Trong xây dựng có khá nhiều các khái niệm liên quan đến chi phí. Nếu không có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, bạn sẽ rất dễ dàng bị nhầm lẫn giữa các khái niệm này. Trong bài viết này, chúng tôi cùng các bạn sẽ tìm hiểu về “Chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng là gì” để xem chi phí này được tính ra sao, có gì khác so với các loại chi phí trong xây dựng khác. Show
Chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng là gì?Hiện nay người làm trong ngành xây dựng sẽ sử dụng hai văn bản mới nhất về hướng dẫn lập dự toán là Nghị định 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng và Thông tư 06/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 về hướng dẫn xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Theo hai văn bản trên thì: Chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng được gọi là “Chi phí cho một số công việc thuộc hạng mục chung nhưng không xác định được khối lượng từ thiết kế”, bao gồm:
Chi phí này được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên chi phí xây dựng và chi phí lắp đặt, thí nghiệm hiệu chỉnh thiết bị trước thuế giá trị gia tăng quy định tại bảng 2.4 - Phụ lục 2 –Thông tư 06/2016/TT-BXD. Phân biệt chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng với các loại chi phí khácNgoài chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng là gì, chúng ta vẫn cần quan tâm đến khái niệm các thành phần chi phí chính khác. Cụ thể là:
Bài viết hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu tường tận hơn về “Chi phí trực tiếp khác trong dự toán xây dựng là gì” và phân biệt nó với các loại chi phí khác. Trân trọng!
Trong lĩnh vực quản lý chi phí, chúng ta thường hay gặp khái niệm “định mức” như định mức chi phí, định mức kinh tế- kỹ thuật. Xây dựng định mức dự toán là quá trình cần thiết để chuẩn bị xây dựng hay đấu thầu công trình. Vậy định mức xây dựng là gì? Định mức của Bộ xây dựng được quy định như thế nào? Cùng Xây dựng Hoà Bình tìm hiểu qua bài viết sau nhé! 1. Định mức xây dựng là gì?Định mức xây dựng - danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Construction Norm. Định mức xây dựng là quy định về mức hoa phí cần thiết vật liệu, nhân công và máy móc để hoàn thành một đơn vị khối lượng công việc xây dựng. Định mức xây dựng là quy định về mức hoa phí cần thiết vật liệu, nhân công và máy móc để hoàn thành một đơn vị khối lượng công việc xây dựng. Định mức xây dựng cũng là công cụ thực hiện chức năng quản lý của nhà nước trong cơ chế thị trường nhằm công khai các thông tin để tăng tính cạnh tranh trong quá trình đầu tư xây dựng. Từ đó, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý dự án xây dựng nói riêng. Trên thực tế, định mức xây dựng được công bố là cơ sở để chủ đầu tư sử dụng, vận dụng, tham khảo khi xác định tổng mức đầu tư xây dựng, dự toán xây dựng và quản lý chi phí đầu tư xây dựng. 2. Có những loại định mức xây dựng nào?Định mức chi phí (định mức tỷ lệ)Định mức chi phí gồm định mức tính bằng tỉ lệ phần trăm (%) và định mức tính bằng giá trị. Định mức chi phí (định mức tỷ lệ) là loại định mức dùng để dự toán chi phí của một số loại công việc, chi phí khác trong đầu tư xây dựng. Định mức chi phí gồm định mức tính bằng tỉ lệ phần trăm (%) và định mức tính bằng giá trị. Định mức chi phí đóng vai trò là cơ sở xác định giá xây dựng, dự toán chi phí của một số loại công việc, chi phí trong đầu tư xây dựng gồm chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư, chi phí chung, thu nhập chịu thuế tính trước, chi phí hạng mục chung và một số công việc, chi phí khác. Định mức kinh tế kỹ thuậtĐịnh mức kinh tế kỹ thuật là các trị số liệu quy định về mức chi phí hao hụt tư liệu lao động và nhân công cho một sản phẩm xây dựng nào đó. Định mức này được dùng để phục vụ sản xuất, thi công hoặc lập giá dự toán trong xây dựng. Định mức kinh tế – kỹ thuật phản ánh đúng trình độ công nghệ và trình độ tổ chức sản xuất trong xây dựng ở một giai đoạn nhất định. Đây là loại định mức được lập trên cơ sở các số liệu quan sát thực tế, thống kê thực tế nhằm đảm bảo tính khoa học – thực tiễn. Định mức kinh tế – kỹ thuật phản ánh đúng trình độ công nghệ và trình độ tổ chức sản xuất trong xây dựng ở một giai đoạn nhất định. Chính vì đây là tư liệu có tầm quan trọng trong định mức xây dựng, nên nó phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Trên đây là những thông tin được Việt Chuẩn tổng hợp về khái niệm của định mức xây dựng cũng như những loại định mức xây dựng trên thị trường hiện nay. Người làm định giá công trình không chỉ dựa vào định mức chung của Bộ Xây dựng, mà cần phải đánh giá theo tình trạng thực tế của công trình. Hy vọng qua bài viết này, độc giả sẽ trang bị thêm cho mình những kiến thức bổ ích trong lĩnh vực xây dựng và đầu tư xây dựng.
Vật liệu xây dựng là bất kỳ vật liệu được sử dụng cho mục đích xây dựng. Nhiều vật liệu xây dựng tồn tại sẵn trong tự nhiên, chẳng hạn như đất sét, đá, cát, và gỗ, thậm chí cành cây và lá, đã được sử dụng để xây dựng các tòa nhà. Ngoài các vật liệu tự nhiên, nhiều sản phẩm nhân tạo được sử dụng, một số tổng hợp ít hoặc nhiều. Sản xuất các vật liệu xây dựng là một ngành công nghiệp được thiết lập ở nhiều nước và việc sử dụng các vật liệu này thường được tách ra thành các ngành nghề chuyên môn cụ thể, chẳng hạn như nghề mộc, cách nhiệt, hệ thống ống nước, và công việc lợp mái. Chúng cung cấp thành phần của nơi sinh hoạt và các cấu trúc bao gồm cả nhà.[1] Trong lịch sử, có xu hướng vật liệu xây dựng từ tự nhiên để trở thành nhân tạo và composite nhiều hơn; phân huỷ sinh học đến không thể bị hư hỏng; bản địa (địa phương) được vận chuyển trên toàn cầu; sửa chữa để dùng một lần; được lựa chọn để tăng cường độ an toàn về hỏa hoạn và cải thiện khả năng chống chấn động. Những xu hướng này có xu hướng làm tăng chi phí kinh tế, sinh thái, năng lượng và xã hội ban đầu của vật liệu xây dựng. Chi phí kinh tếChi phí kinh tế ban đầu của vật liệu xây dựng là giá mua. Đây thường là điều chi phối quá trình ra quyết định về những tài liệu nào cần sử dụng. Đôi khi người ta xem xét việc tiết kiệm năng lượng hoặc độ bền của vật liệu và thấy giá trị phải trả chi phí ban đầu cao hơn để đổi lấy chi phí đời đời thấp hơn. Ví dụ, một mái mái ván asphalt tốn kém hơn một mái kim loại để lắp đặt, nhưng mái kim loại sẽ kéo dài hơn vì vậy chi phí đời sống ít hơn mỗi năm. Một số tài liệu có thể cần được chăm sóc nhiều hơn những tài liệu khác, việc duy trì chi phí cho một số tài liệu cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng. Rủi ro khi xem xét chi phí đời của vật liệu là nếu tòa nhà bị hư hỏng như lửa hoặc gió, hoặc nếu vật liệu không bền như quảng cáo. Chi phí nguyên vật liệu nên được tính đến để chịu rủi ro để mua các vật liệu cháy để tăng tuổi thọ. Người ta nói rằng 'nếu nó phải được thực hiện, nó phải được thực hiện tốt'. Chi phí sinh tháiChi phí ô nhiễm có thể là vĩ mô và vi mô. Môi trường, ô nhiễm môi trường của các ngành công nghiệp khai thác vật liệu xây dựng dựa vào khai thác mỏ, dầu khí và khai thác gỗ gây ra thiệt hại về môi trường tại nguồn và vận chuyển nguyên liệu, sản xuất, vận chuyển sản phẩm, bán lẻ và lắp đặt. Một ví dụ về khía cạnh vi mô của ô nhiễm là sự phóng xạ ra ngoài của các vật liệu xây dựng trong tòa nhà hoặc ô nhiễm không khí trong nhà. Danh sách đỏ vật liệu xây dựng là vật liệu được tìm thấy có hại. Cũng là dấu chân cacbon, tổng lượng phát thải khí nhà kính được sản xuất trong cuộc đời của vật liệu. Phân tích chu kỳ sống cũng bao gồm việc tái sử dụng, tái chế hoặc thải bỏ chất thải xây dựng. Hai khái niệm về xây dựng trong đó có tính kinh tế sinh thái của vật liệu xây dựng là xây dựng xanh và phát triển bền vững. Chi phí năng lượngChi phí năng lượng ban đầu bao gồm lượng năng lượng tiêu thụ để sản xuất, cung cấp và lắp đặt vật liệu. Chi phí năng lượng lâu dài là chi phí kinh tế, sinh thái và xã hội để tiếp tục sản xuất và cung cấp năng lượng cho tòa nhà để sử dụng, duy trì và loại bỏ hoàn toàn. Năng lượng thể hiện ban đầu của một cấu trúc là năng lượng tiêu thụ để chiết xuất, sản xuất, cung cấp, lắp đặt, các vật liệu. Năng lượng được thể hiện suốt đời tiếp tục phát triển với việc sử dụng, bảo dưỡng, và tái sử dụng / tái chế / thải bỏ các vật liệu xây dựng và cách thức vật liệu và thiết kế giúp giảm tối thiểu tiêu hao năng lượng của cấu trúc. Chi phí xã hộiChi phí xã hội là thương tích và sức khoẻ của người sản xuất và vận chuyển vật liệu và các vấn đề sức khoẻ tiềm ẩn của người xây dựng nếu có vấn đề với sinh học xây dựng. Toàn cầu hoá đã có những tác động đáng kể đến người dân cả về công việc, kỹ năng và tự cung tự cấp bị mất khi các cơ sở sản xuất bị đóng cửa và các khía cạnh văn hoá nơi mở các cơ sở mới. Các khía cạnh của thương mại công bằng và quyền lao động là những chi phí xã hội của việc sản xuất vật liệu xây dựng toàn cầu. Một nhóm người Mohave trước một nhà làm từ cây Các cấu trúc làm từ cây được xây dựng hoàn toàn từ các bộ phận của cây trồng và được sử dụng trong các nền văn hoá nguyên thủy như người Mỹ bản địa, người pigmy ở châu Phi.[2] Chúng được xây dựng chủ yếu bằng cành, nhánh và lá cây, và cả vỏ cây, tương tự như nhà nghỉ của con gấu. Các loại nhà này được gọi theo tên phương ngữ là wikiup, lean-to, vân vân. Một phần mở rộng về ý tưởng xây dựng dùng lưới là quá trình đúc và bồi đắp trong đó đất sét hoặc phân, thường là phân bò, được sử dụng để lấp đầy và bao phủ một cấu trúc giống như bàn chải. Điều này cho phép cấu trúc nhà có thêm khối lượng và sức chịu nhiệt. Wattle và daub là một trong những kỹ thuật xây dựng lâu đời nhất.[3] Nhiều tòa nhà khung gỗ lớn hơn kết hợp wattle và daub như tường không chịu tải giữa các khung gỗ. Băng và tuyếtTuyết và thỉnh thoảng là băng[4] đã được người Inuit sử dụng để xây các nhà tuyết (igloo) và tuyết được sử dụng để xây dựng một nhà tạm dùng để trú ẩn được gọi là một quinzhee. Băng cũng đã được sử dụng cho các khách sạn băng như một điểm thu hút khách du lịch ở các vùng khí hậu lanh gần Bắc cực[5]. Bùn và đất sétCác tòa nhà dựa trên đất sét thường có hai loại khác biệt. Một là khi các bức tường được làm trực tiếp với hỗn hợp bùn, và một là các bức tường được xây dựng bằng cách xếp khối xây dựng khô không khí gọi là gạch bùn.
|