Vị sao nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt

17/11/2020 976

Câu hỏi Đáp án và lời giải

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: C

Nhà Lý đổi tên nước thành Đại Việt năm 1054.

Giang (Tổng hợp)

Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, sinh ngày 25/2 năm Quý Hợi (1023), là con trưởng của vua Lý Thái Tông và thái hậu Kim Thiên Mai thị. Lý Nhật Tôn được phong làm thái tử khi mới 5 tuổi. Đến năm 1054, vua Lý Thái Tông mất, Lý Nhật Tôn là người kế vị, lấy hiệu là Lý Thánh Tông.

SáchGiản yếu sử Việt Namcó viết Lý Thánh Tông nổi tiếng thông minh, văn hay võ đều giỏi, giàu ý chí tự cường. Năm 1054, ngay sau khi lên ngôi, ông cho đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, nuôi hoài bão xây dựng đất nước thành một quốc gia văn minh hùng mạnh.

Quốc hiệu Đại Việt tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), kéo dài từ năm 1054 đến năm 1804, trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 723 năm.

Câu 2: Vua Lý Thánh Tông là người thương dân như con nên được trăm họ mến phục. Điều này đúng hay sai?

a. Đúng

b. Sai

Đổi tên nước, cho xây một trong bốn công trình thuộc "An Nam tứ đại khí", đốt bỏ công cụ tra tấn..., ông đã được người dân mến phục.

Vua Lý Thánh Tông chính là người cho đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.

Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, sinh ngày 25/2 năm Quý Hợi 1023, là con trưởng của vua Lý Thái Tông, lên ngôi năm 1054, sau khi vua Lý Thái Tông mất.

Sách Giản yếu sử Việt Nam có viết Lý Thánh Tông nổi tiếng thông minh, văn hay võ đều giỏi, giàu ý chí tự cường. Năm 1054, ngay sau khi lên ngôi, ông cho đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, nuôi hoài bão xây dựng đất nước thành một quốc gia văn minh hùng mạnh.

Quốc hiệu Đại Việt tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), kéo dài từ năm 1054 đến năm 1804, trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 723 năm.

Trong 18 năm trị vì (từ năm 1054 - đến năm 1072), Lý Thánh Tông quan tâm đời sống mọi mặt của nhân dân nên được trăm họ mến phục.

Năm Bính Thân (1056), nhà vua cho xây dựng ngôi chùa trên bờ hồ Lục Thủy ở phía Đông thành Thăng Long. Chùa được đặt tên là Sùng Khánh Báo Thiên. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua thân làm bài văn minh (văn khắc chuông)". Đến năm Đinh Dậu (1057), mùa xuân, tháng giêng, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài chục trượng, 12 tầng. Vì tháp nằm trong khuôn viên của chùa Sùng Khánh Báo Thiên nên về sau người ta thường gọi là tháp Báo Thiên. Tháp Báo Thiên cùng với chuông Quy Điền trong chùa Diên Hựu, vạc Phổ Minh ở chùa Phổ Minh (Nam Định) và tượng ở chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) được xem là bốn công trình lớn của nước Nam “An Nam tứ đại khí” thời bấy giờ. Sau nhiều thăng trầm lịch sử, tháp Báo Thiên và chùa Sùng Khánh Báo Thiên đã không còn tồn tại. Nhà thờ lớn Hà Nội hiện nay là nền chùa Sùng Khánh và phố Nhà Thờ là nền Tháp Báo Thiên nổi tiếng thời Lý này.

Để khuyến khích việc học hành, mở mang dân trí, vua Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu ở phía Nam kinh thành Thăng Long vào năm Canh Tuất (1070). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 8 làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến đây học”. Tuy nhiên, vua chỉ cho dựng Văn Miếu. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông mới cho dựng nhà Quốc Tử Giám.

Giản yếu sử Việt Nam ghi do quân Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu, năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt đem quân thảo phạt, triệt phá kinh đô Trà Bàn bắt sống vua Chiêm Thành là Chế Củ. Sách Lịch sử Việt Nam ghi từ mùa hè năm 1068, vua Lý Thánh Tông đã cho sửa chữa và đóng thêm thuyền chiến. Vào đầu năm 1069, ngày 24/2, cuộc thân chinh bắt đầu, việc nước được trao cho Thái sư Lý Đạo Thành và Nguyên phi Ỷ Lan. Lý Thường Kiệt cùng vua giao chiến kịch liệt gần 4 tháng trên đất Chiêm và giành thắng lợi. Vua Chiêm phải mang 50.000 quân ra hàng quân Lý ở gần biên giới Chân Lạp. Sách Việt sử lược chép: "Mùa hạ, tháng 4, Nguyên soái Nguyễn (Lý) Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp". Tháng 7 năm đó, vua Lý đem quân về đến Thăng Long và dâng tù ở Thái miếu. Nhưng để được toàn mạng trở về nước, vua Chiêm Chế Củ xin dâng ba châu là châu Địa Lý, châu Ma Linh, châu Bố Chính (tỉnh Quảng Bình và phần phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay) để chuộc mạng. Vua Lý Thánh Tông bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước. Sau chiến thắng này, thân thế của Đại Việt trở nên rất lớn. Nước Tống cũng phải kiêng nể. Còn Chiêm Thành thì hoàn toàn kính sợ và thần phục. Đến năm Tân Hợi (1071), Chiêm Thành đã phải cho sứ sang cống Đại Việt.

Trong suốt thời gian trị vì, vua Lý Thánh Tông đổi niên hiệu 4 lần: - Lần 1: Đổi Long Thụy Thái Bình thành Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065). - Lần 2: Đổi thành Long Chương Thiên Tự (1066-1067). - Lần 3: Đổi thành Thiên Huống Bảo Tượng (1068). - Lần 4: Đổi thành Thần Vũ (1069-1072). Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên sau 17 năm trị vì. Hoàng Thái tử Lý Càn Đức, con của vua và Nguyên phi Ỷ Lan lên ngôi trước linh cữu vua.

Kim Dung (Theo Ngày Nay)

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.

Câu 28:Nhà Lý đổi tên nước thành Đại Việt năm bao nhiêu?

A. Năm 1010.

B. Năm 1045.

C. Năm 1054.

D. Năm 1075.

Câu 29:Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã có chủ trương gì?

A. Đánh du kích

B. Phòng thủ

C. Đánh lâu dài

D. "Tiến công trước để tự vệ"

Năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Kể từ đây, nước Đại Việt ta như mở ra một kỷ nguyên mới rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam.

A. Đại Việt

B. Đại Cồ Việt

C. Đại Ngu

D. Đại Nam

Đáp án đúng B.

Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước thành Đại Cồ Việt.

Lý giải việc chọn đáp án B là do:

Sau khi Lê Hoàn mất (năm 1005), Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Long Đĩnh là một ông vua tàn bạo khiến cho trong triều, ngoài nội ai ai cũng căm giận.

Năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời, các con còn quá nhỏ. Sau đó các quan lại trong triều tôn tướng Lý Công Uẩn lên ngôi vua.

Thuở nhỏ Lý Công Uẩn được nhận làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn. Sau này, khi lớn lên Lý Công Uẩn làm quan nhà Lê. Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng.

Khi Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư.

Nhận được sự tin tưởng cũng như sự giúp đỡ của Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn nhanh chóng lên ngôi vua. Từ đó, nhà Lý được thành lập.

Nhà Lý được thành lập vào tháng 10 Âm lịch năm 1009. Đây là thời điểm Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Từ đó mà triều đại Lý ra đời.

Năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Kể từ đây, nước Đại Việt ta như mở ra một kỷ nguyên mới rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Buổi đầu độc lập, nhà Lý đóng đô ở Hoa Lư. Đến tháng 7 âm lịch năm 1010, Lý Thái Tổ tiến hành dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Thành Đại La sau này được đổi tên thành Thăng Long (bây giờ là Hà Nội).

Nhà Lý trải qua 09 đời vua.

Lý Thái Tổ (1010 – 1028), tên húy Lý Công Uẩn.

Lý Thái Tông (1028 – 1054), tên húy Lý Phật Mã.

Lý Thánh Tông (1054 – 1072), tên húy Lý Nhật Tôn.

Lý Nhân Tông (1072 -1127), tên húy Lý Càn Đức.

Lý Thần Tông (1127 – 1138), tên húy Lý Dương Hoán.

Lý Anh Tông (1138 – 1175), tên húy Lý Thiên Tộ.

Lý Cao Tông (1175 – 1210), tên húy Lý Long Cán.

Lý Huệ Tông(1210 – 1224), tên húy Lý Hạo Sảm.

Lý Chiêu Hoàng (1224 – 1225), tên húy Lý Thiên Hinh Nữ.

Nhà Lý chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225. Lúc đó, bà chỉ mới có 7 tuổi.

Video liên quan

Chủ đề