Văn học Việt ra đời khi nào

Văn học viết được chia thành 2 giai đoạn gồm:

+TK X- cuối thế kỉ XIV
+TK XV- nửa đầu TK XVIII
+Nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX
+Nửa cuối thế kỉ XIX
-Văn học hiện đại:
+Trước cách mạng tháng 8-1945:Chia làm 3 chặng
*Chặng 1: 2 thập kỉ đầu thế kỉ XX
*Chặng 2: những năm 20 của thế kỉ XX
*Chặng 3: 1930- 1945
+Sau cách mạng tháng 8-1945
*1945- 1954( văn học kháng chiến chống Pháp)
*1954- 1975( văn học thời chống Mĩ)

Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
Văn học Việt ra đời khi nào
Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựaThúy Kiều Truyện tường chúviết bằng kiểu chữlệ thưdo Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967

Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân tộc Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.

Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đạiHùng Vương,người Việtđã có một nềnvăn hóavới nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiềuthần thoạivàtruyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóaTrung Quốctiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóachữ Hántrên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu củatiếng Việtmà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.

Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên:chữ Nôm.

Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳnước Việtgiành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính chất trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệNho giáolúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như một "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau một thời gian dài văn-sử-triết bất phân. Ba dòng tư tưởngNho-Phật-Lãotrở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất cận nhân tình.

Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể - tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theoDương Quảng Hàm(trong quyểnVăn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:

  • Vận văn: tức loại văn có vần
  • Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (nhưcâu đối)
  • Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.

Cuốithế kỷ 18trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà Chúa thơ Nôm"Hồ Xuân HươngvàTruyện Kiều(củaNguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật củachữ Nômtrong văn họcViệt Nam.

Từ khi có việc truyền báchữ quốc ngữvàoViệt Namthì diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thốngphương Đôngthì sự thâm nhập củaphương Tâymang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viếtViệt Namgiữa hai thời kỳ lớn: Văn học Trung đại và Văn học Hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:

  • Thời kỳ văn học Trung đại (từthế kỷ 10đến cuốithế kỷ 19) gồm:tự sựtrữ tình.
  • Thời kỳ văn học Hiện đại (từ đầuthế kỷ 20đến nay) gồm:tự sự,trữ tình,kịch.

Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.