Show Ngo Thinh2021-09-14T01:45:15+07:00 (Last Updated On: 14/09/2021) Theo cách hiểu thông thường: Từ Hán Việt là những từ gốc Hán, được phát âm theo âm Hán Việt, là sản phẩm Việt hóa các yếu tố gốc Hán. Với tư cách là một thuật ngữ ngôn ngữ học: Từ Hán Việt là những từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi là từ Việt gốc Hán. 2. Những biện pháp việt hóa từ ngữ gốc hán chủ yếua. Từ ngữ Hán được vay mượn trọn vẹn hai mặt kết cấu và ý nghĩa, chỉ Việt hóa âm đọc. Những từ ngữ Hán được vay mượn vẫn giữ nguyên kết cấu, ý nghĩa cơ bản ngoài những từ đơn như: tâm, tài, mệnh, phú v.v… thường là từ ghép song âm và rải ra khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội, từ quá khứ đến hiện tại ví dụ: đế vương, khanh tướng, đại thần, nhân dân, quần chúng, chủ tịch, thủ tướng, nội các, văn chương, khoa cử, trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, cử nhân, tú tài, dân chủ, xã hội, cai trị, trị vì, công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, chỉ huy, tác chiến, công sự, chinh chiến, xuất chinh, chinh phu, chinh phụ, chinh phục, chuyên môn, chuyên chính, chuyên dụng, chuyên nghiệp v.v… Biện pháp này tạo ra một số lượng lớn từ Hán Việt. b. Từ ngữ Hán được giữ nguyên nghĩa, thay đổi hình thức cấu tạo, âm thanh. – Rút gọn các yếu tố trong cấu tạo từ. Ví dụ: Thừa trần (nghĩa đen là “hứng bụi – một bộ phận kiến trúc ngăn cách không gian nhà ở với mái nhà”) thành trần (nhà). Lạc hoa sinh thành lạc (cây lạc, củ lạc). – Đảo vị trí các yếu tố trong cấu tạo nội bộ từ ghép. Ví dụ: nhiệt náo (Hán) thành náo nhiệt (Việt) thích phóng (Hán) thành phóng thích (Việt) cáo tố (Hán) thành tố cáo (Việt) thương tang (Hán) thành tang thương (Việt) – Hoặc thay đổi các yếu tố trong một từ, một ngữ. Ví dụ: nhất cử lưỡng đắc (Hán) thành nhất cử lưỡng tiện (Việt) an phận thủ kỉ (Hán) thành an phận thủ thường (Việt) cửu tử nhất sinh (Hán) thành thập tử nhất sinh (Việt). c. Từ ngữ Hán được giữ nguyên hình thức cấu tạo từ nhưng có sự thay đổi về nghĩa. – Đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, mở rộng nghĩa Ví dụ: phương phi (Hán) vốn nghĩa là “hoa cỏ thơm tho”, vào tiếng Việt lại có nghĩa là “béo tốt” (mặt mũi phương phi, người trông phương phi, béo tốt) . khôi ngô (Hán) vống nghĩa là ” người to lớn , cao lớn”, vào tiếng Việt có nghĩa “mặt mũi sáng sủa dễ coi” (gương mặt khôi ngô) đinh ninh (Hán) vốn có nghĩa “dặn dò, nói đi nói lại, dặn đi dặn lại”, ta thêm nghĩa “tin chắc, yên trí”, “không thay đổi” ( cứ đinh ninh là nó còn đang ở nhà; Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Những lời hò hẹn vẫn còn đinh ninh. – ca dao), trong khi đó nghĩa “nhắc đi nhắc lại, nói đi nói lại cho nhớ, cho in sâu vào tâm khảm…” vẫn được dùng (Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song – Truyện Kiều). – Cũng có trường hợp, từ ngữ Hán vừa bị rút gọn lại vừa bị đổi nghĩa không còn giữ lại nét nghĩa nào vốn có trong Hán ngữ, ví dụ như: lang bạt kì hồ (Hán) chẳng hạn, vốn là một câu thơ trong Kinh Thi, được rút gọn lại và mang một nghĩa chuyển rất xa trong tiếng Việt (cuộc đời lang bạt). – Có những từ ngữ Hán vào tiếng Việt đã chuyển đổi màu sắc tu từ. Ví dụ: thủ đoạn (Hán) vốn không có hàm ý xấu tốt, chỉ có nghĩa tương tự như: “cách thức, biện pháp, phương cách…”, nhưng với tư cách là một từ Hán Việt, “thủ đoạn” mang hàm ý xấu: “mánh khóe khôn ngoan và xảo trá, ác độc” (thủ đoạn bóc lột, thủ đoạn lừa đảo, một kẻ rất thủ đoạn v.v…) dã tâm trong tiếng Hán cũng không hàm ý xấu tốt, chỉ có nghĩa tương tự như: “khát vọng” nhưng với tư cách là một từ Hán Việt, dã tâm lại có hàm ý xấu: “lòng dạ hiểm độc” (dã tâm đen tối của kẻ thù) . Những từ gốc Hán được vay mượn không nhất thiết chỉ nhằm mục đích khỏa lấp chỗ trống do tiếng Việt còn thiếu từ tương ứng mà còn nhằm làm phong phú thêm sắc thái biểu cảm, tạo ra một phong thái trang trọng, tinh tế, uyển chuyển khi cần thiết hoặc tăng cường tính khái quát, trừu tượng hóa qua từ được dùng. Hiện tượng này có thể dễ dàng nhận thấy qua sự đối chiếu những từ Việt sẵn có và từ gốc Hán được vay mượn có quan hệ đồng nghĩa. Ví dụ: “vợ” và phu nhân “mẹ” và thân mẫu, cụ bà thân sinh “mẹ vợ” và nhạc mẫu “bố” và thân phụ, cụ ông thân sinh “bố vợ” và nhạc phụ “lấy vợ lấy chồng” và kết hôn, thành thân “đám cưới” và hôn lễ “đàn bà” và phụ nữ, nữ giới “trẻ con” và nhi đồng “đàn ông” và nam giới “xác chết” và tử thi, thi hài “ăn mày” và hành khất “núi sông” và giang sơn, sơn hà. d. Dùng từ Hán được vay mượn như những yếu tố tạo từ Hán Việt Những từ được tạo ra bằng biện pháp này gồm hai loại: – Cả hai yếu tố tạo thành từ ghép đều là gốc Hán, ví dụ: sản xuất, sĩ diện, luận án,linh động, y tá, y tế, dược tá, trạm xá, chánh văn phòng, phó văn phòng, quả tình, hành …. – Trong hai yếutố tạo thành từ ghép, một yếu tố là Việt, ví dụ: bao gồm, bồi đắp, sống động, thanh vắng, bao bọc, chối từ, binh lính, chân thật… e. Chuyển dịch, sao phỏng các từ ngữ gốc Hán nhằm xây dựng và bổ sung vốn từ tiếng Việt. Ví dụ: thiên địa (thuở trời đất), phong trần (gió bụi), hồng nhan (khách má hồng), thương (ông xanh), cửu trùng (chín tầng), thiên hạ (nước), nhung y (áo nhung), vũ thần (quan võ), tải đạo (chở đạo). Ngày nay, biện pháp sao phỏng này vẫn được dùng để Việt hóa sâu hơn nữa những từ ngữ gốc Hán. Có thể nêu một số ví dụ như sau: thiết lộ/ đường sắt, khí xa/ xe hơi, hỏa tiễn/ tên lửa, phi cơ/ máy bay, phi trường /sân bay, nhãn khoa/ khoa mắt, niêm mạc/ màng nhầy, đoạn mại/ bán đứt, giác ngạn/ bến giác (chữ nhà Phật), trung tu/ sửa chữa vừa, đại tu/ sửa chữa lớn, độc giả/ bạn đọc, khán giả/ người xem, thượng bán niên/ nửa năm đầu, hạ bán niên / nửa năm cuối, thúc thủ/ bỏ tay, nhược tiểu/ nhỏ yếu, đa số/ số đông, thiểu số/ số ít, sơ bộ/ bước đầu, thâm nhập/ đi sâu v.v… Có thể coi những cặp từ được nêu làm ví dụ trên đây là những cặp từ đồng nghĩa hoàn toàn, có thể thay thế cho nhau trong mọi trường hợp. Và sự lựa chọn của người bản ngữ hiện nay là nghiêng về phí những từ mang nhiều sắc thái Việt hơn ( ví dụ giữa hỏa xa và “xe lửa” thì chọn “xe lửa”; thiết lộ và “đường sắt” thì chọn “đường sắt”). Có một số vấn đề cần lưu ý ở đây là: khuynh hướng lựa chọn nói trên cố nhiên sẽ được điều chỉnh trong những trường hợp cần phải cân nhắc tới màu sắc tu từ ( ví dụ như khi cần lựa chọn để sử dụng cho phù hợp những cặp từ đồng nghĩa: phụ nữ/ đàn bà, phu nhân / vợ v.v…) hoặc trong những khuôn khổ nhất định của yêu cầu biểu đạt, đặc biệt là trong các văn bản mang phong cách khoa học, như ” tình nhân loại” thì được chấp nhận, còn nếu chuyển thành “tình loài người” thấy rất ngây ngô và ý nghĩa cũng không thật hoàn hảo, mặc dù ở những chỗ khác, nhân loại có thể chuyển thành loài người. 3. Lỗi thường gặp trong sử dụng từ Hán Việt.a. Lỗi về cấu tạo từ Tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình từ và từ Hán Việt cũng mang đặc điểm này. Trong quá trình sử dụng, phải lưu ý dùng đúng về mặt âm thanh và cấu tạo từ đã được cộng đồng quy ước. Để tránh lỗi về cấu tạo từ, cần tránh: – Tự cải biến cấu tạo của từ Các biện pháp Việt hóa từ ngữ gốc Hán đều tạo ra một số lượng hữu hạn từ Hán Việt và các từ Hán Việt rất ổn định về mặt cấu tạo. Việc tự ý thay đổi cấu trúc từ sẽ dẫn đến sự sai lệch cả về cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Ví dụ 1. Trên một tờ báo của ngành truyền thông đại chúng có một câu như sau: Đây là một sản phẩm gốm nung có các văn hoa sặc sỡ. Văn hoa xuất hiện ở câu này không đúng chỗ, vì văn hoa và hoa văn tuy đảo vị trí các âm tiết như chức viên với viên chức nhưng nghĩa của chúng lại hoàn toàn khác nhau. Hoa văn là hình trang trí có tính đặc thù của các dân tộc người, thường vẽ, dệt, khắc, chạm trên đồ vật: hoa văn trống đồng, hoa văn trên thổ cẩm của người Thái; còn văn hoa có nghĩa “văn vẻ, hoa mĩ”, ví dụ như: lời lẽ văn hoa. Như vậy, trong câu trích dẫn trên kia, nên dùng hoa văn sẽ đúng hơn. Qua câu văn được trích dẫn, có thể đưa ra một vài nhận xét liên quan đến vấn đề Việt hóa từ ngữ Hán vay mượn và vấn đề dùng cho đúng từ Hán Việt như sau: Như chúng ta đều đã biết, một trong những biện pháp Việt hóa từ ngữ Hán được vay mượn là đảo vị trí các yếu tố tạo thành từ ghép song âm tiết, (nhưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa) ví dụ như: lệ ngoại (H)/ ngoại lệ (V), động dao (H)/ dao động (V), cứu cấp (H)/ cấp cứu, chức viên (H)/ viên chức (V), nội hướng (H)/ hướng nội (V), ngoại hướng (H)/ hướng ngoại (V), cải hoán (H)/ hoán cải (V), trừ ngoại (H)/ ngoại trừ (V), khai triển (H)/ triển khai (V) v.v… Nhưng, sự thay đổi này cũng có giới hạn và cần lưu ý đến những trường hợp đảo vị trí sẽ dẫn đến những ý nghĩa khác, hoặc một từ khác, kiểu như: vãng lai khác lai vãng. – Tự tạo từ Hán Việt bằng cách lắp ghép Tạo ra từ mới là việc làm cần thiết để phát triển vốn từ. Tuy nhiên, từ mới phải được hình thành theo những quy tắc nhất định và phải được cộng đồng sử dụng ngôn ngữ chấp nhận. Ví dụ: Tác quyền là một từ mới được hình thành trên cơ sở kết hợp nghĩa của hai từ tác giả và quyền. Tác quyền có nghĩa là “quyền tác giả”. hoặc vốn pháp định là một từ được hình thành trên cơ sở nghĩa của 3 từ: vốn, pháp luật, quy định. Trong thực tế, có nhiều tổ hợp từ được hình thành theo kiểu lắp ghép và kết quả là không được chấp nhận khi sử dụng. Ví dụ: Trong hệ thống từ Hán Việt, có nhiều từ được cấu tạo theo dạng Đa + x, Ví dụ như: đa tài, đa tình, đa sầu, đa cảm, đa thê, đa hệ… với đa có nghĩa là “nhiều“. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự kết hợp nào của đa với một yếu tố khác cũng có thể chấp nhận được. Chẳng hạn có người viết Bà chủ quán là một người đa chồng thì đa chồng là một sự kết hợp sai, là một sự lắp ghép không được chấp nhận, nó là một sự lắp ghép không cần thiết, chỉ làm cho tiếng Việt thêm mù mờ, tối nghĩa. Trong trường hợp này chỉ có thể dùng cụm từ thuần Việt lắm chồng, nhiều chồng. Còn từ Hán Việt tương đương đa phu chỉ được dùng trong ngành Nhân loại học văn hóa, không được dùng trong trường hợp chỉ một người cụ thể. – Không nắm rõ hình thức vốn có của từ. Mỗi từ Hán Việt thường có một hình thức cấu tạo n hất định. Tuy nhiên, khi sử dụng có từ bị đọc nhầm âm. Ví dụ: Tham quan thường bị nhầm thành thăm quan. Tham quan là một từ Hán Việt đã được mượn từ lâu. Trong tiếng Hán, tham có hai nghĩa và được mượn vào tiếng Việt trong hai dãy từ phái sinh khác nha u. Với nghĩa “tham gia”, tham có mặt trong các từ Hán Việt: tham chiến, tham chính, tham dự, tham gia, tham luận… Với nghĩa “tham khảo”, tham có mặt trong : tham bác, tham khảo, tham quan, tham vấn… Trong tiếng Việt tham quan có nghĩa “xem nhìn tận nơi để thêm hiểu biết và học hỏi kinh nghiệm”. Nghĩa đầy đủ của tham quan không được phản ánh trong thăm quan, vì thăm chỉ là “đến hỏi han, xem xét để biết tình hình”. Dùng Thăm quan thay cho tham quan là sai. Và nếu nói:
Hoặc các tổ hợp dưới đây cũng bị coi là sai về mặt hình thức cấu tạo:
– Nhầm lẫn các từ gần âm
b. Lỗi về nghĩa Cũng như từ thuần Việt, nghĩa là một mặt rất quan trọng của từ Hán Việt. Nghĩa này được quy ước và được sử dụng thống nhất trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, đây là một lớp từ vay mượn bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau nên việc hiểu đúng nghĩa của từ để sử dụng lại là một vấn đề còn nhiều khó khăn. Sự nhầm lẫn về nghĩa của từ dẫn đến sử dụng không đúng ngữ cảnh giao tiếp. Ví dụ: Từ cứu cánh có nghĩa là “mục đích”, nhưng trên thực tế lại có rất nhiều người dùng với nghĩa “cứu giúp”. Vì vậy, có cách dùng: Tập tài liệu này là cứu cánh cho các sinh viên trong kỳ thi. Và cách dùng đó là sai. Cam lai có nghĩa là “ngọt lại“, nhưng có người hiểu nghĩa là “cam lai ghép“. Chẳng hạn, thơ Bác có viết: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai”. thì cam lai ở đây được hiểu là cuộc sống hạnh phúc, sung sướng đã quay trở lại với con người. Hoặc có cách dùng từ bao biện với nghĩa là “dùng những lập luận có vẻ như hợp lí nhưng thật ra là sai lầm để tranh cãi trong một vấn đề” trong câu: Nói như thế là bao biện, sự thật không phải như vậy. Trong khi đó, nghĩa của từ bao biện là “Ôm đồm làm cả việc thuộc phận sự của người khác, khiến người có trách nhiệm không phát huy được sáng kiến ”. Ở câu trên, phải dùng từ ngụy biện mới chính xác về nghĩa: “Nói như thế là ngụy biện, sự thật không phải như vậy.” c. Lỗi về phong cách Từ Hán Việt có tính chất tĩnh, ít gợi hình ảnh, ổn định về nghĩa và đặc biệt có tính trang trọng, nghiêm túc. Do đó, nó phù hợp với các phong cách ngôn ngữ gọt rũa như phong cách ngôn ngữ hành hính, phong cách ngôn ngữ chính luận…Riêng đối với phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hoặc ngôn ngữ văn chương nghệ thuật, tỉ lệ từ Hán Việt xuất hiện ít hơn vì hai phong cách ngôn ngữ này đòi hỏi từ ngữ cụ thể, sinh động, giàu hình ảnh. Khi sử dụng, nên lưu ý tới đặc điểm này để tránh lỗi. Ví dụ: Trong khẩu ngữ, không nên nói: Họ tương trợ nhau vượt qua khó khăn. Nên nói: Họ giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn Hoặc trong văn bản hành chính lại nên viết: Dự trù kinh phí tổ chức ngày Nhà giáo Việt Nam. mà không nên viết: Dự trù tiền tổ chức ngày Nhà giáo Việt Nam. d. Lạm dụng từ Hán Việt. Mặc dù từ Hán Việt là một lớp từ rất quan trọng, song không nên lạm dụng. Trên thực tế, có nhiều trường hợp không chú ý đến yêu cầu này khiến văn bản trở nên mơ hồ, khó hiểu thậm chí bị sai lệch trong việc hiểu nội dung văn bản. Chỉ dùng từ Hán Việt khi từ thuần Việt không có hoặc không biểu đạt được ý nghĩa. Tránh dùng những từ Hán Việt cổ hoặc không thông dụng gây mơ hồ về nghĩa hoặc sai lệnh nội dung văn bản. Ví dụ: Không nên dùng: Học hiệu đã triển khai nhiệm vụ năm học mới mà nên dùng: Nhà trường đã triển khai nhiệm vụ năm học mới. hoặc nên dùng: Chúng tôi đón Đoàn tại Sân bay Quốc tế Nội Bài. mà không nên dùng: Chúng tôi đón Đoàn tại Phi trường Quốc tế Nội Bài. 4. Một số lưu ý khi sử dụng từ Hán Việt– Dùng từ Hán Việt đúng âm, đúng nghĩa. – Dùng từ đúng phong cách ngôn ngữ. – Tránh lạm dụng từ Hán Việt. – Đối với các cặp từ Hán Việt và thuần Việt đồng nghĩa, cần thấy rằng bên cạnh sự giống nhau, giữa chúng vẫn có 3 điểm khác nhau: + Khác nhau về sắc thái ý nghĩa + Khác nhau về sắc thái biểu cảm + Khác nhau về màu sắc phong cách. – Cần phân biệt để tránh nhầm lẫn giữa các từ Hán Việt gần âm, đồng âm. – Với các từ Hán Việt bị biến nhiều âm đọc khác nhau, cần căn cứ vào từ điển để lựa chọn âm đọc đúng. – Dùng từ Hán Việt đúng hoàn cảnh, đối tượng, nội dung và đích giao tiếp. 5. Mở rộng vốn từ Hán Việt1. Các yếu tố chỉ số
2. Các yếu tố chỉ màu sắc
3. Các yếu tố chỉ cây cối và bộ phận cây cối
4. Các yếu tố chỉ cảnh vật tự nhiên
5. Các yếu tố chỉ tổ chức xã hội
6. Các yếu tố chỉ quan hệ thân thuộc và quan hệ xã hội
7. Các yếu tố chỉ thời gian
8. Các yếu tố chỉ không gian.
9. Các yếu tố chỉ vật dụng
10. Các yếu tố chỉ hoạt động, trạng thái
11. Các yếu tố chỉ tính chất.
(Nguồn tham khảo: Giáo trình tiếng Việt Thực hành, Trường đại học Nội vụ) |