Ngửa váy hứng dừa là gì

MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiTrong kho tàng mỹ thuật cổ Việt Nam có một mảng tranh rất quý giá còn lưutruyền cho đến ngày nay. Đó là tranh dân gian. Tranh được sản xuất ở nhiềuvùng khác nhau trên khắp đất nước ta suốt từ Bắc đến Nam. Cũng chính vì thếnên có nhiều dòng tranh khác nhau, rất đa dạng về nội dung cũng như cách thểhiện. Nhưng dù ở đâu, tranh dân gian cũng biểu hiện trí tuệ tạo hình của một tậpthể dòng họ, một làng xã, một vùng miền. Vì vậy dù ở đâu nội dung tranh cũngnói lên những điều người dân khao khát, mong chờ, mơ ước, thỏa mãn nhu cầucủa họ về nhiều mặt trong cuộc sống thực tế cũng như trong đời sống tâm linh.Cho dù có nhiều hình thức thể hiện khác nhau, song giữa các dòng tranh dângian có một điểm chung. Đó là cách biểu hiện đơn giản, dễ hiểu và dễ đi vàolòng người thưởng thức.Với cuộc sống hiện đại, có thể nội dung tranh dân gian không còn phù hợpsong không vì thế tranh dân gian không còn tồn tại. Trái lại tranh dân gian vẫnchinh phục được đông đảo công chúng yêu nghệ thuật không chỉ trong nước vàcòn khách nước ngoài.Sức sống của tranh dân gian thật mãnh liệt vượt qua cả thời gian, hoàn cảnhxã hội đến với chúng ta. Điều gì đã khiến cho tranh dân gian có sức sống bềnlâu đến thế? Giá trị nghệ thuật của tranh dân gian biểu hiện ở những yếu tố nào?Nghiên cứu tranh dân gian cũng giúp chúng ta tìm hiểu cách tạo hình, chất liệuđược sử dụng để vẽ tranh của các nghệ nhân dân gian xưa. Thấy được cái hay,cái đẹp, cái giỏi của các nghệ nhân và tranh dân gian xưa, chúng ta càng tự hàovề truyền thống nghệ thuật của ông cha ta, tạo cơ sở cho chúng ta có thể sángtạo nhiều tác phẩm mỹ thuật vừa hiện đại vừa đậm chất dân tộc.Nghiên cứu tranh dân gian Đông Hồ nói chung và tranh Hứng Dừa nói riêngxuất phát từ những lý do:Thứ nhất: Trong xã hội xưa thì tranh dân gian Đông Hồ là một dòng tranhđược rất nhiều người ưa thích, đặc biệt đó là món trưng bày không thể thiếutrong gia đình những ngày tết đến xuân về, nó mang giá trị tinh thần sâu sắc, thểhiện ước vọng của con người trong cuộc sống và trong tương lai. Cũng nhưtranh Hứng Dừa đã nói lên được những nét riêng của dòng tranh Đông Hồ. Nónói lên những giá trị quý báu của ông cha ta đã để lại cho con cháu mai sau.Thứ hai: Hiện nay cùng với sự phát triễn xã hội và chơ chế thị trường đãlàm biến đổi mạnh mẽ nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của đại đa số người dân.Tranh dân gian Đông Hồ không còn là một món đồ không thể thiếu của mọi giađình nữa, không còn cảnh mua bán nhộn nhịp nữa mà thay vào đó là những sảnphẩm mới. Tranh dân gian Đông Hồ cản phải có những thay đổi đẻ phù hợp vớidời sống và sự phát triển của xã hội nhưng vẫn không mất được những nét đặcsắc vốn có của nó.Thứ ba: Tranh dân gian Đông Hồ nói chung và tranh Hứng Dừa nói riêng làmột trong những di sản văn hóa nổi bật của dòng tranh dân gian Việt Nam.Trước những biến đổi của xã hội, cùng với sự vào cuộc của truyền thông, tranhdân gian ngày càng được yêu thích, giữ gìn và phát triễn. Như vậy có thể thấyrằng tầm quan trọng và những giá trị to lớn mà tranh dân gian đã mang lại chonền văn hóa Việt Nam.2. Lịch sử vấn đềTranh dân gian Việt Nam và tranh Đông Hồ với những nét đặc sắc của mìnhđã là đề tài của nhiều nhà nghiên cứu. Riêng với Đông Hồ trước nay vẫn đượcgiới nghiên cứu đánh giá là nơi khởi nguồn và phát triển của dòng tranh dângian khắc gỗ nổi tiếng – tranh dân gian Đông Hồ. Có rất nhiều bài viết trên cácbáo tạp chí hay các bài nghiên cứu của các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu mỹthuật viết về dòng tranh Đông Hồ cũng như tranh Hứng Dừa. Cũng có rất nhiềubài luận văn cũng tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài này và đã thấy được nhữngđánh giá sâu sắc về nội dung hay ý nghĩa về bức tranh trong đời sống.Nghiên cứu “khái quát về tranh dân gian Việt Nam” của nhà nghiên cứuTrương Quốc Bình, đã nhắc đến tranh dân gian Đông Hồ như một dòng tranhquý độc đáo trong văn hóa dân tộc. Đồng thời cũng thể hiện sức sống bền bỉ củadòng tranh này trong sự biến đổi của lịch sử văn hóa và xã hội.Nghiên cứu của tác giả Từ Thị Loan “Giá trị của tranh dân gian Đông Hồ” đãđưa ra những nội dung cho thấy giá trị của tranh dân gian Đông Hồ trên cácphương diện lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.Theo bài nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh trongcuốn “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam” lại cho rằng: nội dungbức tranh lưu truyền hàng ngàn năm trong dân gian có lẽ không thể chỉ đơngiản như vậy. Cây dừa là một hiện tượng phát sinh và tồn tại tự nhiên của tạohóa, đâu phải do con người tạo ra? Tại sao lại là “ai”? “Ai” là ai mới được chứ?Sự tung dừa từ trên cây cho người ở dưới hứng thì cực kỳ nguy hiểm, nhỡ nórơi vào đầu thì sao? Hình tượng của bức tranh không phản ánh thực tế. Nếu quảthật với nội dung đơn giản như trên thì bức tranh có thể được thể hiện với mộthình thức khác: như thay cây dừa bằng cây chôm chôm, hoặc nhãn lồng chẳnghạn. Nhưng chính từ lời chú của bức tranh và sự lưu truyền lâu đời trong dângian khiến cho người xem tranh phải nghiền ngẫm tính minh triết và nhân bảncủa bức tranh này. Ngoài ra, còn có nhiều bài nghiên cứu của các nhà nghiêncứu khác được đăng lên trên các tạp chí văn hóa nghệ thuật hay tạp chí văn hóadân gian cho ta thấy được cái nhìn tổng thể và đa diện về tranh Đông Hồ hay vềbức tranh Hứng Dừa.Nhìn chung các nhà nghiên cứu cũng xác định rõ được nghề làm tranh ĐôngHồ đã có từ rất lâu đời. Nội dung cũng đã phản ánh được và đầy đủ mọi khíacạnh của cuộc sống con người. Bức tranh dân gian Hứng Dừa cũng nói lênđược cuộc sống của người dân, sau đây tôi xin tìm hiểu sâu về bức tranh nàyqua đề tài “Ý nghĩa của bức tranh dân gian Hứng Dừa” nhằm hiểu biết thêm vềnhững nét đặc sắc, ý nghĩa của bức tranh dân gian này.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên cứuNghiên cứu sự biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ cũng như tranh dân gianHứng Dừa trên nhiều phương diện về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật từ đóđánh giá được bức tranh.Nghiên cứu các dòng tranh khác như tranh hàng Trống, tranh làng Sình, tranhKim Hoàng. Qua đó chúng ta có thể thấy được sự độc đáo của các dòng tranhnày, cũng như giúp chúng ta so sánh với nhau giữa các dòng tranh giúp hiểu rõđược sự khác nhau và giống nhau giữa các dòng tranh này.Nghiên cứu và phân tích bức tranh Hứng Dừa.3.2 Phạm vi nghiên cứu- Phạm vi không gian nghiên cứu: do thời gian có hạn nên chỉ nghiên cứu vàosự phát triển của tranh dân gian Đông Hồ cũng như bức tranh Hứng Dừa.- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: tìm hiểu về tính phổ biến của dòng tranhĐông Hồ củng như bức tranh Hứng Dừa trong đời sống con người hiện naytrên các phương diện: giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.3.14. Phương pháp nghiên cứuBài luận văn này là sự kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xãhội khác nhau:- Phương pháp phân tíchTrong khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp phântích dòng tranh Đông Hồ. Đặc biệt là phân tích bức tranh Hứng Dừa.- Phương pháp so sánhChúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp so sánh những nét nổi bật cũngnhư những giá trị của bức tranh Hứng Dừa với những bức tranh khác.- Phương pháp tổng hợpPhương pháp này được vận dụng khi phân tích và so sánh để rúy ra nhận xétvà kết luận.5. Đóng góp của đề tàiĐề tài “Ý nghĩa của bức tranh dân gian Hứng Dừa” giúp cho chúng ta hiểuđược những nét đặc sắc của bức tranh mà tác giả muốn thể hiện cho người xemmột cách chân thực, nó thể hiện được những ý nghĩa của bức tranh trong dờisống xã hội của con người.6. Bố cục của đề tài--Mở đầuNội dung: gồm 2 chươngChương 1: Cơ sở lý luậnChương 2: Ý nghĩa của bức tranh dân gian Hứng DừaKết luậnTài liệu tham khảoNỘI DUNGChương 1: Cơ sở lý luận1.11.1.1Những vấn đề về tranh dân gianKhái niệmHiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về tranh dân gian. Theo Wikipedia“Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rấtmạnh mẽ, mặc dù ngày nay có giảm sút nhưng vẫn còn được giữ gìn và bảo tồntrong một số làng nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranhchính là tranh tết và tranh thờ. Sở dĩ chúng xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hailoại chính là tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như đúng lúc với tín ngưỡng thờcún tổ tiên của người việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên”. Còntheo Bùi Quang Thanh định nghĩa “Tranh dân gian là một trong những loại hìnhnghệ thuật xưa, nó là sản phẩm của quá trình sáng tạo nghệ thuật của những nghệnhân dân gian. Những bức tranh thường thể hiện khát vọng về cuộc sống tốt đẹphơn của con người”. Như chúng ta có thể thấy thì khái niệm tranh dân gian của nhànghiên cứu Bùi Quang Thanh là hợp lý hơn cả.1.1.2 Nguồn gốc của tranh dân gianĐể tìm nguồn gốc và thời điểm ra đời của tranh dân gian, nhiều nhà nghiên cứumỹ thuật đã đưa ra nhiều sự phỏng đoán khác nhau dựa trên nhiều căn cứ: văn thơ,sử, sách,… Mỗi dự đoán đều có cơ sở lý luận và sự lập luận xác đáng. Tuy vậynhưng những dự đoán đó vẫn chưa được các nhà lý luận thống nhất. Mỗi ngườimột con đường tiếp cận với tranh dân gian. Trong khi chờ đợi các nhà lí luận chungsức, chung lòng đưa ra một kết luận xác đáng về thời điểm ra đời của tranh dângian, chúng ta đành bằng lòng với một kết luận rất chung chung đã nêu lên từ đầu.Vấn đề quan trọng là ta xem tranh dân gian, tìm hiểu giá trị của tranh để tìm hiểuthêm về tài năng của ông cha ta trong nghệ thuật tạo hình. Mặc dù không xác địnhđược niên đại chính xác nhưng chúng ta đều biết rằng một trong những mảng tranhdân gian là tranh tết. Vậy thì những bức tranh tết phải được sáng tác để phục vụnhu cầu tranh trong ngày tết cho mọi tầng lớp người xã hội. Đó là một cơ sở giúpcho ta tìm hiểu sự ra đời của tranh dân gian. Mặt khác, dân tộc ta có truyền thốngtín ngưỡng lâu đời: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ đạo Mẫu, thờ các vị thầnlinh… Vì vậy tranh dân gian còn được ra đời từ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng. Nhưvậy cùng với tranh Tết còn có tranh thờ của dân tộc Kinh và các dân tộc miền núiđược sản xuất và bán quanh năm.Tranh dân gian là một phần quan trọng trong toàn bộ nền văn hóa dân tộc, ở đóthể hiện những nét độc đáo trong sinh hoạt, vui chơi lễ hội và truyền thống dântộc…Tranh có cội nguồn từ xa xưa và ra đời phục vụ cho nhu cầu chơi tranh nhândịp tết đến, xuân về và nhu cầu thờ cúng của đông đảo quần chúng nhân dân trướckia cũng như hiện nay. Khi những nhu cầu đó không được thỏa mãn trong dòngnghệ thuật chính thống cũng chính là lúc đòi hỏi phải có một dòng nghệ thuật dângian ra đời. Dòng nghệ thuật dân gian đó chinh là những người dân sáng tạo ra,mang theo những nội dung người dân yêu thích và được thể hiện bằng một ngônngữ dễ hiểu, đơn giản.1.1.3 Một số dòng tranh chínhTranh dân gian được sản xuất ở nhiều vùng khác nhau trong cả nước: ở miềnBắc có tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh); tranh dân gian Hàng Trống (Hà Nội);tranh Kim Hoàng (Hà Tây). Miền Trung có tranh sản xuất ở Nam Hoành (NghệTĩnh); tranh Làng Sình (Huế). Một số vùng ở Nam Bộ cũng có sản xuất tranh thờ.Ngoài ra trên các vùng núi còn có tranh vẽ tay của dân tộc như: Tày, Nùng, Dao,…Phục vụ mục đích tôn giáo, thờ cúng là chủ yếu. Đến nay có những dòng tranh maimột như dòng tranh dân gian Kim Hoàng. Ở Hàng Trống (Hà Nội) cũng không cònnghề vẽ tranh nữa, đến nay chỉ còn một nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống là ông LêĐình Nghiêm, sống tại phố Cửa Đông, Hà Nội vẫn duy trì truyền thống vẽ tranhcủa ông cha xưa và cố gắng truyền nghề lại cho các thế hệ sau. Tuy vậy trong sốcác dòng, các vùng làm tranh nêu trên thì tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống làhai dòng tranh khắc có truyền thống lâu đời hơn cả. Ngoài ra các thể loại tranhcũng đầy đủ hơn các dòng tranh khác.• Tranh dân gian Đông HồTên đầy đủ của tranh Đông Hồ là “Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ” là mộtdòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xú từ làng Đông Hồ nằm ở ven sông Đuốngcách Hà Nội chùng 40Km về phía Đông. Đây là dòng tranh khắc ván, sử dụng vángỗ để in tranh, tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu lần in. Dòng tranh này cóđề tài rất phong phú, nó phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống,sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền nông thôn BắcBộ. Từ những gì dân dã như Đánh ghen, Gà trống, Hứng dừa,… cho tới những bứctranh thờ: Phú quý, Nhân nghĩa,…Do đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và dần đi vào đờisống văn hóa của họ. Mỗi khi tết đến hầu như các gia đình nông thôn ở miền Bắcđều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với thời gian với sức mạnh mangtrong mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đãtrở thành một phần không thể thiếu của đời sống văn hóa tinh thần của người dân.• Tranh dân gian Hàng TrốngDòng tranh Hàng Trống là một trong những dòng tranh dân gian nổi tiếng củaViệt Nam, đây là loại hình khắc gỗ của một số gia đình nghệ nhân sản xuất ở HàNội hoặc ở địa phương là tranh theo cùng một phong cách – chủ yếu là tranh thờ.Tại Hà Nội, tranh được bán tập trung tại phố Hàng Trống với các đồ thờ khác.+ Về kĩ thuật in ấn tranh của dòng tranh Hàng Trống: khác với tranh Đông Hồ,tranh Hàng Trống sử dụng kĩ thuật nữa in, nữa vẽ. Tranh sẽ được in ván nét lấyhình, còn màu là thuốc nước, tô bút lôn mềm rộng bản, một nữa ngọn bút chấmmàu và một nữa chấm nước lã. Nhờ kĩ thuật này mà tranh Hàng Trống có màu sắcuyển chuyển hơn, đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Tranh Hàng Trống được in trêngiấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng, có tranh lại bồi đến 2 hoặc 3 lớp giấy, khihồ đã khô thì vẽ thêm màu lên. Để hoàn thành một bức tranh thì phải mất đến 3,4ngày.+ Về đề tài và nội dung tranh: Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếulà tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, ÔngHoàng Bảy, Phật Bà Quan Âm... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như cácbộ Tứ Bình (4 bức) hoặc Nhị bình (2 bức). Tứ bình thì có thể là tranh Tố nữ, Tứdân (ngư, tiều, canh, mục) hoặc Tứ quý (Bốn mùa). Tứ bình còn có thể trình bàytheo thể liên hoàn rút từ các truyện tích như Nhị độ mai, Thạch Sanh, Truyện Kiều.Nhị bình thì vẽ những đề tài như "Lý ngư vọng nguyệt" (Cá chép trông trăng) hoặc"Chim công múa" có tính cách cầu phúc, thái bình. Những bức về đề tài dân dãnhư cảnh "Chợ quê" hay "Canh nông chi đồ" cũng thuộc loại tranh Hàng Trống.+ Về màu sắc và cách tạo màu: Tranh dùng các gam màu chủ yếulà lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúngvới công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận mắt và ưa nhìn. Tranh Hàng Trốngđược tô màu bằng bút lông và phẩm nhuộm nên màu sắc đậm đà hơn tranh ĐôngHồ.• Tranh dân gian Kim HoàngĐây là một dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ19 của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là HàNội. Tương truyền, dòng họ làm tranh đầu tiên là dòng họ Nguyễn Sĩ người ThanhHoá theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở làng Kim Hoàng. Thế kỷ 19, tranhKim Hoàng phát triển mạnh, nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915,khi làng mạc từ Phùng đến Cầu Giấy bị ngập trắng, nhiều ván in tranh của làng bịcuốn trôi. Đến năm 1945 thì tranh hoàn toàn không còn được sản xuất nữa. Ngàynay, chỉ còn một vài ván in của dòng tranh này được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuậtViệt Nam. Tranh của làng Kim Hoàng có đủ loại tranh thờ cúng, tranh chúc tụngnhư một số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh KimHoàng lại biết kết hợp nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng cónét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc lại tươi như tranh HàngTrống. Chính vì thế nó tạo cho dòng tranh này những giá trị riêng.+ Về kĩ thuật in ấn và vẽ của dòng tranh này: Tranh Kim Hoàng có nét khắcthanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống. TranhKim Hoàng không sử dụng giấy điệp như tranh Đông Hồ hay giấy dó như tranhHàng Trống mà in trên nền giấy đỏ, giấy hồng điều, hoặc giấy vàng tàu.Trong tranh Đông Hồ, một bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ, mỗi bản khắc tươngứng với một màu và một lượt in. Nhưng ở tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ sửdụng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi dựa vào đó mà tự do chấm phá màusắc theo cảm xúc riêng của mỗi người. Vì thế, mỗi bức tranh có một sự phóngkhoáng và diện mạo riêng, dù cùng được in ra từ một bản khắc. Đây là điểm đượcưa chuộng nhất ở tranh Kim Hoàng.+ Về đề tài nội dung tranh: Đề tài của tranh Kim Hoàng cũng tương tựnhư tranh Đông Hồ. Đó là những gì quen thuộc của cuộc sống mộc mạc đơn sơ củangười nông dân như trâu, bò, gà, lợn, đời sống làng quê, cảnh ngày Tết, ôngCông, ông Táo. Ngoài ra, tranh Kim Hoàng có một điểm đặc biệt mà các dòngtranh dân gian khác không có. Đó là những câu thơ chữ Hán được viết theo lối chữthảo trên góc trái bức tranh. Cả thơ và hình vẽ tạo nên một chỉnh thể hài hoà, chặtchẽ cho tranh.+ Về màu sắc và cách tạo màu: Tranh Kim Hoàng dùng mực tàu và các màu cónguồn gốc tự nhiên. Màu trắng tạo từ thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mựctàu hoà với nước chàm. Màu đỏ lấy từ son, màu đen từ tro rơm rạ, màu xanh từ gỉđồng, màu vàng từ hoa dành dành.• Tranh dân gian Làng SìnhTranh làng Sình là một dòng tranh dân gian Việt Nam thuộc thôn Lại Ân, xã PhúMậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế (cách thành phố Huế khoảng 10 kmvề phía Đông).[1] Đây là dòng tranh mộc bản được sử dụng phổ biến ở cốđô Huế với mục đích cúng lễ. Tranh làng Sình khác với tranh Đông Hồ (BắcNinh), tranh Hàng Trống (Hà Nội) bởi chức năng duy nhất là phục vụ thờ cúng,cúng xong là đốt. Vì vậy, đến nay chỉ còn những bản khắc gỗ là hiện vật quý giácòn lưu giữ được ở nhà ông Kỳ Hữu Phước - một nghệ nhân làm tranh lâu năm ởlàng Sình. Làng Sình là một làng nằm ven sông Hương được thành lập vàokhoảng thế kỷ 15, đối diện bên kia sông là Thanh Hà, một cảng sông nổi tiếng thờicác chúa ở Đàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh, mộttrung tâm buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Đây còn là một trung tâmvăn hóa của vùng cố đô, có chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trongnhững chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa. Nghề làm tranh ra đời tại làng cho tớihiện nay (2019) là khoảng 450 năm trước, tranh làm ra chủ yếu là để phục vụ choviệc thờ cúng của người dân khắp vùng. Ngày nay, tranh làng Sình đang mất dần điyếu tố truyền thống xưa. Các bản khắc cũ còn lại với số lượng rất ít, các bản khắcmới đã xa rời với yếu tố gốc và người làm nghề cũng đã dùng chất liệu sơn côngnghiệp thay cho các chất liệu màu truyền thống.+ Về cách in ấn và vẽ tranh: Tranh Sình có nhiều loại kích thước tùy thuộc vàokhổ giấy dó. Giấy dó cổ truyền có khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi(25x35), pha ba (25x23) hay pha tư (25x17). Tranh khổ lớn khi in thì đặt bản khắcnằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu,quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoađều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh khổ nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dướirồi lấy ván in dập lên. Bản in đen phải chờ cho khô rồi mới đem tô màu. Bản khắccủa tranh được làm từ gỗ mít.+ Về nguyên liệu và cách tạo màu: Giấy in tranh là giấy mộc quét điệp, màu sắctrước đây được tạo từ các sản phẩm tự nhiên như từ:thực vật, kim loại hay từ sòđiệp... Bút vẽ làm từ cây dứa mọc hoang ngoài đồng. Các màu thường được sửdụng trong tranh như màu đỏ (từ nước lá bàng); màu đen (từ tro rơm, tro lá cây);màu tím (của hạt cây mồng tơi); màu vàng (lá đung giã với búp hoa hòe)… Màuchủ yếu trên tranh làng Sình là các màu xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗimàu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng, khi tô riêng phải trộn thêm keo nấubằng da trâu tươi. Sau này do nhiều nguyên nhân nên màu sắc được tạo nên từphẩm hóa học.+ Về đề tài và nội dung tranh: Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng,có khoảng 50 đề tài tranh. Các đề tài tranh chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa.Ngoài các đề tài về tín ngưỡng, phục vụ thờ cúng còn có tranh Tố Nữ, tranh tảcảnh sinh hoạt xã hội...Tranh phục vụ tín ngưỡng có thể chia làm ba loại:- Tranh nhân vật, chủ yếu là tranh tượng bà, thường vẽ một người phụ nữxiêm y rực rỡ với hai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chiathành ba loại: tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dántrên bàn thờ riêng thờ quanh năm. Tranh con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêmvẽ hình đàn ông đàn bà; ảnh phền vẽ bé trai bé gái. Các loại nhân vật cònlại là tranh ông Điệu, ông Đốc và Tờ bếp (có lẽ là tranh vẽ Táo quân).- Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áoông, áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình.. thường là tranh cỡnhỏ.- Tranh súc vật (gia súc, voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho ngườichết.Tất cả các loại tranh này sẽ được đốt sau khi cúng xong.Chương 2: Ý nghĩa của bức tranh Hứng Dừa2.1 Khái quát tranh dân gian Đông Hồ2.1.1 Khái niệmTranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là mộtdòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyệnThuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ chodịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết nămlại lột bỏ, dùng tranh mới. Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phivật thể cấp Quốc gia. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thểthao và Du lịch đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và các cơ quanchuyên môn tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho Nghề làm tranh dân gianĐông Hồ để đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể.2.1.2 Đặc điểm của tranh Đông HồTranh Đông Hồ là thể loại tranh khắc gỗ và được in hoàn toàn. Tranh Đông Hồcòn có tên gọi khác là tranh Điệp. Sở dĩ có tên gọi đó là vì nền tranh được quét bộtđiệp và bởi sự đặc biệt của tranh Đông Hồ chính ở nền tranh. Bột điệp được chế ratừ vỏ con sò, con điệp nung nóng rồi nghiền nhỏ ta sẽ có một loại bột màu trắng,có độ óng ánh. Trộn bột điệp với hồ nếp và quét lên giấy vẽ bằng một chiếc chổi láthông sẽ để lại trên nền giấy sẽ để lại trên giấy những vệt màu không đều, thậm chícó nhiều chỗ không có màu. Điều này đã tạo một nền tranh rất đặc biệt, để nềntranh có màu sắc phong phú các nghệ nhân đã quét lên nền điệp một lớp màumỏng. nền tranh Đông Hồ thường có ba màu: vàng chanh, trắng điệp và đỏ cam.Giấy để vẻ tranh Đông Hồ là giấy dó: một loại giấy được chế tạo thủ công từ câydó, giấy dó có đặc điểm: mỏng, có nhiều xơ và rất thấm màu. Điểm đặc biệt nữatrong tranh Đông Hồ là màu vẽ, tất cả đều là màu được chế ra từ hoa, lá, quả, câytrong tự nhiên. Ta hãy tìm hiểu bảng màu chính của tranh Đông Hồ: màu đỏ có đỏvang, đỏ son; màu đỏ được chế từ cây gỗ vang thì gọi là đỏ vang; màu đỏ mài từson là đỏ son. Do đó chỉ cần đọc bảng màu tranh dân gian Đông Hồ thì ta sẽ biếtđược nguồn gốc của màu. Ví dụ xanh chàm, vàng hòe hay vàng dành dành, vàngnghệ,… Để có được màu vàng ấm áp, các nghệ nhân chọn các màu vàng tươi, đậmtrộn với màu trắng điệp. Nói chung màu dùng để vẽ tranh Đông Hồ được gọi bằngmột cái tên cũng rất dân gian: màu thuốc cái. Sau này trong quá trình phát triễn,người ta có thể dùng thêm phẩm màu, bột màu… cùng màu thuốc cái để vẽ tranhmà vẫn giữ được đặc điểm của tranh dân gian. Những tranh dân gian ngày nay cólẽ chủ yếu được in từ bột màu, thuốc nước do đó sẽ có những hạn chế nhất định vềmàu sắc hoặc độ đậm nhạt của màu.Để có được tờ tranh, các nghệ nhân còn phải chế bản để in. Có hai loại bảnkhắc: khắc màu và khắc nét. Muốn có được bản khắc màu, người ta phải chọn loạigỗ thớ mềm, xốp và dễ hút màu. Các nghệ nhân làng Hồ thường chọn gỗ giỗi, gỗvàng tâm để làm bản khắc và in màu. Bản khắc nét phải được khắc trên loại gôcbền, chắc, thớ dẻo, mịn như gỗ thị, gỗ mỡ, gỗ lồng mực. Cách in tranh là lối in vánsấp và in theo dây chuyền, mỗi người in một màu. Trong tranh có bao nhiêu màuthì phải có bấy nhiêu bản khắc màu và lần in. Cuối cùng và quan trọng là in nét.Nét in chặn các mảng màu và định hình cho các hình tượng ở trong tranh. TranhĐông Hồ được sản xuất ở làng quê, do đó vẻ đẹp của tranh cũng mộc mạc, chânchất và đậm đà theo quan niệm thẩm mỹ của người nông dân làm nghệ thuật.2.2 Ý nghĩa của bức tranh dân gian Hứng Dừa2.2.1 Vài nét về bức tranh Hứng DừaTranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, xuất hiện từ rất sớm với các thểloại tranh tết và tranh thờ, gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên củangười Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.Tranh dân gian phát triển vào thế kỷ 16. Đến thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đãdần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh dân gian đãlan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Theo dòng chảy của lịch sử, văn hóa cùng sựphân hóa xã hội, những dòng tranh xuất hiện được gọi tên theo địa danh nơi sảnxuất, với những phong cách riêng của mình. Đặc trưng của mỗi dòng tranh đượcthể hiện ngay từ quy trình làm tranh: kỹ thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu,cách pha chế tạo màu sắc...Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện khôngcòn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ...vẫn còn đó, như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, một di sản khôngthể thiếu trong kho tàng văn hóa dân tộc.“Hứng dừa” là tranh dân gian Việt Nam thuộc dòng tranh dân gian Đông Hồ (tênđầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ,huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).“Hứng dừa” thuộc mảng tranh sinh hoạt xã hội, phản ánh cuộc sống, tâm tư tìnhcảm đời thường của nhân dân lao động thời bấy giờ. Tranh miêu tả cảnh hái dừa rấtsinh động. Phía trên bên trái, chàng trai đang leo cây hái dừa, cô gái đứng dưới đất,tốc cả váy lên để hứng dừa! Ở dưới gốc cây, hai cậu bé đang tranh nhau trèo lêncây. Phía trên góc phải có đề thêm hai câu thơ nôm:“Khen ai khéo dựng lên dừa,Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi”Tác phẩm: Hứng dừa Tranh dân gian Đông Hồ[Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/]Hình ảnh và tình huống trong tranh "Hứng dừa" đầy những bất ngờ, dí dỏm vàkịch tính. Các nhân vật, sự vật được thể hiện theo quan niệm tạo hình dân gian,cách điệu khái quát, động thái nhân vật đôi khi cường điệu và phi thực tế nhưng lạihết sức hài hòa, thú 3 vị. Đây cũng là lối tư duy sáng tạo mà chúng ta thấy ở nghệthuật điêu khắc Đình làng Bắc bộ.Cây dừa có vẻ thấp so với thực tế và so với tỷ lệ nhân vật, phần trên cong xuống,như diễn tả sức nặng của chàng trai đang víu cành thả dừa, khuôn mặt vui vẻ, hómhỉnh, liệu cái váy của cô gái có chịu đựng được sức nặng của 2 trái dừa không?Cách biểu đạt của cô gái, vừa có cái nhí nhảnh như múa, vừa có cái hớ hênh kéothốc váy lên để "hứng dừa". Hình ảnh không thể thấy ở người phụ nữ thời phongkiến.Ở đây, chúng ta luôn bắt gặp quan niệm “sống hơn giống” trong tranh dân gian,các sự vật, hiện tượng được diễn giải không theo thực tế, không để ý đến cấu trúcsự vật, con người hay các nguyên tắc về ánh sáng, xa gần... Thủ pháp tượng trưng,ước lệ trong tạo hình được đề cao và khai thác triệt để trong cách xây dựng bố cục,diễn tả đường nét, hình thể, màu sắc, không gian... thoát ra yếu tố tả thực, chútrọng biểu cảm về mặt nội dung, khiến cho tác phẩm mang được tiếng nói, tâm tư,tình cảm riêng của người sáng tác với những thông điệp mang đậm tính triết lýnhân sinh, đạo lý con người Việt Nam…Bên cạnh các hình thể, mảng chữ Nôm trên góc phải vừa tạo nên sự chặt chẽ chobố cục tranh, vừa biểu đạt rõ ý tưởng về nội dung. Hình ảnh và lời thơ quyện chặtlấy nhau, câu thơ ý nhị đã làm nổi bật tình yêu đôi lứa, sôi nổi, chân thực, phóngkhoáng của người dân lao động vốn không bị gò bó, không bị trói buộc trongkhuôn khổ, rường cột của lễ giáo phong kiến.Hình tượng tung hứng dừa – vốn không có trên thực tế, một mặt phản ánh sinhđộng xã hội nông nghiệp, cuộc sống lao động của người nông dân chất phác,những phong tục, tập quán, sinh hoạt đặc sắc của người dân Việt... mặt khác, chothấy tính mâu thuẫn trong cuộc sống và sự đan xen phức tạp của các mối quan hệxã hội khác. Phải chăng sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hài hòa vớicộng đồng xã hội sẽ mang lại hạnh phúc cho chính mình và mọi người. Thông điệpvề một sự giải phóng tâm hồn con người, thoát đi mọi ràng buộc để tìm đến nhữngước mơ bình dị, cuộc sống thanh bình... Có lẽ đây chính là tính minh triết và nhânbản trong nội dung của bức tranh này.2.2.2 Giá trị nội dung của bức tranh Hứng DừaNhìn tổng thể, đây là bức tranh có cấu trúc tam giác hơi lệch về phía trái, đáy sátvới đáy tranh, đỉnh là ngọn dừa. Bố cục tam giác thông thường tạo ra sự ổn định vàvững chắc. Phía bên phải là 02 câu thơ nôm tạo sự cân đối và chặt chẽ cho bố cục.Thêm vào đó, sự bố trí các hình tượng nhân vật, mảng, màu, tỷ lệ, khoảng cách,hướng chuyển động,... tạo ra hiệu quả đối trọng và thăng bằng cần thiết cho bứctranh.Nếuxétchitiết,ngoài cấu trúc tổng thể, nhờ sự liên kếtthị giác và tập hợp thị giác, người xem có thể dễ dàng nhận ra các cấu trúc bêntrong như: cấu trúc tam giác hình, cấu trúc đa giác hình hay cấu trúc oval hình.Cả 3 sự liên kết này đều tỏ ra hợp lý với thói quen thị giác người xem. Tuynhiên, để có thể dẫn đến một kết luận rõ ràng và thuyết phục hơn về cấu trúc,chúng ta có thể xem xét, so sánh bức tranh “Hứng dừa” với bức tranh “Đánh ghen”(cùng thuộc dòng tranh Đông Hồ), khám phá một vài điều thú vị về sự giống nhaucác yếu tố nội dung như: sự hài hước, dí dỏm, nghịch ngợm; các yếu tố tạo hìnhnhư: đường nét, màu sắc, hình tượng; sự tương phản, trái chiều và sự chuyển độngtrong bố cục của chúng.- Nếu cấu trúc tổng thể của bức “Hứng dừa” là một tam giác thuận chiều, đỉnh làngọn dừa ở phía trên, thì bức “Đánh ghen” là một tam giác ngược chiều có đỉnh làcậu bé phía dưới cùng. (Cấu trúc tam giác ngược, tạo cảm giác chông chênh, dễ đổvỡ, phù hợp với các chủ đề chiến tranh, đối chọi, kịch tính...) Bên trái bức “Hứngdừa”- là cây dừa - có hướng nghiêng về phải, thì bức kia - là cây tùng - có hướngnghiêng về trái. Bức “Hứng dừa”- gốc cây bên phải, có hướng chuyển động từdưới lên, thì ở “Đánh ghen”- tấm bình phong lại có hướng chuyển động từ trênxuống. Các sự vật bên dưới, sát đáy tranh - một bức có hướng từ phải qua trái - bứckia có hướng từ trái qua phải; 02 hàng chữ nôm cũng trái chiều như vậy.- Cả 02 bức tranh đều có 04 nhân vật, tạo thành 2 tuyến. Bức tranh “Hứng dừa”có 03 nhân vật cận cảnh (tuyến 01), ở xa hơn (phía trên) là chàng trai (tuyến 02).Ngược lại, 6 bức tranh “Đánh ghen” có 01 nhân vật cận cảnh là cậu bé (tuyến 01),03 nhân vật ở xa (phía trên), (tuyến 02).Tất cả các tập hợp và liên kết thị giác kết hợp với những động thái các nhân vật,độ đậm nhạt, màu sắc... khiến cho ta thấy cấu trúc oval cùng với tính chất chuyểnđộng không ngừng của nó là phù hợp với tinh thần cái “động” trong cái “tĩnh”trong tranh dân gian, phù hợp với chủ đề của cả 02 tác phẩm, phản ánh được nộidung sinh hoạt sinh động muôn màu muôn vẻ.của người dân lao động.Nghiên cứu một số tác phẩm hội họa trong và ngoài nước, khi miêu tả cảnh sinhhoạt, các trò chơi, lễ hội... người ta cũng hay dùng hình tròn, oval để cấu trúc bốcục, ví dụ như: Bức “Nhảy múa”- H. Matiss, (1910), “Trò chơi của trẻ con”- PieterBrueghel the Eider, (1560)...Trọng tâm chính của bức tranh đặt ở cô gái đang vén váy hứng dừa, vị trí ở điểmnhấn mạnh thị giác phía dưới bên phải, hình ảnh cô gái được cách điệu khái quát,mảng lớn, động tác thoải mái, phóng khoáng. Y phục là cặp màu tương phản đỏ lục xanh gây sức hút mạnh với thị giác người xem. Hình ảnh cô gái khiến chúng taliên tưởng ngay tới chủ đề “Hứng dừa”.Các nhân vật khác như: chàng trai, 02 cậu bé cũng được đặt ở gần các điểmnhấn mạnh thị giác, mảng nhỏ hơn, động thái các nhân vật, các yếu tố đậm nhạt vàmàu sắc tạo sự nối kết quan trọng và làm tăng sự nổi bật của trọng tâm.Trong tranh dân gian Đông Hồ, nét là một phần cực kỳ quan trọng, quyết địnhđến vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh, bức tranh “Hứng dừa” sử dụng đường néttheo lối “Đơn tuyến bình đồ”1 khái quát, đơn giản nhưng lột tả hết cái “thần” cáiduyên dáng, hóm hỉnh của từng nhân vật. Sự kết hợp giữa những nét dài mềm mạibao quanh hình, tạo nên sự nhất quán giữa hình và mảng, những nét viền to nhỏđậm đà, dứt khoát... diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật. Những nét ngắn gọndứt khoát ở trên lá dừa, nét chấm tạo họa tiết trên thân dừa, quả dừa hay tạo chấttrên thân gỗ, đất ... Sự kết hợp đường nét đa dạng, phong phú và mềm mại, uyểnchuyển, góp phần tạo nên vẻ đẹp riêng của bức tranh này.Sự độc đáo của tranh dân gian là thể hiện ở tính khái quát cao trong thủ phápxây dựng hình tượng nhân vật, biết chọn những vấn đề quan trọng nhất để diễn tả,hướng người xem vào nội dung, giản lược về hình thức, kích thích quá trình trigiác của người xem. Hình tượng trong tranh “Hứng dừa” bỏ qua định luật xa gần,những nguyên tắc về giải phẫu, tính hợp lý của hiện thực, để tạo ra một sự hợp lýcủa cảm thức nghệ thuật. Các hình ảnh được khắc họa một cách chắt lọc và tinhgiản, được ước lệ theo bản năng nghệ thuật và cảm xúc trong sáng, hồn hậu, dídỏm của người dân lao động. Hình ảnh cô gái vén váy hứng dừa, bỏ qua sự hớhênh, bỏ qua sự khắt khe của lễ giáo; Hình ảnh chàng trai khỏe mạnh, nét mặt vuitươi hóm hỉnh, hình ảnh 02 cậu bé vui tươi, hớn hở đang muốn dành nhau trèo lêncây....Tất cả tạo nên một khung cảnh sống động, trữ tình. Đây chính là sự kết hợpkhá nhiều thủ pháp tạo hình như: thủ pháp đồng hiện, để mở rộng không gian, thờigian; thủ pháp cường điệu hóa nhân vật, sử dụng không gian ước lệ và biểu tượnghóa để thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan, gợi liên tưởng hơn tả thực... Có thểnói, hình tượng trong tranh “Hứng dừa” hướng về con người, thể hiện những nhucầu, tâm lý sống, những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống no đủ, lạc thú, hạnhphúc và thanh bình của những người nông dân.Nhìn vào đậm nhạt, sáng tối của bức tranh, chúng ta thấy trên nền điệp trunggian là những mảng màu sáng và tối rất mạnh, chuyển động trên hình tượng nhânvật, sự vật... sự chuyển động của đậm nhạt, sáng tối có tác dụng tạo ra nhịp điệu vàchuyển động, nhấn mạnh khu vực trọng tâm, gây hiệu quả thị giác mạnh mẽ.Lấy màu nóng làm chủ đạo, trong tranh sử dụng các màu nguyên: màu đen củanét, màu trắng của da, cây, lá, đất.... Màu vàng của không gian và cặp màu tươngphản đỏ- lục trên y phục các nhân vật, sự vật... Tổng thể bức tranh tràn ngập sắcvàng của nền điệp, sự óng ánh, điểm xuyết của chất điệp tạo cho không gian sựlong lanh và độ sâu nhất định. (Hiệu quả tạo chất này chúng ta hay thấy trong cáctranh sơn mài: dát vàng, bac, trứng, vụn...). Hòa sắc nóng kết hợp với cặp màutương phản: Đỏ -Lục vừa làm tăng tính biểu cảm nội tâm nhân vật, vừa gây hiệuquả thị giác trực tiếp và mạnh mẽ. Trong tranh, sự hài hòa giữa đường nét, mảng vàmàu sắc cũng như sự hài hòa về hình thể và khoảng trống không gian luôn đượctính toán hợp lý, các mảng mầu tươi được đặt cạnh nhau, được làm dịu bởi nét đenthông qua tác dụng tương phản và bổ túc. Tạo nên một tổng thể có tính nghệ thuậtcao.Cách sử dụng màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ nói chung và “Hứng dừa”nói riêng chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành:như màu trắng ứng với hành Kim, màu xanh ứng với hành Mộc, màu đen ứng vớihành Thủy, màu đỏ ứng với hành Hỏa, màu vàng ứng với hành Thổ. Theo quanniệm của nghệ nhân Đông Hồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông: “Màuxanh tượng trưng cho sự sống, sinh sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với ánhmắt nhìn”; “Màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt nóng, màu của mùa hạ”; “Màuvàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên”... Đâycũng là lý do mà trong tranh Đông Hồ thường xử lý màu vàng làm nền cho mặttranh.Cáchsửdụngmàusắc của tranh dân gian Đông Hồ nói chung và “Hứng dừa”nói riêng chứa đựng giátrị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành: như màu trắng ứng vớihành Kim, màu xanh ứng với hành Mộc, màu đen ứng với hành Thủy,màu đỏ ứngvới hành Hỏa, màu vàng ứng với hành Thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân ĐôngHồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông: “Màu xanh tượng trưng cho sựsống,sinh sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với ánh mắt nhìn”; “Màu đỏ tượng trưngcho lửa, nhiệt nóng, màu của mùa hạ”; “Màu vàng thuộc hành thổ, là màu của đất,tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên”... Đây cũng là lý do mà trong tranh Đông Hồthường xử lý màu vàng làm nền cho mặt tranh.Khác với phối cảnh không gian xa gần của hội họa phương Tây, lối bố cục tuânthủ quy luật thị giác. Tranh dân gian Đông Hồ dùng phối cảnh ước lệ PhươngĐông làm cơ sở để tạo ra lối bố cục không gian tượng trưng, khái quát hơn, khôngtuân theo luật viễn cận và tự phát theo thói quen nhìn. Ở đây viễn cận là bình đồ,mọi thứ đều thể hiện trên mặt phẳng, cái xa thì xếp ở trên, cái gần thì xếp ở dướinhưng không thay đổi hình thể... Hầu như mọi vật luôn được nhìn ngang tầm mắt,hình ảnh sự vật được diễn tả ở tình trạng dễ nhận biết nhất, không cần trước lớnsau nhỏ, trước rõ sau mờ, không phụ thuộc vào viễn cận một điểm nhìn mà đượcdiễn tả theo lối quan sát di động với nhiều góc độ khác nhau hoặc theo cấu trúckhông gian ước lệ của "thấu thị tẩu mã" 2 hay “thấu thị phi điểu”.Tranh dân gian Việt Nam chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc,độc đáo. Nó là tác phẩm của những nghệ nhân dân gian, xuất phát từ đời sống hiệnthực, từ cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông dân. Khi sáng tạo, họkhông bị câu thúc bởi bất cứ quy chuẩn tạo hình nào. Họ tự do bộc lộ cái “cảm” tựthân về hiện thực, bằng nhiều thủ pháp phù hợp với bản năng nguyên phác của họ.Có thể nói, trong họ đồng thời có hai con người: người lao động và người nghệ sĩvới sự tự do sáng tạo.Bức tranh “Hứng dừa” phản ánh tâm tư nguyện vọng và những ước mơ bình dị,gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân, đưa ra được thông điệp sâu sắcvề triết lý nhân sinh và tinh thần đạo lý người Việt, gây được ấn tượng sâu sắc chongười thưởng ngoạn.2.2.3 Ý nghĩa của bức tranh dân gian Hứng DừaTrong đạo "Tam Cương" có ba mối quan hệ vua tôi - cha con - chồng vợ. Nhưnghai mối quan hệ sau là cơ bản vì gia đình là tế bào của xã hội. Người trai Đại Việtcó tu thân, tề gia trước mới trị quốc, bình thiên hạ được.Ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với tôi mỗi lần xem tranh Hứng dừa là tam giácnhân quả (vợ - chồng - con cái) bám chắc và xoay quanh cái trục huyết thống và nềnếp, gia phong như thân cây dừa thẳng, vững trái biểu tượng của vẻ đẹp yên bìnhvà thơ mộng của làng quê Đại Việt. Hình ảnh trong tranh Hứng dừa thể hiện mộtgia đình hạnh phúc viên mãn của người dân quê Việt Nam. ở đây cha ra cha, con racon, vợ chồng thương yêu giúp đỡ bao dung lẫn nhau, cùng nhau giồng cây phúccho con cháu ăn quả.Trong đạo "Tam Cương" có ba mối quan hệ vua tôi - cha con - chồng vợ. Nhưnghai mối quan hệ sau là cơ bản vì gia đình là tế bào của xã hội. Người trai Đại Việtcó tu thân, tề gia trước mới trị quốc, bình thiên hạ được. Xét hai mối quan hệ nàythì quan hệ vợ chồng thuộc phạm trù nguyên nhân, quan hệ cha con thuộc phạm trùkết quả. Bạn hãy cùng tôi tìm hiểu về ý nghĩa từng nhân vật đặt trên ba đỉnh củatam giác nhân quả trong bức tranh mộc mạc và rất thâm thuý này.Trụ cột gia đình phải là người cha như thân cây dừa mọc thẳng hiên ngang giữađất cằn sỏi đá, dù mưa bão đại dương hết năm này tháng nọ, đe dọa vẫn đứng vữnghiên ngang đơm hoa, kết trái ngọt cho đời. Trèo dừa là công việc vất vả nguy hiểm.người làm cha luôn dũng cảm vượt qua mọi thử thách bươn trèo tới đỉnh cao sựnghiệp, gặt hái tiền bạc danh vọng như bẻ trái dừa trên cao cho vợ con vậy.Thông thường khi cha trèo cây hái quả thì con trẻ hớn hở chạy nhảy dưới đấtngẩng mặt lên cao chờ đợi những trái ngọt từ tay cha mình tung xuống. ở đây haiđứa con lại bấu chặt vào gốc cây như muốn chia sẻ nỗi vất vả hoặc quyết noigương cha trèo lên vượt mọi hiểm nguy, làm rạng rỡ thêm truyền thống gia tộc Chacon là mối tương quan trực hệ, cùng tựa vào truyền thống đạo đức, nề nếp, giaphong mà vươn lên, vươn mãi theo lý tưởng " vinh thân phì gia".2.2.4 Giá trị nghệ thuật của bức tranh Hứng DừaTreo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục đẹpcủa người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình dùgiàu hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu đốiđỏ cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dánlên tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh chơitết của vùng châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh những dòng tranh như Kim Hoàng ở HàTây, Hàng Trống ở Hà Nội, có lẽ tranh dân gian Đông Hồ là điển hình hơn cả.Tranh dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồra đời từ khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất trùphú, nông nghiệp phát triển, đời sống văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nôi chomột dòng tranh chân quê, đậm đà chất dân tộc. Mang trong mình những nét tinhtúy riêng với những giá trị văn hóa to lớn. Tranh tết Đông Hồ không phải là sựminh họa về ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm,là lời chúc phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài,phát lộc, bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựngnhững thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫumã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gìdiễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứngdừa, Đấu vật, Đánh ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơnnhư Lễ trí, Nhân Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn... Cái hấp dẫn củatranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân,ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng vớicái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhậnthấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết,đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìumến và tha thiết đối với cuộc sống.Cũng như những bức tranh khác, bức tranh hứng dừa nó thể hiện được nhữnggiá trị sâu sắc về nội dung cũng như nghệ thuật, nó thể hiện được cuộc sống vui vẻhạnh phúc của một gia đình trong xã hội phong kiến. Bức tranh còn thể hiện đượchình ảnh người đàn bà đã dám lấy váy để hứng dừa cho thấy được những đổi thayvề những quan niệm sống của thời bấy giờ, còn cho thấy được sự dũng cảm củangười phụ nữ đương thời.Tranh dân gian Việt Nam có vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật, màu sắc tươi tắn,bố cục cô đọng, dễ hiểu. Hình thức đó chuyển tải nhiều nội dung chắt lọc từ cuộcsống hiện thực, từ những ước mơ của con người về hạnh phúc đầm ấm trong giađình, sự bình yên thịnh trị của xã hội. Cách tạo hình hồn nhiên trong sáng, cốt ở sựtruyền thần mà không quan trọng ở sự giống với hình mẫu đã tạo nên vẽ đẹp đặcsắc, độc đáo cho tranh dân gian Việt Nam. Với giá trị nội dung và nghệ thuật mangđậm chất dân gian, diễn tả được cái hồn dân tộc, tranh dân gian Việt Nam có sứchấp dẫn đặc biệt và mang tính giáo dục cao. Điều này đã tạo nên sức sống mãnhliệt cho dòng tranh này, để lại trong kho tàng mỹ thuật Việt Nam những tác phẩmvô cùng quý giá. Không những thế nó còn là những bài học cho các thế hệ sau vềmối tương quan giữa nét và mảng, hình và màu, mảng trống và đặc… trong tranh.Cách tạo hình ước lệ trong tranh đã gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩtạo hình để sáng tạo ra những tác phẩm mĩ thuật vừa hiện đại vừa dân tộc, đưa mĩthuật Việt Nam hòa nhập với mĩ thuật thế giới mà vẫn giữ được bản sắc riêng.KẾT LUẬNTranh dân gian là một kho tàng văn hóa được ông cha ta sáng tạo ra trong quatrình lao động sản xuất. Mỗi bức tranh chính là một phần trong cuộc sống, xã hộicủa thời kì lịch sử mà nó ra đời. Không chỉ có vậy mà trong mỗi bức tranh đềumang những nét văn hóa đại diện cho dân tộc mình. Tranh dân gian Đông Hồ cũngnhư bức tranh Hứng Dừa là một sản phẩm sáng tạo độc đáo của các nghệ nhân.Những bức tranh đã phần nào phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục tậpquán hay những ước vọng của con người trong thời kì lịch sử đó. Dù trải qua baothế hệ nhưng tranh dân gian vẫn luôn giữ được những giá trị của mình và đã trởthành một di sản văn hóa quý giá của tác giả và người dân Việt Nam nói chung.Hiện nay, trong xu hướng phát triển của kinh tế, sự mở rộng của việc giao lưuvăn hóa quốc tế đã thúc đẩy được sự phát triển, biến đổi đời sống của con người.Cùng với sự phát triển đấy mà tranh dân gian cũng đã có những biến đổi tích cực,mạnh mẽ để tồn tại, phát triển và bảo lưu những giá trị trao truyền mà cha ông tađã sáng tạo ra.TÀI LIỆU THAM KHẢO1.2.Lịch sử mĩ thuật Việt Nam - NXB Đại Học Sư PhạmHội họa dân gian Việt Nam - https://vi.wikipedia.org/wiki/3. Tranh Hứng dừa - tranhdongho.bacninh.com4. Trịnh Quang Vũ, Lược sử mĩ thuật Việt Nam - NXB Văn hóa thông tin,2002.5. Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 1, NXB Giáo dục, 1998.6. Tác phẩm mĩ thuật Việt Nam – NXB Văn hóa thông tin, 1998.