Vì sao tập tính của thân mềm phát triển

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.

Create an account

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Vì sao tập tính của thân mềm phát triển

Vì sao tập tính của thân mềm phát triển

XEM GIẢI BÀI TẬP SGK SINH 7 - TẠI ĐÂY

Vì sao tập tính của thân mềm phát triển
Đặt câu hỏi

* Những tập tính của thân mềm:

+ Sống vùi lấp (trai, sò, ngao, ngán...)

+ Lối sống bò chậm chạp (các loài ốc)

+ Di chuyển tốc độ nhanh (mực nang, mực ống)

* Tập tính của thân mềm phát triển để chúng có thể thích nghi với môi trường sống.

Câu hỏi : Đặc điểm chung và vai trò của ngành thân mềm?

Lời giải:

* Đặc điểm chung của ngành thân mềm là:

- Thân mềm, không phân đốt.

Bạn đang xem: Tập tính của ngành thân mềm

- Có vỏ đá vôi, có khoang áo phát triển

- Hệ tiêu hóa phân hóa.

- Cơ quan di chuyển thường đơn giản.

- Riêng mực và bạch tuộc thích nghi với lối sống săn mồi và di chuyển tích cực nên vỏ tiêu giảm và cơ quan di chuyển phát triển.

Kiến thức mở rộng

1. Đặc điểm chung

- Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vựcnhiệt đới, bao gồmViệt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài nhưtrai,sò,ốc,hến,ngao,mực,bạch tuộc.

+ Ngành này được chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó 2 lớptuyệt chủng hoàn toàn.

+ Cephalopodanhưmực,cuttlefishvàbạch tuộclà các nhóm có thần kinh cao nhất trong tất cả các loài động vật không xương sống, vàmực khổng lồhaymực ống khổng lồlà những loài động vật không xương sống lớn nhất đã được biết đến. Năm 1877, người ta đã phát hiện xác của loài này dạt vào ven bờĐại Tây Dương,dài18m (kể cả tua miệng), cả cơ thể nặng khoảng hơn một tấn.

+ Động vật chân bụng(ốc sênvàốc) là nhóm có số loài nhiều nhất đã được phân loại, chúng chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật thân mềm. Nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi lànhuyễn thể học(Malacology).

- Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền nhưcon hà. => Có độ đa dạng cao, không chỉ về kích thước mà còn về cấu trúcgiải phẫu học, môi trường sống.

- Ngành thân mềm có số loài rất lớn, sai khác nhau về kích thước, môi trường, tập tính.

- Một số đại diện:

Vì sao tập tính của thân mềm phát triển

- Tuy thích nghi rộng như vậy, nhưng cấu tạo cơ thể thân mềm vẫn có các đặc điểm chung.

Xem thêm: Sevis Id Là Gì ? Phí Sevis Và Những Câu Hỏi Liên Quan Sevis Id Là Gì

* Đặc điểm chung của ngành thân mềm là:

- Thân mềm, không phân đốt.

- Có vỏ đá vôi, có khoang áo phát triển

- Hệ tiêu hóa phân hóa.

- Cơ quan di chuyển thường đơn giản.

- Riêng mực và bạch tuộc thích nghi với lối sống săn mồi và di chuyển tích cực nên vỏ tiêu giảm và cơ quan di chuyển phát triển.

2. Những vai trò của ngành thân mềm

* Lợi ích của ngành thân mềm là gì?

- Làm thức ăn cho người như: mực, ngao, sò, ốc, hến…

- Làm thức ăn cho động vật khác như: ốc, ấu trùng của thân mềm.

- Làm đồ trang trí như: ngọc trai

- Làm sạch môi trường như: trai, vẹm, hàu.

- Có giá trị xuất khẩu như: bào ngư, sò huyết.

- Có giá trị về mặt địa chất như: hóa thạch các loài ốc, vỏ sò.

* Tác hại của ngành thân mềm

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thì ngành thân mềm cũng có một số tác hại như:

- Ngành thân mềm có hại cho cây trồng: ốc bươu vàng.

- Bên cạnh đó còn làm vật chủ trung gian truyền bệnh giun sán: ốc đĩa, ốc tai, ốc mút.

Ngành Thân mềm (còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn, danh pháp khoa học: Mollusca) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi.

Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà. Có độ đa dạng cao, không chỉ về kích thước mà còn về cấu trúc giải phẫu học, bên cạnh sự đa dạng về ứng xử và môi trường sống. Ngành này được chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó 2 lớp tuyệt chủng hoàn toàn. Cephalopoda như mực, mực nang và bạch tuộc là các nhóm có thần kinh cao cấp trong tất cả các loài động vật không xương sống, và mực khổng lồ hay mực ống khổng lồlà những loài động vật không xương sống lớn nhất đã được biết đến. Động vật chân bụng (ốc sên và ốc) là nhóm có số loài nhiều nhất đã được phân loại, chúng chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật thân mềm. Nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi là nhuyễn thể học.

Đa dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Vì sao tập tính của thân mềm phát triển
 Khoảng 80% loài động vật thân mềm được biết đến là lớp có cấu tạo co thể mềm nhất và cũng là nhiều nhất trên thế giới (Ốc và sên biển), bao gồm con Cowry trong ảnh (một loài sên biểnl).[2]

Ước tính số loài còn sống đã miêu tả được chấp nhận trong nhóm động vật thân mềm dao động từ 50.000 đến tối đa 120.000.[3] Năm 1969 David Nicol đưa ra con số phỏng đoán 107.000 trong đó có khoảng 12.000 loài chân bụng nước ngọt và 35.000 loài trên cạn.Thân mềm hai mảnh vỏ[3](Bivalvia) có thể chiếm khoảng 14% và 5 lớp khác chiếm ít hơn 2% tổng số các loài động vật thân mềm còn sinh tồn[3].Năm 2009, Chapman ước tính số loài còn sinh tồn đã được miêu tả là 85.000.[3] Haszprunar năm 2001 ước tính khoảng 93.000 loài đã được đặt tên, tương đương 23% tất cả sinh vật biển đã được đặt tên.[4] Động vật thân mềm là nhóm xếp thứ 2 sau arthropoda (chân khờp) về số lượng loài còn sinh tồn[2]—tuy ít hơn nhiều so với arthropoda (1.113.000 loài), nhưng vẫn dẫn trước chordata (52.000 loài).[5] Ước tính rằng có khoảng 200.000 loài còn sinh tồn,[3][6] and 70,000 loài hóa thạch, mặc dù số loài tổng cộng của động vật thân mềm đã từng tồn tại, dù có được hóa thạch hay không, phải lớn hơn nhiều so với số lượng còn sinh tồn ngày nay.[7]

Động vật thân mềm có nhiều hình dáng hơn so với bất kỳ nhóm nào khác trong ngành động vật. Chúng bao gồm ốc sên, ốc và các động vật chân bụng khác; nghêu và các thân mềm hai mảnh vỏ khác; mực và các động vật chân đầu khác khác; và các phân nhóm ít được biết đến hơn nhưng vẫn riêng biệt. Phần lớn các loài vẫn sống trong các đại dương, từ vùng ven bờ đến vùng biển thẳm, nhưng một số là thành phần quan trọng trong các hệ sinh thái nước ngọt và trên cạn. Động vật thân mềm cực kỳ đa dạng tại các vùng nhiệt đới và ôn đới, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở tất cả các vĩ độ. Khoảng 80% trong số các loài động vật thân mềm đã được biết đến là động vật chân bụng.[2] Động vật chân đầu như mực, bạch tuộc là những động vật có hệ thần kinh phát triển nhất trong số các động vật không xương sống.[8] Mực khổng lồ, cho đến gần đây vẫn chưa được quan sát còn sinh tồn ở dạng cá thể trưởng thành,[9] là một trong những động vật không xương sống lớn nhất, nhưng mẫu vật được bắt gần đây của loài Mesonychoteuthis hamiltoni dài 10m và nặng 500 kg có thể đã vượt qua loài mực khổng lồ.[10]

Động vật thân mềm nước ngọt và trên đất liền thuộc nhóm dễ bị tổn thương. Những ước tính về số loài động vật thân mềm không sống trong biển thì nằm tương đối biến thiên, một phần là do nhiều khu vực không được khảo sát kỹ lưỡng. Ngoài ra còn có sự thiếu hụt các chuyên gia có thể xác định tất cả các loài động vật trong bất kỳ một khu vực nào đến cấp loài. Tuy nhiên, năm 2004 Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa bao gồm gần 2.000 loài động vật thân mềm sống trong môi trường nước ngọt và đất liền bị đe dọa. Để so sánh, phần lớn các loài động vật thân mềm sống ở biển và đại dương, nhưng chỉ có 41 trong số này có mặt trong Sách Đỏ năm 2004. Khoảng 42% các loài đã tuyệt chủng được ghi nhận từ năm 1500 là động vật thân mềm, bao gồm gần như toàn bộ các loài không sống trong biển.