng đều quy phục triều đình. Lúc này, Huệ Tông thường phát điên, tự xưng là Thiên tướng, cắm cờ ở búi tóc, cầm giáo và khiên múa may, đến khi mệt thì uống rượu ngủ li bì. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay họ Trần.

Năm 1218, Trần Thừa đem binh thuyền tiến đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang. Ông cho người mở đê, để nước lan vào các thái ấp, rồi dùng binh thủy theo lối ấy mà đánh. Nộn thua to, chạy về Phù Ninh (Bắc Ninh). Năm đó, để yên Hồng châu, Trần Tự Khánh đưa em gái là Trần Tam Nương gả cho Hồng hầu là Đoàn Văn Lôi vốn là người có uy tín với người Hồng châu.

Năm 1219, các thủ lĩnh Phạm Dĩ (范以) và Hoàng Cá ở Nam Sách qua đời. Thuộc tướng là Nguyễn Lợi dâng thành cho Tự Khánh.

Năm 1220, Nguyễn Nộn tự xưng Hoài Đạo vương (怀道王), giữ hương Phù Đổng, dâng biểu xưng thần. Thái úy Tự Khánh phê chuẩn, từ đấy Bắc Giang không còn công khai đối kháng triều đình.

Năm đó, Thái úy Trần Tự Khánh cùng Trần Thừa đánh dẹp Hà Cao ở Qui Hóa. Ông chia làm 2 đạo quân, Trần Tự Khánh và Trần Thừa đi theo sông Qui Hóa; bộ tướng Lại Linh (赖靈) và Phan Cụ (潘埧) đi theo sông Tuyên Quang, nhưng Hà Cao cũng chia quân tiến đánh. Phan Cụ bị bộ tướng của Hà Cao là Nguyễn Nải chém chết. Nhưng Thái úy Tự Khánh đã bao vây thủ phủ của Hà Cao, khiến Cao và gia đình phải tự sát. Từ đấy lộ Thượng Nguyên (Bắc Cạn, Thái Nguyên) và sông Tam Đái (Vĩnh Phú) được dẹp yên.

Năm 1223, Thái úy Trần Tự Khánh qua đời, Huệ Tông lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, cho đặc quyền khi vào chầu không xưng tên. Lúc đó, Nguyễn Nộn lại bắt đầu mạnh lên, là mối nguy hại cho dòng họ Trần đang nắm giữ triều đình.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nêu ý kiến về việc này:[15]

...Năm đầu niên hiệu Kiến Gia, giặc cướp đua nhau nổi dậy, Huệ Tông nhu nhược không đánh dẹp được. Trần Tự Khánh vì cớ Huệ hậu bị thái hậu làm khổ mà đem quân phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy giờ, lòng người không thể không ngờ vực, cho nên Huệ Tông có lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm cho kỳ được mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải dời chỗ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ hậu rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy không kể đến. Thế là việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không nêu lên nhưng thực cũng có nêu đấy. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi.

Chiêu Hoàng nhường ngôiSửa đổi

Năm 1224, bệnh của Huệ Tông ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (陳守度) quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình. Con gái thứ 2 là công chúa Chiêu Thánh được lập làm Hoàng thái nữ (皇太女), rồi làm Hoàng đế, sử gọi là Chiêu Hoàng đế (昭皇帝). Huệ Tông truyền ngôi trở thành Thái thượng hoàng, rồi xuất gia ở chùa Chân Giáo gọi là Huệ Quang thiền sư trong đại nội hoàng cung. Đàm thái hậu cũng theo ông vào đây xuất gia.

Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Trần Cảnh (陳煚), con trai thứ của Trần Thừa được phong làm Chính thủ, cho hầu hạ gần gũi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng yêu mến. Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh làm chồng, rồi đến tháng 12 âm lịch năm 1225 (đầu năm 1226), ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế. Cha Trần Cảnh là Trần Thừa được tôn làm Thái thượng hoàng.

Ngôi nhà Lý chính thức chuyển sang nhà Trần. Nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua. Không lâu sau, thượng hoàng Huệ Tông bị Trần Thủ Độ bức tự sát ở chùa Chân Giáo.

Nhận địnhSửa đổi

Đời sau xem sử 3 đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông kế tục nhau, từ việc sửa trị, đánh dẹp các cát cứ trong nước tới việc diễu võ với phương Bắc, ra uy với phương Nam – những việc làm đó đều đặn thu được thành tựu, không hề thất bát, suy bại; vua sau đã thay nhưng vua trước như thể vẫn còn; nước Đại Cồ Việt trở thành Đại Việt tuần tự đi lên không bị suy sút, thua thiệt. Điều đó cho thấy một chính sách, tư tưởng nhất quán của các vua Lý. Cả ba vua đầu tiên của nhà Lý đều có tài văn võ kiêm toàn, kính Phật yêu dân, tuổi thọ cũng xấp xỉ nhau. 3 vị vua Lý này là những người đặt nền tảng cho một nhà Lý tồn tại bền vững hơn 200 năm, là triều đại đầu tiên truyền nối được lâu dài trong lịch sử Việt Nam, chấm dứt thời kỳ đất nước liên tục thay đổi, 6 dòng họ thay nhau cai trị thời thế kỷ X. Nhà Lý xác lập được bộ máy nhà nước phong kiến quy củ, nề nếp, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển ổn định.

Lý Nhân Tông là vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Việt Nam (56 năm). Võ công đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Tống trên sông Như Nguyệt thời Lý Nhân Tông thực chất là của những người phụ chính mà đội ngũ này được trưởng thành dưới thời Thánh Tông, do Thánh Tông cất nhắc, trọng dụng. Người theo thuyết nhân quả của đạo Phật có thể cho rằng việc làm thất đức của Thái hậu Ỷ Lan (sát hại Hoàng thái hậu Thượng Dương và các cung nữ của Thánh Tông) khiến vua con phải trả giá tuyệt tự.

Từ thời Nhân Tông trở về sau, liên tiếp các vua Lý kế nghiệp đều thơ ấu, đó cũng là điều không may cho nhà Lý. Nhờ nền móng vững chắc do 3 đời vua đầu tiên xây dựng, cơ nghiệp nhà Lý tiếp tục được duy trì, nhưng các phụ chính đời sau như Đỗ Anh Vũ, Đỗ Kính Tu, Đàm Dĩ Mông không thể sánh được với Thái hậu Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành. Tô Hiến Thành tài năng nhưng không thể sống mãi để dìu dắt vua Cao Tông trở thành một vua Nhân Tông thứ hai. Sau khi Hiến Thành mất, nhà Lý trượt dốc không có ai đứng ra cứu vãn được. Tới khi họ Trần vào triều phụ chính, việc nhà Lý bị thay thế trở nên không đảo ngược được. Do nhà Nam Tống khi đó cũng đã yếu mòn nên suốt thời gian suy vong của nhà Lý tới khi chuyển ngôi cho nhà Trần, Đại Việt không bị nước láng giềng lớn ở phương Bắc nhòm ngó như các thời cuối Trần đầu Hồ và cuối Lê đầu Mạc sau này.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Nguồn gốc
    • 1.2 Thay ngôi nhà Lý
    • 1.3 Dẹp nội loạn
    • 1.4 Thời kỳ thống trị
      • 1.4.1 Thái Tông
      • 1.4.2 Thánh Tông – Nhân Tông
      • 1.4.3 Anh Tông – Minh Tông
    • 1.5 Thời kỳ suy tàn
      • 1.5.1 Dụ Tông suy trị
      • 1.5.2 Loạn Dương Nhật Lễ
      • 1.5.3 Hồ Quý Ly chiếm ngôi
      • 1.5.4 Nhà Hậu Trần chống quân Minh
    • 1.6 Nhận định
      • 1.6.1 Về chiến thắng Mông - Nguyên
      • 1.6.2 Về hậu kỳ nhà Trần
  • 2 Quan hệ đối ngoại
    • 2.1 Chiêm Thành
    • 2.2 Ai Lao
  • 3 Tổ chức quân đội
  • 4 Chiến tranh chống Mông Nguyên
  • 5 Hành chính
  • 6 Luật pháp
  • 7 Kinh tế
  • 8 Giáo dục, thi cử
  • 9 Tôn giáo
  • 10 Văn hóa nghệ thuật
  • 11 Chính sách hôn nhân
  • 12 Những nhân vật có ảnh hưởng nhất triều Trần
  • 13 Các Hoàng đế nhà Trần
  • 14 Thế phả nhà Trần
  • 15 Đền thờ, lăng mộ
  • 16 Xem thêm
  • 17 Chú thích
  • 18 Tham khảo
  • 19 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Nguồn gốcSửa đổi

Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề chài lưới, có gốc là người đất Mân ở tỉnh Phúc Kiến di cư đến đất Đại Việt đầu tiên ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) sau dời đến Tức Mặc, Nam Định. Những hậu duệ của nhà Trần là con cháu lai giữa dòng dõi nhà Trần và dòng dõi nhà Lý trừ trường hợp của Trần Lý, Trần Thừa, và con của Trần Thừa là Trần Cảnh vị vua đầu tiên của nhà Trần. Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân (con cháu Trần Ích Tắc) còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc ngày nay)[1]

Người họ Trần đầu tiên đến Đại Việt là Trần Kinh (陳京), đến định cư tại làng Tức Mặc (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) sống bằng nghề ngư sinh vào đầu thế kỷ XII. Cụ Trần Kinh sinh ra cụ Trần Hấp, cụ Trần Hấp sau sinh ra cụ Trần Lý. Gia đình cụ Trần Hấp có gia sản lớn, kẻ ở người làm đông đến vài trăm, anh em Trần Lý cũng bỏ hẳn nghề chài lưới để chuyển sang quản lý điền trang, tuyển mộ người ở. Gia tộc họ Trần dần có địa vị, trở thành tầng lớp trên của xã hội bấy giờ.

Sau ba đời con cháu sống ở Đại Việt, họ Trần trở nên giàu có và hùng mạnh dưới đời cụ Trần Lý. Cụ Trần Lý đến tuổi trưởng thành lấy bà Tô Thị Hiền (bà này có người em ruột là Tô Trung Từ, giữ chức Thái úy Phụ chính, tước Thuận Lưu bá, dưới triều Lý Huệ Tông). Họ sinh được bốn người con: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Thị Tam Nương.

Trần Thừa lấy bà họ Lê (con gái ông Lê Điện, quan Thái phó triều Lý), sau này sinh ra 3 con trai là Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu và 2 con gái. Trần Cảnh là con thứ của Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, tức Kiến Gia năm thứ 8 triều Lý (9/7/1218).[2] Như vậy Trần Cảnh (vua đầu tiên của nhà Trần) là cháu 4 đời của Trần Kinh (tổ họ Trần).

Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".

Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.

Thay ngôi nhà LýSửa đổi

Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp.

Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hóa, Thái tử Lý Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh.

Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi là Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm Nguyên phi (元妃). Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái úy phụ chính, còn Tự Khánh được phong Chương Thành hầu (章成侯).

Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Đàm thái hậu (譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông (譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưng không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát.

Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng (段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Tháng 12 năm Bính Tý 1216, Lý Huệ Tông phong Trần Thị Dung làm Hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm Thái úy Phụ chính, anh cả của Hoàng hậu là Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ.

Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh được hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Thuận Thiên sau là Lý Thuận Thánh, lấy Trần Liễu; Chiêu Thánh sau là Lý Chiêu Hoàng, lấy Trần Cảnh. Vậy là hai chị em công chúa con vua Lý Huệ Tông đều lấy hai anh em ruột con của Trần Thừa (tức là anh em họ con cô con bác lấy nhau).

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ, em họ của Trần Thừa (陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Vua Lý Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, khi vào chầu miễn cần xưng tên.

Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để ép vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.

Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa (Trần Thái Tổ).

Dẹp nội loạnSửa đổi

Từ năm 1211, trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực lớn là:

  • Họ Đoàn, Đoàn Thượng (Hải Dương và Hải Phòng).
  • Họ Trần, Trần Tự Khánh (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).
  • Họ Nguyễn, Nguyễn Nộn (Quốc Oai, Hà Tây)

Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong thời gian nắm quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau.

Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý.

Thời kỳ thống trịSửa đổi

Thái TôngSửa đổi

Cuju, môn thể thao được cho là thịnh hành của giới cung cấm quý tộc ở nhà Tống lẫn nhà Lý, Trần thời bấy giờ.

Trần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp chính và thực sự nắm quyền hành.

Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là:

  • Mở khoa thi Tam giáo (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo) sau nhiều năm bị gián đoạn do loạn lạc cuối thời Lý. Định đặt luật pháp, soạn ra bộ Quốc triều hình luật gồm 20 quyển để định tội danh trong nước. Đáng tiếc bộ sách này đã bị thất truyền.
  • Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương thay phiên nhau canh giữ. Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ. Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thái thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi Hoàng đế ở). Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.
  • Thủy lợi cũng được coi trọng. Năm 1231, sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào[3] từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Việc xong, thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu.
  • Bắt đầu định luật hành chính. Chia đất nước làm 12 lộ. Đặt các chức quan cai trị. Làm đơn sổ hộ khẩu, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp một quan tiền, có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.
  • Bắt đầu thông thương nơi biên giới, để có thể giao thương với nhà Tống ở Giang Nam. Khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông. Nếu có sứ mệnh thì chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến cống có bao nhiêu thì gói bọc đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh, chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến bây giờ, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống.

Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép:..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, cách 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.

Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Sau đó ông lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập. Giai đoạn này gọi là Nguyên Phong chi trị (元豐之治).

Năm 1258, sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai của người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (陳晃), tự xưng là Thái thượng hoàng. Từ đấy, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, Thượng hoàng tuy nhường ngôi nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần chính sự.

Trần Hoảng lên ngôi, sử gọi là Trần Thánh Tông.

Thánh Tông – Nhân TôngSửa đổi

Dưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng (仁皇), niên hiệu cải thành Thiệu Long (紹隆).

Trần Nhân Tông (陳仁宗)

Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần nhiều là công sức của ông. Đến đây, truy phong làm Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (上父太師忠武大王).

Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước.

Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết. Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.

Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Khâm (陳欽), sử gọi là Trần Nhân Tông. Nhân Tông xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇), đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (紹寶).

Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong số đó.

Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lược, nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (興道王陳國峻) làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1288. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo.

Năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm, thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng là rất tôn xứng.

Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài kinh thành lại đói to, 3 thăng gạo giá một quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá một quan tiền. Ngay lập tức, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có thể mua chuộc lại ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần dần cải thiện.

Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên (陳烇), sử gọi là Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng làm Anh Hoàng (英皇).

Anh Tông – Minh TôngSửa đổi

Anh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông.

Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài (段汝諧), mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.

Trần Anh Tông (陳英宗)

Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng.

Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (阮忠彥), Trần Thì Kiến (陳時見), Bùi Mộc Đạc (裴木鐸).

Về lễ phục quan lại, Anh Tông quy định áo mũ, kiệu ngồi cũng rất chặt chẽ, rõ ràng. Năm 1300, quy định quan văn thì đội mũ Đinh tự màu đen, tụng quan thì đội mũ Toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến một thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên). Nhưng đến năm sau, đổi lại thành các quan văn võ đều đội mũ Đinh tự, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc. Các kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ Triều thiên, người tóc ngắn đội mũ Bao.

Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa (玄珍公主) cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được một năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung (陳克終) cướp công chúa về, từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV) đánh trả nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả.

Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh, sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng (宁皇). Thượng hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế (英明晟世), kéo dài hơn 60 năm hưng thịnh.

Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân (英思夫人), con gái một quan viên họ Lê, và em phu nhân là Sung viên Lê thị (充媛黎氏). Cả hai bà đều sinh ra các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai. Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (陳旺), Trần Phủ (陳暊) còn Lê sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính (陳曔).

Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh hoàng hậu (麗聖皇后) là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱), một đại thần trụ cột đương thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú. Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói địa vị của Quốc Chẩn rất cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục của Trần Khắc Chung (陳克終), Văn Hiến hầu (文獻侯) là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng.

Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, Minh Tông lập con của Lệ Thánh hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự, thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu.

Thời kỳ suy tànSửa đổi

Dụ Tông suy trịSửa đổi

Trần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.

Chu Văn An (朱文安), một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ (七斬疏) đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.

Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua. Có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (陳元卓) đã yểm bùa hại ông. Dụ Tông chút nữa là sát hại Nguyên Trác, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu đã can ngăn.

Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi.

Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài.

Loạn Dương Nhật LễSửa đổi

Năm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm.

Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục (陳元育) được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Nhật Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương (楊姜). Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu.

Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa (天寧公主) xâm nhập vào cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết.

Mùa đông, tháng 10 năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán (陳元旦) cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công (昏德公).

Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.

Hồ Quý Ly chiếm ngôiSửa đổi

Nghệ Hoàng giữ ngai vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện (陳晛) lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly (黎季犛), là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng.

Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung (陳顒), tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.

Do sự suy yếu chính quyền, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Cụ thể là khởi nghĩa của:

  1. Ngô Bệ.
  2. Nguyễn Thanh cùng với cậu hai là Nguyễn Kỵ và em út là Nguyễn Bổ.
  3. Nguyễn Nhữ Cái.
  4. Phạm Sư Ôn - tăng sư nổi tiếng.

Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì.

Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng (國祖章皇).

Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân (陳渴真) cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ (胡), lập ra triều đại nhà Hồ.

Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

Nhà Hậu Trần chống quân MinhSửa đổi

Hồ Quý Ly làm vua được 7 năm thì mất nước vào tay quân Minh. Tôn thất nhà Trần khởi nghĩa chống quân Minh, nhà Trần được tái lập bởi Giản Định đế - Trần Ngỗi vào tháng 10 âm lịch năm 1407 tại Ninh Bình.

Bị quân Minh truy sát, Giản Định đế chạy vào Nghệ An, viên Đại tri châu châu Hóa là Đặng Tất giết quan nhà Minh, dẫn quân từ Hóa châu ra theo phò, nhà Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An vào Thanh Hóa. Năm 1408, quân Hậu Trần tiến quân ra Bắc, đánh bại quân Minh do Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô, bao vây các thành, cơ hội khôi phục nhà Trần, giành lại đất nước trở nên rõ ràng. Nhưng năm 1409, Giản Định đế nghe lời gièm pha, giết 2 tướng trụ cột là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, khiến cho 2 người con của họ là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị kéo quân trở về Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên làm vua, hiệu là Trùng Quang đế. Trùng Quang đế bắt Giản Định đế và tôn làm Thượng hoàng, cả hai cùng nhau đánh quân Minh. Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh sai Trương Phụ đem quân tiếp viện cho Mộc Thạnh. Giản Định đế thua trận bị xử tử. Trùng Quang đế núng thế, lui dần về phía Nam và thất bại hoàn toàn trong trận đánh đẫm máu ở Thuận Hóa năm 1414. Trùng Quang đế tự sát. Như vậy nhà Hậu Trần gồm 2 vua, kéo dài được 7 năm (1407-1414).

Do Trùng Quang đế và Giản Định đế đều là thành viên hoàng tộc nhà Trần, có công lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm nên dù thất bại trong việc khôi phục nhà Trần và nước Đại Việt, họ vẫn được người dân coi là 2 vị vua chính thống của nhà Trần và nước Đại Việt. Do vậy các đền thờ nhà Trần thường có tượng thờ và bài vị 14 vị vua (gồm 12 vua nhà Trần và 2 vua nhà Hậu Trần).

Nhận địnhSửa đổi

Về chiến thắng Mông - NguyênSửa đổi

Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.[4]

Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...[5]

Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần.

Về hậu kỳ nhà TrầnSửa đổi

Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.

Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Trần Dụ Tông thích xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Hồ Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Nghệ Tông đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của Trần Duệ Tông, không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.[6]

Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu lại thất bại và phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Nguyên Mông xưa kia. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.[7]

Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau.