Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 là gì

Theo đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2025 như sau: Tốc độ tăng trưởng trung bình của dịch vụ bưu chính phục vụ thương mại điện tử tối thiểu 30%; Tối thiểu 50 bưu gửi/đầu người/năm; 100% xã có điểm phục vụ bưu chính có người phục vụ; 100% điểm phục vụ bưu chính có người phục vụ có kết nối Internet; 100% hộ gia đình có Địa chỉ số; 100% doanh nghiệp bưu chính thực hiện báo cáo trực tuyến; Phấn đấu 100% bưu gửi được phát đến địa chỉ; Phấn đấu 100% hộ sản xuất nông nghiệp tham gia giao dịch trên các sàn thương mại điện tử do doanh nghiệp bưu chính Việt Nam sở hữu; Phấn đấu 100% sản phẩm giao dịch trên sàn thương mại điện tử do doanh nghiệp bưu chính Việt Nam sở hữu phải được gắn thương hiệu, có truy xuất nguồn gốc; Phấn đấu 100% điểm phục vụ bưu chính có khả năng phục vụ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến; Xây dựng tối thiểu 3 Trung tâm bưu chính vùng, khu vực (MegaHub/Hub); Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu theo đánh giá xếp hạng của Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU)….

Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 là gì

Ảnh: Điểm Bưu điện Văn hoá xã Minh Lãng – huyện Vũ Thư đa dạng hoá các loại hình dịch vụ bưu chính

Để đạt được các mục tiêu trên, các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra bao gồm: Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để khuyến khích đổi mới, sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực bưu chính, góp phần phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng, vận hành và chia sẻ, sử dụng chung hạ tầng bưu chính; Phát triển thị trường bưu chính theo hướng bảo đảm cung cấp công bằng, ổn định, có chất lượng các dịch vụ bưu chính công ích tới mọi người dân, mở rộng hệ sinh thái, mở rộng không gian hoạt động mới, thúc đẩy phát triển kinh tế số và tham gia góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; Phát triển các dịch vụ hoàn tất đơn hàng cho thương mại điện tử và giao hàng chặng cuối cho logistics, chuỗi cung ứng; Thực hiện chuyển đổi số bưu chính; Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực và tuyên truyền; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bưu chính; Hợp tác quốc tế; Đo lường, giám sát, đánh giá triển khai…

Quyết định có hiệu lực từ ngày ký

Bối cảnh hiện nay là thời cơ mà Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt, hành động mạnh mẽ để phát triển kinh tế số và xã hội số, phát triển thêm các ngành nghề kinh doanh mới, mở ra các thị trường mới và tạo thêm nhiều nhu cầu việc làm mới, từ đó bứt phá vươn lên thay đổi thứ hạng quốc gia. Nhiệm vụ phát triển kinh tế số và xã hội số được đặt ở mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển quốc gia.

Phát triển số với việc tạo tăng trưởng dựa trên yếu tố đầu vào là công nghệ số và dữ liệu số, trở thành một trong những phương thức phát triển chủ đạo mới để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, thích ứng và kiên cường trước các thách thức trong thế giới nhiều biến động khó dự báo trước.

Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 là gì
Phấn đấu đến 2025, tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%

Bên cạnh đó, phát triển kinh tế số giúp người dân giàu có hơn, góp phần đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045.

Đồng thời, phát triển xã hội số giúp người dân hạnh phúc hơn, tham gia các hoạt động xã hội toàn diện hơn, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội thuận lợi hơn, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn, nhân văn và rộng khắp.

Chiến lược xác định thể chế, hạ tầng, nhân lực, người dân, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế số và xã hội số. Chiến lược nêu ra các 16 nhóm nhiệm vụ và 8 nhóm giải pháp để đưa công nghệ số và dữ liệu số thấm sâu một cách tự nhiên mặc định vào mọi mặt sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân.

Theo chiến lược, kinh tế số bao gồm: Kinh tế số ICT là công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông; kinh tế nền tảng là hoạt động kinh tế của các nền tảng số, các hệ thống trực tuyến kết nối giữa cung với cầu và các dịch vụ trực tuyến trên mạng; kinh tế số ngành là hoạt động kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực.

Chiến lược đặt mục tiêu phát triển kinh tế số ICT với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam, hài hòa với thu hút FDI có chọn lọc, gia tăng hàm lượng xuất khẩu. Phát triển kinh tế số nền tảng với trọng tâm là các nền tảng số quốc gia, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số ngành, lĩnh vực. Phát triển kinh tế số ngành với trọng tâm là ưu tiên đưa vào sử dụng các nền tảng số dùng chung, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực.

Các mục tiêu cơ bản về phát triển kinh tế số đến năm 2025 gồm có: Tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên 80%; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 50% và tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 2%.

Chiến lược cũng đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ lệ dân số trưởng thành có smartphone đạt 80%; tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch thanh toán tại ngân hàng hoặc tổ chức được phép khác đạt 80%; tỷ lệ dân số trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân đạt trên 50%; tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động được đào tạo kỹ năng số cơ bản đạt trên 70%...

Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 là gì
Việt Nam cần có quyết tâm và thực hiện ngay một số thay đổi chiến lược để đạt được các mục tiêu quan trọng trong năm 2030 và 2045 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra. (Nguồn: Pháp luật)

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định, về tầm nhìn và định hướng phát triển, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng đặt mục tiêu tương tự. Bên cạnh đó, phấn đấu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người của Việt nam đạt khoảng 7.500 USD. Trong 5 năm tới (2021-2025), Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt khoảng 6,5-7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5.000 USD.

Nhiều triển vọng

Có thể thấy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 6,84%/năm trong giai đoạn 2016-2020, trong đó riêng 2 năm 2018 và 2019 đạt lần lượt 7,08% và 7,02%; Việt Nam bước vào giai đoạn 2021-2025 với nhiều triển vọng.

Thực tế qua 35 năm đổi mới, nhất là trong 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã chứng minh rõ ràng điều đó. Từ một nước nghèo, chậm phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bước sang một giai đoạn phát triển mới, được cộng đồng quốc tế nhắc tới là một nước có quy mô GDP vươn lên đứng thứ 4 trong ASEAN, cùng với những bước tiến trên hàng loạt bảng xếp hạng uy tín toàn cầu.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc từng phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII rằng, sau 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực lớn mạnh hơn nhiều, quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Trong đó, nước ta đã có quy mô GDP 343 tỷ USD, đứng 37 thế giới (từ xếp hạng thứ 55 đầu nhiệm kỳ), 1 trong 16 nền kinh tế mới nổi.

Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng nhất thế giới. Việt Nam cũng là nước có độ mở kinh tế cao, tổng kim ngạch thương mại bằng 200% GDP. Nước ta đã quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với trên 224 quốc gia, vùng lãnh thổ...

Theo PGS.TS. Vũ Minh Khương - chuyên gia cao cấp về chính sách phát triển kinh tế, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, chỉ còn đúng 1/4 thế kỷ nữa là năm 2045, đất nước kỷ niệm 100 năm độc lập.

Nếu trong thời khắc đó, Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển thì dân tộc ta sẽ ghi vào lịch sử nhân loại một câu chuyện phát triển thần kỳ. Đó là chỉ trong vòng 100 năm, một dân tộc có thể vượt qua cả ba chặng đường: “đứng dậy”, “thức dậy” và “trỗi dậy”.

Giai đoạn 1945-1975, Việt Nam đã nhất tề "đứng dậy" để xóa bỏ xiềng xích nô lệ, lầm than để giành lại độc lập tự do hoàn toàn cho đất nước.

Giai đoạn 1975-2015, cả nước đã trăn trở và "thức dậy" để tìm ra con đường thoát khỏi nghèo nàn và tư duy lạc hậu với công cuộc đổi mới lần thứ nhất (1986-2015). Điều này giúp Việt Nam tiến một bước lớn, cả về thế và lực.

Giai đoạn “trỗi dậy”, sau Đại hội Đảng lần thứ XII năm 2016, làn sóng đổi mới lần thứ hai dấy lên kỳ vọng đưa đất nước đi đến phồn vinh, hùng cường vào năm 2045.

"Đại hội Đảng lần thứ XIII cho tôi niềm tin và hy vọng vào một quyết tâm duy trì ổn định chính trị xã hội và đổi mới kinh tế, nhất là đường lối quản trị, điều hành đất nước.

Năm 2030 là năm kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi tin rằng, lãnh đạo Đảng sẽ làm mọi cố gắng để đưa đất nước tiến gần đến mốc của một nước phát triển có thu nhập trung bình cao. Và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập đất nước, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển" - GS. Hà Tôn Vinh.

Trong 5 năm đầu tiên của chặng đường này, đặc biệt năm 2020, Việt Nam đã làm nên những kỳ tích ấn tượng, ghi điểm trên thế giới cả về tăng trưởng kinh tế lẫn kinh nghiệm chống đại dịch Covid-19 đang khiến cả thế giới chao đảo.

Để đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử như vậy, phần lớn là nhờ đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong đó phải kể đến chủ trương, chính sách về đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ.

Nhờ đó, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam đã được cải thiện liên tục, tăng 10 bậc từ năm 2015, đứng ở vị trí thứ 42/131 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập.

Thay đổi chiến lược, hiện thực hóa mục tiêu

Để hoàn thành mục tiêu đề ra, văn kiện Đại hội XIII xác định ba phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội sẽ được tập trung triển khai trong giai đoạn 2021-2030. Đó là: Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Đồng thời, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030 cũng xác định phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt 40%.

Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 là gì
Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng nhất thế giới. (Nguồn: Vnxpress)

Theo GS. Hà Tôn Vinh - cựu Trợ lý Nhà Trắng thời Tổng thống Mỹ Reagan, cố vấn tài chính cho nhiều công ty đa quốc gia, nhìn vào chặng đường phía trước, Việt Nam còn nhiều thách thức, chông gai. Tuy nhiên với kinh nghiệm trong quá khứ, với đà phát triển hiện tại, Việt Nam sẽ bước vào một kỷ nguyên mới, một chặng đường phát triển bền vững và ngoạn mục hơn những gì đã làm được trong 35 năm qua.

GS. Vinh nhận định: "Đại hội Đảng lần thứ XIII cho tôi niềm tin và hy vọng vào một quyết tâm duy trì ổn định chính trị xã hội và đổi mới kinh tế, nhất là đường lối quản trị, điều hành đất nước.

Năm 2030 là năm kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi tin rằng, lãnh đạo Đảng sẽ làm mọi cố gắng để đưa đất nước tiến gần đến mốc của một nước phát triển có thu nhập trung bình cao. Và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập đất nước, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển".

Để đạt được hai mốc quan trọng này, GS. Hà Tôn Vinh cho rằng, Việt Nam cần có quyết tâm và thực hiện ngay một số thay đổi chiến lược. Cụ thể như:

Thứ nhất, cần có chính sách đầu tư quốc gia, phát triển công nghệ, khoa học để làm một cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế số giống như đã từng chuyển đổi nền kinh tế tập trung năm 1986 sang nền kinh tế thị trường hiện tại.

Cuộc cách mạng chuyển đổi số sẽ giống như cuộc cách mạng internet và máy tính trong những thập niên 80 và 90 thế kỷ trước, ai cũng bị ảnh hưởng, không ai được phép ngồi ngoài tầm ảnh hưởng của công nghệ máy tính và thế giới kết nối internet.

Thứ hai, đột phá trong việc tìm, đào tạo, sử dụng và duy trì nguồn nhân lực có chuyên môn cao, phù hợp với việc phát triển nền kinh tế số. Trong “thế giới phẳng” của ngày hôm nay, công nghệ và những gì chúng ta học được của ngày hôm qua sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh, là bệ phóng.

Nhân tài được đào tạo mới sẽ tiến nhanh và xa hơn những người của thế hệ hôm qua. Sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế số sẽ quyết định sự thành bại của các tổ chức.

Năng suất lao động kinh tế số sẽ là chỉ số mới trong việc đánh giá sự phát triển và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của quốc gia.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc thay đổi và điều chỉnh cơ chế điều hành để tiến tới một nền kinh tế thị trường đích thực, hợp tác và hội nhập quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng rộng rãi và bền vững.

Ưu tiên phát triển thế mạnh của vùng miền như kinh tế biển, kinh tế khai khoáng, kinh tế du lịch, tạo nên thế liên minh kinh tế giữa doanh nghiệp và chính quyền địa phương hay các dự án hợp tác công tư.

GS. Hà Tôn Vinh khẳng định: "Con đường phía trước còn dài và nhiều thử thách, chông gai. Khó khăn rồi cũng sẽ qua đi. Sự quyết tâm, bản lĩnh của các nhà lãnh đạo đất nước và cộng đồng doanh nghiệp sẽ là điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu của hai mốc quan trọng trong năm 2030 và 2045 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra".