Virus là sinh vật có kích thước vô cùng nhỏ, nhỏ hơn nhiều so với vi khuẩn và là nguyên nhân gây nhiều đại dịch lớn trên toàn thế giới. Điều trị hiện nay chủ yếu là điều trị triệu chứng, ngăn ngừa biến chứng và tăng cường sức khỏe cho người bệnh. Show 1. Virus là gì và nguồn gốc?Đây là vi sinh vật có kích thước vô cùng nhỏ, trung bình khoảng từ 50 - 300nm nên chỉ có thể quan sát được qua kính hiển vi điện tử. Thực tế virus chỉ là một đại phân tử Nucleoprotein mang vật chất di truyền cơ bản nên chúng không thể tự sinh sản hoặc tham gia quá trình trao đổi chất, thực hiện hoạt động sống. Virus là những vi sinh vật vô cùng nhỏ Virus đầu tiên được con người phát hiện là vào năm 1892 do Ivanopxki. Tuy nhiên phải đến năm 1940, khi y học phát triển hơn, con người mới lần đầu tiên quan sát được hình thể của chúng qua kính hiển vi điện tử. Có rất nhiều loại virus đã được phát hiện, hầu hết chúng có kích thước và hình dạng nhất định, không thay đổi trong suốt quá trình phát triển hay gây bệnh. Một số dạng hình thái virus thường gặp như: - Virus hình cầu: virus HIV, cúm, sởi, bại liệt. - Virus hình đa diện: Herpes virus, Adenovirus. - Virus hình que, hình sợi hay hình thể kháng: ít gặp hơn. Virus là nguyên nhân gây ra nhiều dịch bệnh mang tính toàn cầu, lây lan rộng rãi nhanh chóng. Tiêu biểu như đại dịch Ebola do virus Ebola gây ra năm 2014, Đại dịch cúm lợn năm 2009 hay gần đây nhất là đại dịch Covid-19 do virus Corona gây ra. Virus Corona gây đại dịch Covid-19 Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa kết luận được chính xác nguồn gốc hình thành của Virus. Có 3 giả thuyết được đặt ra cạnh tranh nhau gồm: Giả thuyết hồi quy hoặc giảm: Cho biết Virus hình thành như những sinh vật độc lập, trở thành ký sinh trùng. Theo thời gian chúng loại bỏ gen không cần thiết, trở thành chuỗi Nucleoprotein đơn giản và phụ thuộc hoàn toàn vào tế bào chúng lựa chọn. Giả thuyết đầu tiên: cho biết virus phát triển từ các phân tử phức tạp của acid nucleic và protein, có thể trước hoặc cùng thời điểm tế bào bắt đầu xuất hiện trên Trái Đất. Giả thuyết tiến bộ: cho biết virus là tiến hóa từ 1 phần của RNA hoặc DNA, thoát khỏi gen của các sinh vật lớn, trở nên độc lập và thoải mái di chuyển giữa các tế bào. Còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc của virus song không thể phủ nhân, đây là nguồn gây bệnh vô cùng nguy hiểm của loài người. 2. Đặc tính của virusVirus không phải là tế bào sống, vì thế không giống như vi khuẩn, chúng không thực hiện các hoạt động sống, cũng không thể tự sinh sản được. Vì thế chúng chỉ có thể tồn tại khi kí sinh vào tế bào sống, sử dụng nguồn acid amin, năng lượng, enzym,… của tế bào chủ để tổng hợp virus mới. Một đặc tính nguy hiểm của virus là khả năng sinh sản và lây lan rất nhanh chóng sang các tế bào và vật chủ khác. Khả năng và con đường lây truyền của lây truyền phụ thuộc vào cấu trúc, bản chất của vi sinh vật này. So với vi khuẩn, virus có thể lây truyền từ mẹ sang con, từ người sang người qua tiếp xúc gần trực tiếp hoặc tiếp xúc gián tiếp từ nguồn nước/thực phẩm ô nhiễm. Virus có thể chỉ sống trên cá thể trung gian một thời gian, cho đến khi xâm nhập vào vật chủ (người hoặc động vật) mới bắt đầu được biết đến như tác nhân gây bệnh nguy hiểm. Sau thời gian ủ bệnh cũng là thời gian virus nhân lên nhanh chóng trong cơ thể, chúng sẽ gây ảnh hưởng đến các cơ quan, hệ miễn dịch cơ thể cũng sản xuất kháng thể chống lại bệnh. Lúc này triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện. Một số loại virus lây lan còn có thể thay đổi DNA của vật chủ, ảnh hưởng đến bộ gen hoàn toàn bằng cách di chuyển xung quanh nhiễm sắc thể, lây DNA đưa cho 1 tế bào hoặc sinh vật khác. Sự tương tác này cũng khiến chính cấu trúc virus thay đổi, tạo ra 1 loại virus mới hoặc virus tiến hóa ảnh hưởng đến con người trong tương lai. Virus có thể gây ảnh hưởng di truyền tới vật chủ Vì thế, đây vẫn là tác nhân gây bệnh đáng sợ của loài người, các nhà khoa học vẫn không ngừng tìm ra phương pháp điều trị triệt để virus gây bệnh. 3. Virus có thể gây ra những bệnh gì?Virus là tác nhân gây ra rất nhiều bệnh cho con người như: Viêm gan (A, B, C), đậu mùa, cảm lạnh thông thường và cúm các loại, sởi, quai bị, zona, thủy đậu, Rubella, bệnh dại, bại liệt, Ebola, HIV, SARS, HPV gây ung thư, Covid-19,… Một số loại virus gây bệnh có thể chủ động phòng ngừa bằng cách tiêm phòng vắc xin (là virus giảm độc lực hoặc xác virus). Khi đưa vào cơ thể, chúng không có khả năng gây bệnh, nhưng giúp hệ miễn dịch cơ thể nhận ra, sản xuất kháng thể chống lại chúng. Sau đó, kháng thể chống virus sẽ tồn tại lâu dài trong cơ thể, khi virus thực sự xâm nhập, kháng thể có sẵn sẽ nhanh chóng đáp ứng tiêu diệt tác nhân gây bệnh. Hiện nay, nhiều loại virus gây bệnh hiện nay vẫn chưa tìm ra vắc xin phòng ngừa, người bệnh mắc phải có thể tử vong nhanh chóng nếu không có can thiệp y tế kịp thời và hiệu quả. Điều trị bệnh do virus hiện còn nhiều khó khăn, kháng sinh không đạt hiệu quả tốt giống như nhiễm trùng vi khuẩn. Nhiều bệnh lý do virus chỉ có thể điều trị bằng biện pháp hỗ trợ giảm triệu chứng. Rất nhiều virus có lợi cho sức khỏe người Tuy nhiên không phải tất cả các loại virus tồn tại đều là nguyên nhân gây bệnh, giống như nhiều loại lợi khuẩn tồn tại trong ruột giúp chúng ta tiêu hóa thức ăn tốt hơn, cũng có nhiều loại virus “tốt” với sức khỏe. Như vậy, để chống lại các căn bệnh do virus, hệ miễn dịch cơ thể đóng vai trò quan trọng và quyết định. Cùng với đó là hỗ trợ y tế để giảm thiểu triệu chứng, duy trì sự sống của người bệnh. Với đặc tính lây lan và “tự tiến hóa” của mình, virus chắc chắn vẫn là bài toán nan giải của loài người trong tương lai. Tại sao khó tìm ra thuốc chữa trị virus corona?Nguồn hình ảnh, Getty Images Thủ tướng Anh Boris Johnson mới đây đã tuyên bố thành lập một lực lượng đặc nhiệm kháng virus để tiếp sức cho sự phát triển các loại thuốc kháng virus mới. Tại buổi họp báo ở Phố Downing, ông nói: "Đa phần các ý kiến khoa học ở đất nước này vẫn kiên quyết giữ quan điểm rằng sẽ có một làn sóng Covid khác xảy ra vào lúc nào đó trong năm nay." Ông hy vọng thuốc kháng virus sẽ có trước mùa thu để giúp dập tắt làn sóng thứ ba. Vi khuẩn ăn thịt người lan tràn Melbourne, Úc Lý do khiến một số người không bao giờ mắc Covid-19 Tiến hành xét nghiệm virus corona khó, dễ tới đâu? Mặc dù đã có những loại thuốc chống viêm giúp giảm nguy cơ tử vong do Covid-19, chẳng hạn như dexamethasone và tocilizumab, nhưng chúng chỉ được dùng cho những bệnh nhân Covid-19 nặng phải nhập viện. Nhưng ông Johnson muốn có các loại thuốc có thể sử dụng tại nhà, ở dạng thuốc viên, để ngăn chặn việc các bệnh nhân cần phải dùng đến máy thở trong bệnh viện. Virus đa dạngThường phải mất nhiều năm để phát triển và phê chuẩn các loại thuốc kháng virus mới, vì đây là một quy trình nghiên cứu rất vất vả nhằm xác định các hợp chất hóa học tấn công virus, rồi sau đó kiểm nghiệm độ hiệu quả và tính an toàn của chúng. Do đó, các nhà khoa học cũng đang xem xét tới việc sử dụng các loại thuốc đã có, vốn đã được phê duyệt để đối phó các virus khác hoặc bệnh khác. Nguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Thuốc kháng virus Tamiflu 'khóa' protein lên bề mặt các tế bào bị nhiễm bệnh để không cho các hạt cúm thoát ra Nếu như thuốc kháng sinh có phạm vi sử dụng rộng, có thể được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, thì các loại thuốc có hiệu quả trước loại virus này lại hiếm khi công hiệu trong điều trị các loại virus khác. Nipah, virus chết người mới lại đe dọa Châu Á Covid-19: Các biến thể mới có 'qua mặt' được vaccine? Chống Covid-19 bằng vaccine hay miễn dịch cộng đồng? Chẳng hạn thuốc remdesivir vốn lúc đầu được phát triển để chữa viêm gan C và đã có lúc được đề xuất như một phương pháp điều trị Covid-19, nhưng các thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng nó chỉ có tác dụng khiêm tốn trước virus corona. Lý do có rất ít loại thuốc kháng virus đã được phép sử dụng rộng có công hiệu là bởi virus đa dạng hơn vi khuẩn nhiều, bao gồm cách chúng lưu trữ thông tin di truyền (một số ở dạng DNA, trong lúc một số ở dạng RNA). Không giống như vi khuẩn, virus có ít khối tạo lập protein riêng mà thuốc có thể nhắm vào được. Để công hiệu, thuốc cần phải tiến đến 'giáp lá cà' được mục tiêu. Điều này đặc biệt khó khăn đối với viru, bởi virus nhân bản bên trong tế bào người bằng cách chiếm đoạt bộ máy tế bào của chúng ta. Thuốc cần phải vào bên trong các tế bào bị nhiễm và phát huy tác dụng trên các quá trình cần thiết cho hoạt động bình thường của cơ thể con người. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi việc này thường gây hại cho các tế bào người, thể hiện dưới các hình thức tác dụng phụ. Nhắm vào các virus bên ngoài tế bào - để ngăn chúng chiếm được chỗ trước khi có thể nhân bản - là điều tuy khả dĩ nhưng khá khó khăn, do tính năng của vỏ virus. Trong quá trình virus 'công thành', tiến chiếm vật chủ, lớp vỏ hết sức chắc chắn, mạnh mẽ của nó kháng cự được các tác động tiêu cực của môi trường bên ngoài. Chỉ khi virus tới được mục tiêu, vỏ của nó mới phân rã hoặc đẩy phần bên trong - vốn chứa thông tin di truyền của virus - ra khỏi lớp vỏ. Giai đoạn 'xuất binh' này là một điểm yếu trong vòng đời của virus, nhưng các điều kiện để dẫn tới việc việc virus thoát ra khỏi vỏ là rất cụ thể. Và tuy các loại thuốc nhắm vào vỏ virus nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng một số loại thuốc vẫn có thể độc hại đối với con người. Bất chấp những khó khăn này, các loại thuốc điều trị virus như cúm và HIV đã được phát triển. Một số loại thuốc này nhắm vào các quá trình nhân lên và ráp vỏ của virus. Các mục tiêu đầy hứa hẹn trên virus corona, được cho là đích ngắm để thuốc tấn công, cũng đã được xác định. Nhưng để làm ra loại thuốc mới sẽ phải mất nhiều thời gian trong khi virus biến đổi nhanh chóng. Vì vậy, ngay cả khi một loại thuốc được phát triển, thì với việc không ngừng tiến hóa, chẳng bao lâu virus sẽ đạt được khả năng kháng thuốc. Virus ngủNguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Một số biến thể HIV đã tiến hóa để trở nên nhờn thuốc đối với một số loại thuốc kháng virus (ARV) vốn được phát triển từ cuối thập niên 1980 Một vấn đề nữa trong việc đối phó virus là một số loại virus - chẳng hạn như HIV, virus papilloma và virus mụn rộp - có thể chuyển sang chế độ ngủ. Ở trạng thái này, virus đã khu trú trong các tế bào bị nhiễm sẽ không sản sinh ra bất kỳ virus mới nào. Thông tin di truyền của virus là nội dung duy nhất của virus hiện diện trong các tế bào. Thuốc khi đó sẽ không tìm được dấu hiệu gì làm cơ sở để can thiệp vào quá trình nhân bản của virus hoặc để tấn công vào vỏ virus, do vậy, virus sẽ vẫn 'bình an vô sự' mà không bị thuốc công phá. Và bởi không để lộ ra manh mối gì khiến các loại thuốc có thể can thiệp, công phá vào quá trình nhân lên hoặc nhắm vào vỏ virus, virus vẫn tồn tại. Khi virus ngủ hoạt động trở lại, các triệu chứng nhiều khả năng sẽ tái phát và khi đó, việc dùng thuốc để điều trị bổ sung sẽ là cần thiết. Điều này làm tăng cơ hội hình thành khả năng kháng thuốc, vì virus đã có được một thời gian dài hơn để hình thành ra các biến thể kháng thuốc. Mặc dù chúng ta vẫn chỉ mới bắt đầu hiểu vòng đời của virus corona, nhưng có những dấu hiệu cho thấy chúng có thể tồn tại trong thời gian dài, đặc biệt ở những bệnh nhân có hệ miễn dịch yếu, dẫn đến một vấn đề nữa là sẽ xuất hiện các chủng virus kháng thuốc hơn. Nghiên cứu về cách thức hoạt động của virus corona đã đi được một chặng đường dài trong thời gian ngắn, nhưng khi nói về phát triển thuốc kháng virus vẫn còn nhiều câu hỏi cần trả lời. Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future. |