Vì sao tên riêng tên địa danh lại Chủ yếu được dùng Chủ Hán Việt

Bởi HUNGNGUYEN TEAM

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi HUNGNGUYEN TEAM

Giới thiệu về cuốn sách này

Hiện nay có 3 quan điểm về chữ hà (河) và giang (江).

Ở Việt Nam, hà có nghĩa là sông (có thể lớn hoặc không lớn lắm), còn giang là sông cả, sông lớn. Nói cách khác, khái niệm hà chỉ sông nhỏ hơn giang. Ví dụ, đoạn sông từ Trung Quốc chảy vào lãnh thổ Việt Nam được chúng ta gọi là Hồng Hà (sông Hồng), còn Cửu Long giang (sông Cửu Long) là sông lớn hơn.

Vào thời thượng cổ, người Trung Quốc dùng từ hà (河) để chỉ sông Hà, từ giang (江) để chỉ sông Giang, do chữ hà và giang có cùng bộ Thủy (氵) nên ngày xưa người ta còn gọi 2 con sông này là Hà thủy và Giang thủy như ghi chú trong Thuyết văn giải tự. Nói cách khác, Hà (河) tức là Hoàng Hà ngày nay, còn Giang (江) là Trường Giang ngày nay. Tuy cả hai khái niệm hà và giang đều có nghĩa là sông, nhưng có phân biệt: hà dùng để chỉ các con sông ở miền Bắc Trung Quốc, còn giang dùng để chỉ các con sông ở miền Nam.

Hà (河) với nghĩa là sông, có khả năng là một từ Trung Quốc gốc, đọc theo giọng Quan Thoại (Bắc Kinh) là hé, Quảng Đông là ho4; trong khi đó, giang (江) tuy có nghĩa là sông, nhưng lại có khả năng xuất phát từ ngôn ngữ Nam Á, qua cách gọi k’long (sông) của vài sắc tộc. Khi phân tích chữ giang

(江) ta sẽ thấy rõ hơn, chữ này có 2 phần: bộ thủy氵+ âm 工 (đọc là gōng, tiếng Hán cổ là *kˤoŋ). Bằng chứng khác, hiện nay người Quảng Đông vẫn đọc chữ giang (江) là gong1.

Nhìn chung, cả hai chữ hà (河) và giang (江) đều là những từ cổ, đã được ghi nhận trong Kinh Thi. Theo quyển Từ nguyên của Lý Học Cần chủ biên, Liêu Ninh xuất bản xã (2013) thì ban đầu chữ hà (河) gồm có những ký tự âm thanh kết hợp với nhau, được ghi trên bản khắc xương (giáp cốt văn) giống như nhiều âm cổ khác thuộc bộ Ca. Còn giang (江) là chữ được nhìn thấy lần đầu trên những bản khắc bằng đồng (kim văn).

Để tạo ra những chữ Nôm có nghĩa là sông hoặc sông nước, người Việt xưa đã mượn nguyên xi từ Hán ngữ 2 chữ 河 (hà) và 江 (giang), mượn âm của chữ long (滝, lóng) và lung (瀧, lóng) để tạo ra chữ sông, tuy nhiên vẫn có chữ “thuần Nôm” viết là 㳘 (sông).

Ngày nay, trong tiếng Việt, chữ sông được dùng phổ biến hơn; còn hà và giang chủ yếu sử dụng trong nhân danh và địa danh.

Tin liên quan

TTCT - Các cuộc tranh luận quanh vấn đề viết tên người, địa danh của nước ngoài trong tiếng Việt đã diễn ra từ lâu, nay lại đang sôi nổi và vẫn chưa thể đi đến kết luận thống nhất. Tại sao một vấn đề tưởng như rất đơn giản lại trở nên phức tạp và khó giải quyết đến vậy?

Ở những nước sử dụng bảng chữ cái để ghép vần, người ta đều viết (và đọc) tên nước ngoài theo cách riêng của nước mình. Còn ở những nước dùng chữ tượng hình gốc Hán tự, người ta cũng dùng chữ nước mình để phiên âm tên người, địa danh viết bằng văn tự ghép vần của các nước ngoài.

Sự lộn xộn

Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm tiết, vốn dùng chữ tượng hình Hán (đọc theo âm Việt) làm chữ viết của mình, rồi lại bỏ chữ Hán - Việt đó để dùng chữ cái Latin làm quốc ngữ ghép vần, nên việc viết tên người, địa danh nước ngoài hiện nay hết sức lộn xộn, không theo nguyên tắc chung nào cả.

Theo nguyên tắc bảo đảm sự nhất quán giữa tên nước với địa danh và tên người của mỗi nước, nếu tên nước được viết bằng từ Hán - Việt thì các tên kia cũng phải viết bằng từ đó. Ví dụ: tên nước là Pháp (Lang Sa) thì tên thủ đô nước đó phải là Ba Lê (chứ không phải Paris), còn các danh nhân nước đó phải là Lư Thoa (chứ không phải là Rousseau hay Rút-xô).

Nhưng trong tiếng Việt hiện hành, nguyên tắc đó chỉ được áp dụng chủ yếu cho Trung Quốc, với tất cả các tên đất, tên người đều là từ Hán - Việt (ngoại trừ những tên người phải viết bằng chữ cái Latin do không tìm được âm Hán - Việt). Nguyên tắc này cũng ngẫu nhiên được áp dụng cho một số trường hợp nữa, khi tên nước cùng các địa danh và tên người nước đó may mắn đều được viết theo cùng một gốc Latin.

Tuy nhiên, nguyên tắc này không thể áp dụng trong đa số trường hợp khác, dẫn tới tình trạng tên nước viết theo một kiểu còn tên thủ đô cùng mọi địa danh và tên người lại viết theo một (hoặc nhiều) kiểu khác. Chẳng hạn nước Ba Lan được tặng một cái tên vừa Hán - Việt lại vừa phiên âm tiếng Anh (Poland), còn thủ đô của nó khi thì được phiên âm hoặc viết theo tiếng Pháp (Vac-xô-vi hoặc Varsovie), khi thì theo tiếng Ba Lan (Vac-xa-va hoặc Varszawa), lúc lại dùng tiếng Anh (Warsaw).

Chọn cách nào?

Sự lộn xộn trong cách viết (và đọc) tên nước ngoài như trên cho thấy sự thiếu chính xác và nhất quán trong ngôn ngữ hiện đại của dân ta, khiến giá trị khoa học của tiếng Việt bị giảm sút. Vậy chúng ta phải khắc phục tình trạng lộn xộn đó để lập lại trật tự bằng cách nào? Có một số phương án để lựa chọn.

Trước hết, có thể nghĩ đến việc phiên âm tất cả các danh từ riêng Latin hoặc Latin hóa thành các từ Hán - Việt như ông cha ta đã làm xưa kia. Khi ấy ta sẽ có một nguyên tắc nhất quán như Trung Quốc đang áp dụng hiện nay, nghĩa là bỏ Singapore hoặc Xin-ga-po để trở về với Tân Gia Ba, bỏ Philippines hoặc Phi-líp-pin để viết Phi Luật Tân...

Nhưng phương án này không thể thực hiện được vì chẳng còn mấy ai biết chữ Hán để viết như các cụ xưa, dù là viết lại bằng chữ quốc ngữ. Hơn nữa, đây là một giải pháp phản tiến hóa đối với thế giới hiện đại (ngay cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng cần có thêm hệ thống phiên âm Latin để trợ giúp chữ Hán tượng hình của họ).

Một số người đề nghị dùng chữ cái Latin để viết đúng các từ gốc nguyên dạng bản ngữ. Nhưng đó là một giải pháp bất khả thi vì không ai biết hết hàng trăm ngôn ngữ trên thế giới để viết đúng tiếng bản ngữ, và bảng chữ cái Latin cũng không đủ khả năng thể hiện được hết thảy các ngôn ngữ đó.

Hiểu rõ một nhược điểm lớn trong tiếng Việt là không có cách gọi riêng của mình đối với các tên nước ngoài (mà phải gọi các tên đó qua một số ngôn ngữ trung gian khác), nên các học giả nước ta hồi giữa thế kỷ 20 đã tạo ra cách viết tên nước ngoài riêng cho người Việt.

Ðó là phiên âm tên nước ngoài bằng chữ quốc ngữ Latin và dùng dấu gạch ngang (-) để chia tách những từ đa âm thành nhiều âm tiết đơn cho dễ đọc (Mat-xcơ-va, Mông-te-xki-ơ, Oa-sinh-tơn...). Nhưng khi đất nước hội nhập quốc tế và trình độ ngoại ngữ của nhân dân được nâng cao, người ta lại nhận ra cách phiên âm này bất tiện trong giao tiếp và trong khoa học.

Khi các phương án trên đều bộc lộ những sự bất cập của chúng thì chúng ta có thể tìm thấy một giải pháp hữu hiệu qua quy định về sáu ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc dùng cho 193 nước thành viên.

Ngoại trừ tiếng Ả Rập quá xa lạ với tiếng Việt cả về ngữ âm, ngữ pháp và văn tự, dựa trên năm ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, chúng ta có thể đề xuất một nguyên tắc chung nhất quán cho việc viết tên nước ngoài trong tiếng Việt: danh từ riêng (tên đất, tên người) của nước ngoài được viết theo nguyên dạng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha; theo nguyên dạng tiếng Nga Latin hóa và theo nguyên gốc chữ Hán - Việt Latin hóa. Nguyên tắc chung này sẽ được cụ thể hóa bằng những quy định cho từng trường hợp áp dụng nguyên dạng và nguyên gốc của từng ngôn ngữ được dùng.

Mặc dù trong ngôn ngữ tiếng Việt có rất nhiều thể loại văn bản khác nhau. Nhưng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt giữa các văn bản này không có nhiều sự khác biệt, vẫn tồn tại ở đó những quy tắc chính tả, viết hoa trong văn bản xác định cần đúng quy chuẩn được đặt ra. Trong đó, vấn đề viết hoa cũng là nội dung quan trọng và được nhiều người quan tâm trong vấn đề này. Viết hoa đúng theo quy định của tiếng Việt không phải là chuyện đơn giản. Bởi, tiếng Việt ngày nay sử dụng mẫu tự Latin nên có quy định về vấn đề viết hoa.

1. Quy tắc viết hoa là gì?

Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt rất đa dạng mà bạn cần nắm vững lý thuyết để áp dụng vào viết đúng trong những trường hợp cụ thể. Dưới đây là những trường hợp mà bạn cần phải áp dụng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt khi thực hiện các văn bản hay viết chữ.

1.1. Viết hoa phụ âm đầu của chữ đứng đầu câu:

Theo các nhà nghiên cứu, quy định này xác lập cách đây không xa. Khi chữ quốc ngữ ra đời vào thế kỷ 17, lúc đó chưa có quy định viết hoa này. Theo sách Phép giảng tám ngày của Alexandre De Rhodes in bản tiếng Latin – Việt năm 1651, quy định viết chữ quốc ngữ là “viết hoa ở đoạn xuống hàng và thụt đầu dòng” còn các câu trong đoạn văn sẽ viết thường, kể cả chữ cái đầu.

Lối viết hoa chữ cái đầu của một từ xuất hiện vào tháng 4/1865 trên tờ báo Gia Định, tờ báo dùng chữ quốc ngữ đầu tiên ở nước ta. Từ đó, lối viết hoa chữ cái đầu này được áp dụng. Những trường hợp mở đầu một câu như sau:

+ Viết hoa sau dấu chấm

Mở đầu văn bản, mở đầu đoạn người ta đều viết hoa phụ âm/âm đầu của từ đầu tiên. Đặc biệt cứ sau dấu chấm câu, người ta phải viết hoa phụ âm đầu của từ đứng đầu câu kế tiếp. Cùng với dấu chấm câu còn có dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!) còn gọi là dấu cảm thán là những dấu kết thúc một câu. Cho nên, từ đứng sau những dấu này đều phải viết hoa phụ âm/âm đầu tiên của từ.

Riêng dấu chấm lửng có những khác biệt một chút. Dấu chấm lửng có thể là để kết thúc một câu, có thể nằm ở giữa câu khi liệt kê hay do ý định của người viết để diễn tả sự ngắt quãng, gây bất ngờ hay muốn kéo dài về âm thanh. Do đó, khi dấu chấm lửng đứng ở cuối câu, từ đầu tiên của câu kế tiếp sẽ phải viết hoa theo quy định. Khi dấu chấm lửng đặt ở giữa câu với những chủ ý của người viết sẽ không viết hoa từ tiếp sau đó.

Ví dụ: Vườn hoa quả trồng nhiều loại cây như mít, chuối, cam, chanh… xanh tươi, rất sai quả.

Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương… (trích thơ Hàn Mặc Tử).

+ Quy định về viết hoa sau dấu hai chấm

Xem thêm: Các quy tắc xác định thẩm quyền xét xử vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài

Từ đứng sau dấu hai chấm có trường hợp viết hoa, có trường hợp không. Quy định này vẫn chưa rõ ràng, thống nhất nên có nhiều ý kiến khác nhau.

+ Quy định về viết hoa sau dấu chấm phẩy

Đối với dấu chấm phẩy, quy định viết hoa cũng giống như trong dấu chấm lửng, tùy vào từng trường hợp mà viết hoa. Những câu văn ngăn bởi các dấu chấm phẩy khá độc lập về ngữ nghĩa, thông thường, chữ tiếp theo sau vẫn viết thường.

Trong các văn bản hành chính, đặc biệt ở phần “căn cứ”, “xét đề nghị” và “chiếu theo” nêu ở đầu đoạn sẽ xuống dòng và viết hoa theo quy định sau các dấu chấm phẩy.

1.2. Quy định về viết hoa tu từ:

Thông thường, trong quy tắc viết hoa trong tiếng Việt, người ta sẽ không viết hoa danh từ chung nếu không nằm ở đầu câu. Riêng trong những trường hợp nhất định, người ta muốn nhấn mạnh một từ nào đó, muốn từ này mang sắc thái biểu cảm, người ta sẽ viết hoa. Ví dụ: Con Người, hai tiếng vang lên… (M.Gorki)

Như vậy, viết hoa danh từ chung thường thể hiện sự tôn kính, làm câu văn thêm độc đáo hơn. Đây gọi là lối viết hoa tu từ.

Những danh từ chung ghi tước vị, chức vụ, cấp bậc hoặc những yếu tố gắn với tên riêng như các bậc danh nhân thường áp dụng cách viết hoa tu từ. Tuy nhiên, thực tế, cách viết này cũng đa dạng, không có sự thống nhất.

Tuy nhiên, cách viết hoa này có một số điểm sẽ đối lập với danh từ chung và danh từ riêng, đặc biệt trong cách viết hoa gọi tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm. Trong khi đó, cách viết hoa là để phân biệt giữa danh từ riêng và chung trong cách thể hiện văn bản.

Xem thêm: Nguyên tắc hành nghề luật sư? Quy tắc đạo đức nghề luật sư 2022?

1.3. Quy định về cách viết hoa trong tiếng Việt với danh từ riêng:

Theo định nghĩa ấn phẩm Hoạt động của từ tiếng Việt của Đái Xuân Ninh biên soạn do NXB Khoa học xã hội, HN 1978, danh từ riêng chỉ tên gọi của một vật, một người hay một tập thể riêng biệt. Xét về chức năng ý nghĩa, danh từ riêng và danh từ chung có sự phân biệt rõ ràng. Trong đó, danh từ chung dùng để gọi tên một loạt sự vật, không gọi riêng từng sự vật riêng. Điểm khác biệt với danh từ riêng là danh từ chung sẽ chứa đựng nội dung ý nghĩa nhất định, bao gồm cả tên gọi một sự vật duy nhất như mặt trăng, mặt trời.

+ Quy định cách viết hoa họ tên người

Dù cùng một họ tên người nhưng người ta sử dụng song song nhiều cách viết hoa khác nhau lâu nay. Ví dụ viết họ tên người Công Huyền Tôn Nữ Lưu Ly hay Công huyện tôn nữ lưu Ly, Công huyền Tôn nữ Lưu Ly, Công – Huyền – Tôn – Nữ – Lưu Ly.

+ Quy định cách viết hoa tên địa danh

Quy định cách viết hoa địa danh cũng tồn tại nhiều cách khác nhau. Ví dụ như cách viết Sài Gòn, Sài-Gòn, Sài gòn… Vào năm 1984, theo Quyết định số 240/QĐ, thống nhất trên toàn quốc về chuẩn chính tả, về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký như sau: Cách viết tên người, tên nơi chốn sẽ viết hoa chữ cái đầu là phụ âm/âm đầu không dùng gạch nối. Ví dụ như Quang Trung, Vũng Tàu, Hà Nội… Chuẩn chính tả này áp dụng trong tất cả các văn bản.

+ Quy định cách viết hoa tên riêng không phải tiếng Việt

Trường hợp viết tiếng nước ngoài du nhập, không phải tiếng Việt được quy định trong Quyết định 240/QĐ trong Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt có ghi:

* Nếu tên riêng dùng nguyên chữ của chữ cái Latin sẽ giữ đúng nguyên bản tất cả các chữ cái còn dấu phụ trong nguyên ngữ có thể lược đi. Ví dụ như tên Paris, Petofi, Shakespeare…

Xem thêm: Quy tắc xây dựng đảm bảo an toàn cho bất động sản liền kề

* Nếu tên riêng có nguyên ngữ thuộc hệ thống chữ cái khác tiếng Việt sẽ dùng lối chuyển từ sang chữ cái Latin. Ví dụ Moskva, Lomonosov

* Nếu tên riêng có nguyên ngữ không ghi từng âm bằng chữ cái sẽ dùng lối phiên âm chính thức của chữ cái Latin. Đó là cách phiên âm được dùng trên thế giới phổ biến. Ví dụ như Kyoto, Tokyo…

* Nếu tên riêng được sử dụng rộng rãi trên thế giới theo hệ thống chữ cái Latin khác với nguyên ngữ sẽ dùng tên riêng vẫn được mọi người dùng. Ví dụ như Bangkok có nguyên ngữ là Krung Thep hay Hungary có nguyên ngữ là Magyarorszag.

* Trường hợp tên viết sông núi sẽ dùng tên gọi phổ biến mà thế giới thường dùng vì sông núi rộng lớn có mặt ở nhiều quốc gia lãnh thổ. Đồng thời, những tên riêng theo từng địa phương vẫn có mặt ở những văn bản khác nhất định. Ví dụ như sông Danube/Duna/Donau/Dunares…

* Sẽ dùng lối dịch nghĩa phù hợp cho những tên riêng, bộ phận tên riêng có nghĩa. Ví dụ như Guinea xích đạo, Biển Đen.

* Tên riêng có phiên âm quen dùng trong tiếng Việt sẽ không cần thay đổi trừ trường hợp có yêu cầu đặc biệt. Ví dụ như Bắc Kinh, Pháp, Hy Lạp hay Lỗ Tấn… Có khác biệt như Ý hay Italia, Úc hay Australia. Có một số tên riêng sử dụng các cách viết, tên gọi khác như La Mã hay Roma…

* Trong ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tên riêng không phải tiếng Kinh cũng khó có sự thống nhất. Nhiều tên riêng được viết theo các kiểu khác nhau vẫn tồn tại như Moskva/ Moscou/ Moscow/ Mát-xcơ-va/ Matxcơva/ Mạc Tư Khoa hay Shakespeare/ Sếch-xpia/ Xêchxpia.

* Trường hợp danh từ chung như mặt trời/quả đất theo quy định sẽ không viết hoa nhưng sách báo vẫn in Mặt trời/Quả đất. Nếu xét trên bình diện danh từ chung và danh từ riêng, trường hợp này rất dễ nhầm lẫm.

Xem thêm: Vòng xuyến là gì? Quy tắc khi đi qua vòng xuyến? Đi qua vòng xuyến có phải xi-nhan không?

1.4. Quy định về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt để biệt hóa tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm:

Những tên riêng của cơ quan, tổ chức, công ty, xí nghiệp, đoàn thể hay sở, ban, trường học, phòng và sản phẩm sẽ là những danh từ riêng hoặc chỉ chứa một vài danh tư riêng. Theo bản Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt với Quyết định 240/QĐ quy định:

+ Quy định về viết hoa tên riêng của các cơ quan, tổ chức;

+ Xu hướng viết hoa không theo âm tiết mà theo từ đối với tên gọi cơ quan, tổ chức.

2. Những trường hợp bắt buộc phải viết hoa trong văn bản:

Ngày 05 tháng 3 năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2020/NĐ-CP về công tác văn thư để thay thế Nghị định 110/2004/NĐ-CP và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Theo đó, đối với các văn bản hành chính và bản sao văn bản áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước doanh nghiệp nhà nước sẽ phải viết hoa trong các trường hợp sau:

TT NỘI DUNG VÍ DỤ
I Viết hoa vì phép đặt câu
1

Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của một câu hoàn chỉnh: Sau dấu chấm câu (.); sau dấu chấm hỏi (?); sau dấu chấm than (!) và khi xuống dòng.

(Trước đây theo Thông tư 01/2011/TT-BNV thì phải viết hoa cả trong trường hợp sau dấu chấm lửng (…); sau dấu hai chấm (:); sau dấu hai chấm trong ngoặc kép (: “…”) và Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của mệnh đề sau dấu chấm phẩy (;) và dấu phẩu (,) khi xuống dòng).

– Thông tư

-Thực tế

II Viết hoa danh từ riêng chỉ tên người
1 Tên người Việt Nam
Tên thông thường: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết của danh từ riêng chỉ tên người.

Hồ Chí Minh

Tên hiệu, tên gọi nhân vật lịch sử: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết.

Vua Hùng, Bà Triệu

2 Tên người nước ngoài được phiên chuyển sang tiếng Việt
Trường hợp phiên âm qua âm Hán – Việt: Viết theo quy tắc viết tên người Việt Nam.

Mao Trạch Đông

Trường hợp phiên âm không qua âm Hán – Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất trong mỗi thành tố.

Fhri –drich Ăng-ghen

III Viết hoa tên địa lý
1 Tên địa lý Việt Nam
Tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; xã, phường, thị trấn) với tên riêng của đơn vị hành chính đó: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành tên riêng và không dùng gạch nối.

 tỉnh Hà Nam

Trường hợp tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung kết hợp với chữ số, tên người, tên sự kiện lịch sử: Viết hoa cả danh từ chung chỉ đơn vị hành chính đó.

Quận 1, Phường Điện Biên Phủ

Trường hợp viết hoa đặc biệt

Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh

(Trước đây chỉ có Thủ đô Hà Nội là thuộc trường hợp đặc biệt).

Tên địa lý được cấu tạo giữa danh từ chung chỉ địa hình (sông, núi, hồ, biển, cửa, bến, cầu, vũng, lạch, vàm v.v…) với danh từ riêng (có một âm tiết) trở thành tên riêng của địa danh đó: Viết hoa tất cả các chữ cái tạo nên địa danh.

Trường hợp danh từ chung chỉ địa hình đi liền với danh từ riêng: Không viết hoa danh từ chung mà chỉ viết hoa danh từ riêng.

chợ Bến Thành

vịnh Hạ Long

Tên địa lý chỉ một vùng, miền, khu vực nhất định được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với từ chỉ phương thức khác: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Đối với tên địa lý chỉ vùng miền riêng được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với danh từ chỉ địa hình thì phải viết hoa các chữ cái đầu mỗi âm tiết. Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ
2 Tên địa lý nước ngoài được phiên chuyển sang tiếng Việt
Tên địa lý đã được phiên âm sang âm Hán Việt: Viết theo quy tắc viết hoa tên địa lý Việt Nam.

Hàn Quốc

Tên địa lý phiên âm không qua âm Hán Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người nước ngoài

Mát-xcơ-va

IV Viết hoa tên cơ quan, tổ chức
1 Tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam
Viết hoa chữ cái đầu của các từ, cụm từ chỉ loại hình cơ quan, tổ chức; chức năng, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức.

Văn phòng Quốc hội

Bộ Giao thông vận tải

Trường hợp viết hoa đặc biệt:

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam;

Văn phòng Trung ương Đảng.

2 Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài
Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài đã dịch nghĩa: Viết hoa theo quy tắc viết tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam.

Liên hợp quốc (UN)

Tổ chức Y tế thế giới (WHO)

Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài được sử dụng trong văn bản ở dạng viết tắt: Viết bằng chữ in hoa như nguyên ngữ hoặc chuyển tự La – tinh nếu nguyên ngữ không thuộc hệ La-tinh.

WTO

UNESCO

V Viết hoa các trường hợp khác
1 Danh từ thuộc trường hợp đặc biệt.

(Trước đây không có quy định này)

Nhân dân, Nhà nước

2 Tên các huân chương, huy chương, các danh hiệu vinh dự: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết của các thành tố tạo thành tên riêng và các từ chỉ thứ, hạng.

Huân chương Sao vàng, Nghệ sĩ Nhân dân

3 Tên chức vụ, học vị, danh hiệu: Viết hoa tên chức vụ, học vị nếu đi liền với tên người cụ thể.

Giáo sư Tôn Thất Tùng

4 Danh từ chung đã riêng hóa: Viết hoa chữ cái đầu của từ, cụm từ chỉ tên gọi đó trong trường hợp dùng trong một nhân xưng, đứng độc lập và thể hiện sự trân trọng.

Đảng (chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam)

Bác, Người (chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh)…

5 Tên các ngày lễ, ngày kỷ niệm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành tên gọi ngày lễ, ngày kỷ niệm.

ngày Quốc khánh 2-9

6 Tên các sự kiện lịch sử và các triều đại: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành sự kiện và tên sự kiện, trong trường hợp có các con số chỉ mốc thời gian thì ghi bằng chữ và viết hoa chữ đó. Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh

Triều Lý, Triều Trần,…

7 Tên các loại văn bản
  Viết hoa chữ cái đầu của tên loại văn bản và chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi của văn bản trong trường hợp nói đến một văn bản cụ thể.

Bộ luật Hình sự

Luật Tổ chức Quốc hội…

Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể thì viết hoa chữ cái đầu của phần, chương, mục, tiểu mục, điều.

(Trước đây: Trường hợp viện dẫn các điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể thì viết hoa chữ cái đầu của điều, khoản, điểm. Có nghĩa hiện tại viện dẫn “điểm, khoản” thì không viết hoa chữ cái đầu nữa).

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 103 Mục 5 Chương XII Phần I của Bộ luật Hình sự.

(Trước đây: Điểm a Khoản 2 Điều 103 Mục 5 Chương XII Phần I của Bộ luật Hình sự).

8

Tên các tác phẩm, sách báo, tạp chí: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên tác phẩm, sách báo

từ điển Bách khoa toàn thư

9 Tên các năm âm lịch, ngày tết, ngày và tháng trong năm (Bỏ “ngày tiết”)
 

Tên các năm âm lịch: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi.

Giáp Tý

Kỷ Hợi…

Tên các ngày tết: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi. Viết hoa chữ Tết trong trường hợp thay cho tết Nguyên đán.

tết Đoan ngọ

Tên các ngày trong tuần và tháng trong năm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết chỉ ngày và tháng trong trường hợp không dùng chữ số.

thứ Hai

Kết luận: Thái độ tiếp cận đúng đắn với vấn đề viết hoa tên riêng là cần phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định mới nhất của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Song song với đó, tiếp tục nghiên cứu vấn đề chuẩn hoá cách viết hoa tên riêng trên tình thần kế thừa những thành tựu đã đạt được đồng thời sẵn sàng đổi mới trong những trường hợp thực tế đời sống yêu cầu. Viết hoa đúng cũng là góp phần làm trong sáng tiếng Việt của chúng ta.

Video liên quan

Chủ đề