100 bài hát hàng đầu của chúng tôi năm 2022

"Imagine (bài hát)" đổi hướng ở đây. Về các bài hát hay định nghĩa khác, xem Imagine.

Show

Nội dung chính Show

  • Bối cảnh và sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thu âm và phản hồi thương mại[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phim và các lần phát hành lại[sửa | sửa mã nguồn]
  • Công nhận và chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]
  • Biểu diễn và các bản hát lại[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thành phần tham gia[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xếp hạng và chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phim tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]
  • Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
  • Billboard Hot 100
  • Dấu ấn/Nhãn quảng cáo:
  • Billboard Hot 100
  • Xem các huyền thoại biểu đồ
  • Tái hiện
  • Trái tim vàng
  • Một con ngựa không có tên
  • Sư tử ngủ tối nay
  • Không có bạn
  • Mọi thứ tôi sở hữu
  • Cuộc hội ngộ của mẹ và con
  • Quý giá và ít
  • Con đường tình yêu
  • Tình yêu trẻ con
  • Xuống dưới dòng sông lười
  • Sốt rừng
  • Làm tổn thương nhau
  • Bang a cồng chiêng (nhận nó trên)
  • Tôi gotcha
  • Vui sướng
  • Mùa ngọt
  • Trong mưa
  • Rock and Roll ru
  • Đừng nói bạn không nhớ
  • Bánh Mỹ (Phần I & II)
  • Không hiểu êm dịu
  • Hay ở lại cung nhau
  • Một công việc cao bồi không bao giờ được thực hiện
  • Niềm vui của Floy
  • Runnin 'đi
  • Chúng ta phải lấy nó một lần nữa
  • Nói to và không nói gì - Phần tôi
  • Bùng binh
  • Mẹ điên
  • Betcha bởi golly, wow
  • Chuông chuông sống
  • Thế giới của tôi
  • Rockin 'Robin
  • Nhẹ nhàng thì thầm, tôi yêu bạn
  • Vinh quang ràng buộc
  • chòm sao Kim Ngưu
  • Không ai phụ thuộc vào
  • Tôi không thể giúp mình (bánh đường, bó mật ong)
  • Mọi ngày trong đời tôi
  • Nhìn xung quanh
  • Nó có thể là mãi mãi
  • Lần đầu tiên tôi nhìn thấy khuôn mặt của bạn
  • Làm việc của bạn
  • Bạn muốn nó, bạn đã hiểu nó
  • Ngày tôi thấy mình
  • Túi xách và Gladrags
  • Chúng ta phải lấy nó một lần nữa
  • Nói to và không nói gì - Phần tôi
  • Bùng binh
  • Mẹ điên
  • Betcha bởi golly, wow
  • Chuông chuông sống
  • Betcha bởi golly, wow
  • Chuông chuông sống
  • Thế giới của tôi
  • Nhẹ nhàng thì thầm, tôi yêu bạn
  • Dennis Coffey & The Detroit Guitar Band
  • Donnie Elbert
  • Bobby Vinton
  • Những cám dỗ
  • David Cassidy
  • Roberta Flack
  • Isaac Hayes
  • Detroit Emeralds
  • Đó là những gì tình yêu sẽ khiến bạn làm
  • Bài hát của Brian
  • Louisianna
  • Người chạy tiền
  • Nó là gì
  • Ông Penguin-pt. Tôi
  • Sống mà không có bạn
  • Làm người yêu em nhé
  • Rock and Roll
  • Rock and Roll
  • Rock and Roll
  • Don McLean
  • Bác sĩ mắt của tôi
  • Hằng ngày
  • Rất vui được ở bên bạn
  • Rock and Roll
  • Don McLean
  • Rock and Roll
  • Don McLean
  • Rock and Roll
  • Don McLean
  • Rock and Roll
  • Rock and Roll
  • Rock and Roll
  • Rock and Roll
  • Bài hát hit số 1 năm 1972 là gì?
  • Đứng đầu các bảng xếp hạng vào năm 1972 là gì?
  • Bài hát rock số 1 năm 1972 là gì?
  • Top 40 năm 1972 là gì?

"Imagine"

100 bài hát hàng đầu của chúng tôi năm 2022

Đĩa đơn của John Lennon
từ album Imagine
Mặt B"It's So Hard" (Hoa Kỳ)
'"Working Class Hero" (Anh Quốc)
Phát hànhTháng 10, 1971 (Hoa Kỳ)
1975 (Anh Quốc)[1]
Định dạngĐĩa than 7", 12"
Thu âm27 tháng 5–4 tháng 7 năm 1971 tại phòng thu Ascot Sound, Ascot và Record Plant East, New York
Thể loại
  • Soft rock
  • pop
Thời lượng3:03
Hãng đĩaApple
Sáng tácJohn Lennon
Sản xuấtJohn Lennon, Yoko Ono, Phil Spector
Chứng nhậnVàng (FIMI)
Bạch kim (BPI)
Thứ tự đĩa đơn tại Hoa Kỳ của John Lennon
"Power to the People"
(1971)
"Imagine" / "It's So Hard"
(1971)
"Happy Xmas (War Is Over)"
(1971)
Thứ tự đĩa đơn tại Anh Quốc của John Lennon
"Stand by Me"
(1975)
"Imagine" / "Working Class Hero"
(1975)
"(Just Like) Starting Over"
(1980)

"Imagine" là một ca khúc do nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh John Lennon thể hiện. Đây là đĩa đơn bán chạy nhất trong sự nghiệp solo của ông, lời bài hát khuyến khích người nghe hãy tưởng tượng về một thế giới hòa bình, không vật chất, không biên giới ngăn cách các quốc gia và không có tôn giáo. Không lâu trước khi qua đời, Lennon nói rằng phần lớn ca từ và nội dung của bài hát đều đến từ vợ ông, Yoko Ono, và vào năm 2017, bà được công nhận là đồng sáng tác ca khúc.[2]

Lennon và Yoko Ono đồng sản xuất đĩa đơn này cũng như album cùng tên với Phil Spector. Quá trình thu âm bắt đầu ở phòng thu của Lennon tại Công viên Tittenhurst, Anh vào tháng 5 năm 1971. Công đoạn ghi đè cuối cùng diễn ra tại phòng thu Record Plant ở thành phố New York vào tháng 7. Một tháng sau khi phát hành dưới dạng đĩa than LP vào tháng 9, Lennon cho ra mắt "Imagine" dưới dạng đĩa đơn tại Hoa Kỳ; ca khúc vươn tới vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 còn bản thu trên đĩa than LP đứng đầu bảng xếp hạng Anh quốc vào tháng 11, sau này trở thành album có thành công chuyên môn và thương mại cao nhất trong sự nghiệp solo của Lennon. Mặc dù ban đầu không được phát hành dưới dạng đĩa đơn ở Vương quốc Anh, sau này vào năm 1975 đĩa đơn đã được phát hành để quảng bá cho một đĩa LP tổng hợp và ca khúc đã vươn lên vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng cùng năm đó. Ca khúc đã bán được trên 1,6 triệu bản sao tại Anh quốc; đến thời điểm tháng 12 năm 1980 sau khi Lennon qua đời; ca khúc lại một lần nữa vươn lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng.

BMI (Broadcast Music, Inc.) thống kê "Imagine" là một trong số 100 ca khúc được biểu diễn nhiều nhất thế kỷ 20. Ca khúc đứng thứ 30 trong danh sách 365 Ca khúc của Thế kỷ có ảnh hưởng lịch sử lớn nhất của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Bài hát giành giải thưởng Đại sảnh Danh vọng Grammy và được tiến cử vào danh sách "500 ca khúc định hình nên phong cách Rock and Roll" của Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Một cuộc điều tra tiến hành tại Anh bởi Sách kỷ lục Guinness về các đĩa đơn hit tại Anh xếp hạng "Imagine" là đĩa đơn hay thứ hai mọi thời đại, tạp chí Rolling Stone cũng xếp hạng ca khúc này đứng thứ 3 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất". Kể từ năm 2005, các nhà tổ chức sự kiện đã cho phát bài hát này ngay trước lễ thả quả cầu Quảng trường Thời đại ở thành phố New York. Hành chục nghệ sĩ đã biểu diễn hoặc thu âm lại ca khúc này, trong đó có Madonna, Stevie Wonder, Joan Baez, Elton John và Diana Ross. Emeli Sandé cũng đã thu âm ca khúc này cho đài BBC để sử dụng cho video tổng kết tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 2012 vào tháng 8 năm đó. "Imagine" sau đó lại một lần nữa lọt vào bảng xếp hạng top 40 tại Anh quốc (đứng ở vị trí thứ 18). Vào tháng 3 năm 2020, nhằm đối phó với đại dịch COVID-19, nữ diễn viên Gal Gadot đã đăng tải một phiên bản hát lại của "Imagine" lên Instagram.[3]

Bối cảnh và sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Một số bài thơ trong cuốn sách Grapefruit của Yoko Ono xuất bản năm 1964 đã truyền cảm hứng cho Lennon viết nên lời ca khúc "Imagine"[4]—đặc biệt là bài thơ đã được hãng đĩa Capitol Records in lại trên bìa sau của album Imagine gốc trên đĩa than có tên "Cloud Piece", nội dung như sau: "Tưởng tượng những đám mây từ trên trời rơi xuống, đào một cái hố sau vườn mà chôn chúng vào." (Imagine the clouds dripping, dig a hole in your garden to put them in)[5] Lennon sau đó phát biểu rằng ca khúc "nên được đề tên cả Lennon/Ono. Rất nhiều—cả lời ca và ý tưởng—đều đến từ Yoko, nhưng hồi đó tôi hơi ích kỷ, hơi kiêu ngạo, và tôi đã bỏ qua những đóng góp của cô ấy, nhưng đúng là ca khúc từ cuốn Grapefruit mà ra."[6] Khi được hỏi về ý nghĩa của ca khúc trong một buổi phỏng vấn diễn ra vào tháng 12 năm 1980 do nhà báo David Sheff của tạp chí Playboy thực hiện, Lennon nói rằng Dick Gregory đã đưa cho Ono và ông một cuốn sách cầu nguyện của người Cơ-đốc giáo, và cuốn sách đã truyền cảm hứng cho Lennon:

Khái niệm của sự cầu nguyện tích cực...... Nếu bạn có thể "tưởng tượng" một thế giới hoà bình, không có sự phân biệt giữa các tôn giáo –không phải là không có tôn giáo mà là không có chuyện phân biệt Thần thánh của tôi cao hơn Thần thánh của ông – thì mọi thứ sẽ trở nên đúng đắn hơn... Có một lần Giáo hội Thế giới gọi tôi lại và hỏi, "Chúng tôi có thể sử dụng lời bài hát 'Imagine' nhưng thay bằng 'Tưởng tượng một tôn giáo nào đó không'?" Điều đó cho [tôi] thấy rõ ràng rằng họ không hiểu gì cả. Việc này có thể sẽ làm hỏng cả ý nghĩa của bài hát, cả mục đích của nó nữa.[4]

Chịu sự ảnh hưởng của cả bài thơ "Cloud Piece" lẫn cuốn sách cầu kinh của Gregory, Lennon viết ra cái mà tác giả John Blaney gọi là "bài tán ca nhân văn về loài người."[6] Blaney viết, "Lennon cho rằng sự hoà hợp trên cả thế giới nằm trong tầm tay của chúng ta, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi chúng ta rũ bỏ những quy luật xã hội đang hạn chế tiềm năng của con người."[7] Theo Blaney, với ca khúc "Imagine", Lennon cố gắng nâng cao nhận thức của mọi người về mối quan hệ giữa họ và những thể chế tác động tới cuộc sống của họ.[6] Nhà báo David Fricke viết cho tạp chí Rolling Stone bình luận: "[Lennon] kêu gọi sự đoàn kết và bình đẳng được xây dựng dựa trên sự loại trừ các trật tự xã hội hiện đại: biên giới địa chính trị, tôn giáo có tổ chức, [và] các tầng lớp kinh tế."[8]

Trích đoạn lời bài hát

...Imagine all the people
Living life in peace...
Imagine no possessions
I wonder if you can
No need for greed or hunger
A brotherhood of man
Imagine all the people
Sharing all the world...
You may say I'm a dreamer
But I'm not the only one
I hope someday you'll join us
And the world will live as one

Hãy tưởng tượng tất cả mọi người
Sống trong hoà bình...
Hãy tưởng tượng không có sở hữu
tôi tự hỏi nếu bạn có thể
Không cần tham lam hay đói
Tình huynh đệ của con người
Hãy tưởng tượng tất cả mọi người
Chia sẻ toàn thế giới...
Bạn có thể nói tôi là một người mơ mộng
Nhưng tôi không phải là người duy nhất
Tôi hy vọng một ngày nào đó bạn sẽ tham gia với chúng tôi
Và thế giới sẽ là một

Lennon nói rằng: "Ca khúc 'Imagine', trong đó có nói: 'Hãy tưởng tượng không có các tôn giáo, không có các quốc gia, không có các nền chính trị' (Imagine that there was no more religion, no more country, no more politics) gần giống với Tuyên ngôn Cộng sản, mặc dù tôi không phải là người Cộng sản và cũng không theo bất kỳ một cuộc vận động hay chế độ nào."[7] Ông nói với báo NME: "Không có một quốc gia Cộng sản thực sự nào trên thế giới này; anh phải hiểu điều đó. Cái chủ nghĩa xã hội mà tôi nói tới... [không] giống với những gì người Nga hay người Trung Quốc đã làm. Cách họ làm phù hợp với những gì họ muốn. Còn chúng ta, chúng ta nên có một... Chủ nghĩa xã hội Anh quốc tốt đẹp."[7] Trong bài hát cũng có câu: "Imagine no possessions" (Hãy tưởng tượng không có sở hữu). Ono miêu tả lời bài hát "Imagine" "đúng như những gì John tin tưởng: rằng tất cả chúng ta thuộc cùng một quốc gia, một thế giới, một dân tộc."[9] Rolling Stone miêu tả lời ca khúc này là "22 dòng chữ tràn đầy niềm tin duyên dáng và giản dị, niềm tin vào sức mạnh của một thế giới, đồng lòng sửa chữa và thay đổi chính mình."[9][gc 1]

Lennon sáng tác ca khúc "Imagine" vào một buổi sáng đầu năm 1971, trên một chiếc đàn piano Steinway, trong một căn phòng ngủ tại ngôi nhà của ông ở Công viên Tittenhurst tại Ascot, Berkshire, nước Anh. Ono đã quan sát khi ông viết giai điệu, cấu trúc hợp âm và gần như toàn bộ lời ca, ông gần như đã hoàn thành cả ca khúc trong một buổi sáng tác ngắn ngủi.[9] "Imagine" là một bản piano ballad[11] trong điệu soft rock.[12] Ca khúc viết ở khoá Đô trưởng. Bốn ô nhịp dạo đầu của ca khúc mở đầu từ hợp âm C (Đô)rồi tới Cmaj7 trước khi sang F (Fa); đoạn đầu bài hát dài 12 ô nhịp cũng theo cách phát triển này, riêng 4 ô nhịp cuối chuyển từ Am/E (La thứ/Mi) sang Dm (Mi thứ) và Dm/C (Mi thứ/Đô), kết thúc bằng G (Son), G11 rồi G7, trước khi quay về hợp âm C (Đô).[13] Đoạn điệp khúc dài 8 ô nhịp phát triển từ F (Fa) sang G (Son) rồi C (Đô), rồi tới Cmaj7 và E (Mi) trước khi kết thúc ở E7, riêng ô nhịp cuối E7 được thay bằng hợp âm C (Đô). Bốn ô nhịp kết bài bắt đầu với F (Fa) rồi G (Son) trước khi quay lại C (Đô). Với độ dài 3 phút 3 giây và nhịp 4/4, tempo của bài hát rơi vào khoảng 75 nhịp một phút.[14]

Thu âm và phản hồi thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Áp phích quảng cáo ca khúc "Imagine" của Billboard năm 1971

Lennon và Ono đồng sản xuất ca khúc và album cùng Phil Spector, ông bình luận về ca khúc này như sau: "Chúng tôi biết những gì chúng tôi sắp làm... Đó sẽ là một tuyên ngôn chính trị của John, nhưng cũng vì lý do thương mại nữa... Tôi luôn cho rằng 'Imagine' giống như một bản quốc ca vậy."[15] Lennon miêu tả quá trình phân công công việc giữa ông và Ono và Spector: "Phil không phối hay làm việc nhiều—[Ono] và Phil chỉ ngồi ở một phòng khác và nêu ý kiến kiểu, 'Sao anh không thử âm thanh này' hay 'Anh chơi piano không tốt lắm'... Tôi sẽ nắm được ý tưởng của họ và... chúng tôi tìm ra các giai điệu khác nhau theo cách như vậy."[16]

Quá trình thu âm bắt đầu tại phòng thu Ascot Sound Studios, phòng thu tại gia mới của Lennon tại Công viên Tittenhurst, vào tháng 5 năm 1971, phần ghi đè cuối cùng được hoàn thành ở phòng thu Record Plant, tại thành phố New York vào tháng 7.[16] Nhẹ nhàng và nhẫn nại, các buổi thu âm bắt đầu vào buổi sáng muộn và kéo dài đến trước bữa ăn tối. Lennon hướng dẫn các nhạc công chơi hợp âm và phối khí cho "Imagine", và bắt họ luyện tập cho tới khi ông cảm thấy các nhạc công đã sẵn sàng để thu âm.[6] Để có được giai điệu như Lennon mong muốn, Spector đã cho thu một số băng trong đó Lennon và Nicky Hopkins chơi piano ở các quãng tám khác nhau. Ông cũng định để Lennon thu âm bằng chiếc grand piano trắng trong căn phòng toàn màu trắng của hai vợ chồng họ. Tuy nhiên, sau khi nhận ra cấu trúc âm học của căn phòng không phù hợp với việc thu âm, Spector đã từ bỏ ý định này và thay vào đó là thu âm trong môi trường tuyệt đối ở phòng thu tại gia của Lennon.[7] Họ hoàn tất buổi thu âm chỉ trong mấy phút, thu được ba lần và chọn bản thu thứ hai để phát hành.[17] Bản thu hoàn chỉnh có sự góp mặt của Lennon với vai trò ca sĩ và nhạc công piano, Klaus Voormann chơi bass guitar, Alan White chơi trống và Flux Fiddlers chơi dàn dây.[18]

Phát hành bởi Apple Records tại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1971, "Imagine" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất trong sự nghiệp solo của Lennon.[19] Ca khúc vươn tới vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.[20] Bài hát đứng ở trị thứ nhất tại Canada trên bảng xếp hạng đĩa đơn quốc gia RPM, tiếp tục thống lĩnh vị trí này trong hai tuần.[21] Khi được phát hành, lời bài hát khiến một số nhóm tôn giáo tức giận, đặc biệt là câu: "Tưởng tượng rằng không có thiên đường nào cả" (Imagine there's no heaven).[22] Khi được hỏi về ca khúc này trong một trong những buổi phỏng vấn cuối cùng, Lennon nói rằng ông coi ca khúc này không kém gì các ca khúc từng sáng tác với nhóm The Beatles.[9] Ông miêu tả ý nghĩa của bài hát: "Chống tôn giáo, chống chủ nghĩa dân tộc, chống lại các tục lệ, chống chủ nghĩa tư bản, nhưng bởi sự quyến rũ ấy mà ca khúc được công chúng chấp nhận... Giờ tôi biết cách làm rồi. Phết một ít mật ngọt lên thông điệp chính trị của bạn là xong."[23] Lennon từng nói với Paul McCartney rằng ca khúc "Imagine" chính là ca khúc "Working Class Hero" được đổ thêm đường dành cho những tay bảo thủ như anh".[24] Ngày 30 tháng 11 năm 1971, album đĩa than Imagine lên vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Anh quốc[25] và trở thành album thành công nhất trong sự nghiệp solo của Lennon cả về thương mại và chuyên môn.[26]

Phim và các lần phát hành lại[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn piano hiệu Steinway của Lennon, được ông sử dụng để sáng tác ca khúc "Imagine"[27]

Năm 1972, Lennon và Ono phát hành một bộ phim dài 81 phút đi kèm với album Imagine trong đó có hình ảnh hai vợ chồng Lennon trong nhà, vườn và phòng thu Berkshire của họ ở Công viên Tittenhurst cũng như tại thành phố New York.[28] Là một bộ phim tài liệu rock, những cảnh đầu tiên chiếu hình ảnh Lennon và Ono cùng đi qua một đám sương mù dày, vào đến nhà vừa lúc ca khúc "Imagine" bắt đầu. Trước cửa chính nhà họ là một tấm biển đề: "This Is Not Here", đây cũng là tên triển lãm nghệ thuật của Ono được tổ chức sau đó tại New York. Các cảnh tiếp theo là cảnh Lennon ngồi trước một chiếc đàn Grand Piano trong một căn phòng sơn toàn màu trắng, ánh sáng lờ mờ. Ono chầm chậm bước xung quanh, mở tung các rèm cửa để cho ánh sáng vào, khiến cho căn phòng sáng lên theo từng nốt nhạc.[29] Cuối bài hát, Ono ngồi bên cạnh Lennon trước cây đàn piano, họ nhìn nhau và chia sẻ nụ hôn ngắn ngủi.[30]

Một số nhân vật nổi tiếng xuất hiện trong bộ phim, trong đó có Andy Warhol, Fred Astaire, Jack Palance, Dick Cavett và George Harrison. Bị các nhà phê bình chế giễu là "phim gia đình đắt đỏ nhất mọi thời đại", phim ra mắt khán giả Mỹ vào năm 1972.[28] Năm 1986, Zbigniew Rybczyński làm một video âm nhạc cho ca khúc, và năm 1987 nó giành giải tại Silver Lion cho video clip hay nhất tại và giải thưởng khác tại Liên hoan phim quốc tế Rio.[31]

Phát hành dưới dạng đĩa đơn tại Anh quốc vào năm 1975 cùng với album Shaved Fish, "Imagine" vươn tới vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng UK Singles Chart. Sau vụ ám sát Lennon vào năm 1980, ca khúc một lần nữa bước lên bảng xếp hạng ở Anh, giành vị trí số một trong bốn tuần tháng 1 năm 1981. "Imagine" được phát hành lại dưới dạng một đĩa đơn tại Vương quốc Anh vào năm 1988, đứng ở vị trí thứ 45, và lần nữa vào năm 1999, đứng ở vị trí số 3.[32] Đĩa bán được 1.640.000 bản ở Anh quốc tính đến tháng 6 năm 2013, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất của Lennon.[33] Năm 1999, vào Ngày thơ quốc gia ở Anh, đài BBC công bố thính giả đã chọn lời bài hát "Imagine" là lời bài hát yêu thích ở Anh.[22] Năm 2003, ca khúc đứng ở vị trí thứ 33 khi được phát hành ở mặt B của đĩa đơn "Happy Xmas (War Is Over)".[34]

Công nhận và chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]

Tương đài hoà bình John Lennon ở Liverpool, Anh

Rolling Stone miêu tả "Imagine" là "món quà âm nhạc xuất sắc nhất của Lennon dành tặng thế giới", ca ngợi "giai điệu yên bình; hợp âm thay đổi một cách mềm mại".[9] Trong một số cuộc thăm dò ca khúc, năm 1999, BMI công bố đây là một trong 100 ca khúc được hát nhiều nhất thế kỷ 20.[35] Cùng năm đó, ca khúc được trao Grammy Hall of Fame Award và được tiến cử vào danh sách 500 ca khúc định hình nên phong cách Rock and Roll của Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll.[36] Triple J xếp hạng ca khúc này đứng thứ 11 trong danh sách Hottest 100 of All Time.[37] "Imagine" đứng thứ 23 trong danh sách đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại ở Vương quốc Anh năm 2000. Năm 2002, một cuộc khảo sát thực hiện ở Anh quốc do Sách kỷ lục Guinness về các đĩa đơn hit tại Anh cho thấy đây là đĩa đơn hay thứ hai mọi thời đại sau "Bohemian Rhapsody" của Queen.[38] Gold Radio xếp ca khúc đứng thứ ba trong danh sách "Gold's greatest 1000 hits" của đài.[39]

Rolling Stone xếp "Imagine" đứng thứ ba trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất", miêu tả đây là "một bài thánh ca của an ủi và hứa hẹn đã đưa chúng ta qua những nỗi đau tột độ, từ cú sốc sau cái chết của chính Lennon năm 1980 đến sự kinh hoàng không thể nói thành lời của vụ khủng bố 11 tháng 9. Thật khó mà hình dung một thế giới không có 'Imagine', và chúng ta cần ca khúc này hơn chính những gì Lennon đã tưởng tượng."[9] Trái ngược với ý kiến này, đài phát thanh Clear Channel Communications liệt ca khúc vào danh sách ca khúc "không nên phát" sau vụ 11/9.[40][gc 2]

Vào ngày 1 tháng 1 năm 2005, Canadian Broadcasting Corporation xếp "Imagine" là ca khúc hay nhất trong 100 năm qua do thính giả bình chọn trên chương trình 50 Tracks.[42] Bài hát đứng thứ 30 trong danh sách 365 Ca khúc của Thế kỷ có ảnh hưởng lịch sử lớn nhất của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[42] Virgin Radio tiến hành một cuộc khảo sát ca khúc yêu thích ở Vương quốc Anh vào tháng 12 năm 2005, và thính giả bình chọn "Imagine" là ca khúc số 1.[43] Người Úc bình chọn "Imagine" là ca khúc hay nhất mọi thời đại trên chương trình đếm ngược 20 to 1 của Nine Network vào ngày 12 tháng 9 năm 2006. Trên mạng giới trẻ Triple J ca khúc được bình chọn đứng thứ 11 trong danh sách "Hottest 100 Of All Time" vào ngày 11 tháng 7 năm 2009.[44]

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter từng nói, "ở nhiều quốc gia trên thế giới — vợ chồng tôi đã từng tới thăm khoảng 125 nước — bạn có thể thấy ca khúc 'Imagine' của John Lennon được phát nhiều như quốc ca của chính nước họ vậy."[45][gc 3] Vào ngày 9 tháng 10 năm 2010, sinh nhật lần thứ 70 của Lennon, dàn đồng ca Liverpool Signing Choir biểu diễn ca khúc "Imagine" cùng với một số bài hát khác của Lennon tại lễ khánh thành Tượng đài hòa bình John Lennon ở Công viên Chavasse, Liverpool, Anh.[47][48] Nhà sản xuất của nhóm The Beatles George Martin ca ngợi sự nghiệp solo của Lennon, đặc biệt là ca khúc này: "Bài hát yêu thích nhất của tôi trong số đó là 'Imagine'".[49] Nhà phê bình âm nhạc Paul Du Noyer miêu tả "Imagine" là ca khúc được "kính trọng" nhất của Lennon thời hậu-Beatles.[50] Urish và Bielen gọi ca khúc này là "ca khúc pop mang tính cách mạng được sáng tác ra để đạt tới mức độ kinh điển."[51] Fricke bình luận: "'Imagine' là ca khúc sẽ hơi gây tranh cãi, tác phẩm xuất sắc nhất của Lennon kết hợp giữa một ca sĩ ballad và một nhà kích động xã hội."[8]

Các tác giả Ben Urish và Ken Bielen chỉ trích phần nhạc đêm của ca khúc là quá đa cảm và thống thiết, so sánh nó với âm nhạc của kỷ nguyên tiền rock và cho rằng giai điệu của ca khúc đã không được nổi bật đúng mức.[51] Theo Blaney, lời ca của Lennon chỉ đưa ra những khả năng chung chung theo lý thuyết chứ chưa có giải pháp nào cụ thể; có chỗ mang màu sắc u ám và mâu thuẫn, bắt người nghe phải từ bỏ các hệ thống chính trị mà lại cổ vũ một loại hình gần giống chủ nghĩa cộng sản.[7] Tác giả Chris Ingham chỉ ra sự giả dối trong Lennon, một ngôi sao nhạc rock có bạc triệu trong tay và ở nhà biệt thự lại cổ vũ khán giả sống một cuộc sống không tư hữu.[52] Số khác lập luận rằng trong bài hát này Lennon muốn truyền cảm hứng cho người nghe tưởng tượng liệu thế giới có thể sống mà không có tư hữu hay không, chứ không phải lời kêu gọi mọi người phải từ bỏ tài sản của mình.[52] Blaney bình luận: "Lennon biết rằng ông ấy không có điều gì cụ thể để nói, do đó ông đã mang tới một giấc mơ, một khái niệm mới để dựa vào."[7]

Blaney coi ca khúc này là một tác phẩm "đầy rẫy những mâu thuẫn. Giai điệu du dương như thánh ca của ca khúc không phù hợp với ý định của tác giả kêu gọi mọi người hãy hình dung một thế giới không có tôn giáo."[7] Urish và Bielen miêu tả cái "thế giới mơ ước" của Lennon, nơi không có thiên đường hay địa ngục là lời kêu gọi mọi người hãy "sống hết mình, bởi thế giới này sẽ là nơi duy nhất chúng ta tồn tại."[51] Theo quan điểm của họ, "bởi vì chúng ta đơn giản được kêu gọi hãy tưởng tượng—giống như chơi một trò chơi 'sẽ làm sao nếu', Lennon có thể tránh được những lời chỉ trích nặng nề nhất".[51] Cựu thành viên the Beatles Ringo Starr biện hộ cho lời bài hát "Imagine" trong một cuộc phỏng vấn năm 1981 với Barbara Walters rằng: "[Lennon] nói 'Imagine', có thế thôi. Hãy tưởng tượng."[51]

Vào tháng 6 năm 2017, Hiệp hội Nhà xuất bản Âm nhạc Quốc gia (National Music Publishers Association) đã trao Giải thưởng Ca khúc Thế kỷ (Centennial Song Award) cho "Imagine" và công nhận Yoko Ono là đồng tác giả của bài hát.[53]

Biểu diễn và các bản hát lại[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 12 năm 1971, Lennon và Ono xuất hiện tại Nhà hát Apollo ở Harlem. Lennon trình diễn ca khúc "Imagine" với một chiếc đàn guitar acoustic, đánh dấu lần đầu tiên ca khúc này được hát trực tiếp; bản thu này sau đó xuất hiện trong album John Lennon Anthology (1998).[54] Năm 1975, ông thể hiện "Imagine" trong buổi biểu diễn cuối cùng trước công chúng, đó là lễ kỷ niệm sinh nhật của Lew Grade.[51]

Elton John biểu diễn ca khúc này vào tháng 9 năm 1980 trong buổi hoà nhạc miễn phí của ông tại Công viên Trung tâm, chỉ cách toà nhà Dakota nơi có căn hộ của ông vài căn nhà.[55] Ngày 9 tháng 10 năm 1980, một ngày sau khi Lennon bị giết chết, ban nhạc Queen biểu diễn ca khúc "Imagine" để tưởng nhớ tới ông trong buổi diễn tại Đấu trường Wembley tại Luân Đôn.[56] Ngày 9 tháng 10 năm 1990, hơn một tỷ người nghe buổi phát thanh ca khúc này vào ngày đáng ra sẽ là kỷ niệm 50 năm ngày sinh của Lennon.[57] Ratau Mike Makhalemele hát lại ca khúc trong một album mở rộng (EP) gồm toàn các bản hát lại các ca khúc của Lennon phát hành năm 1990.[58] Stevie Wonder cũng biểu diễn lại ca khúc này cùng với Câu lạc bộ Morehouse College Glee Club tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 1996 để tưởng nhớ các nạn nhân của vụ ném bom Công viên trăm năm Olympic.[59] Năm 2001, Neil Young biểu diễn ca khúc này tại buổi hoà nhạc gây quỹ có tên America: A Tribute to Heroes.[60] Madonna thể hiện "Imagine" trong buổi biểu diễn gây quỹ Tsunami Aid: A Concert of Hope.[61][gc 4] Peter Gabriel biểu diễn ca khúc tại lễ khai mạc Thế vận hội Mùa đông 2006.[63]

Kể từ 2005, các nhà tổ chức sự kiện đã cho phát bài hát này ngay trước lễ thả quả cầu Quảng trường Thời đại ở thành phố New York.[64] Bắt đầu từ năm 2010, ca khúc được biểu diễn trực tiếp luôn tại sự kiện; năm đầu tiên do Taio Cruz thể hiện, tiếp đó là Cee Lo Green năm 2011 và Train năm 2012. Tuy nhiên, Green bị chỉ trích bởi đã thay đổi lời bài hát từ "and no religion too" (không có tôn giáo nào cả) sang "and all religion's true" (mọi tôn giáo đều đúng), lập tức nhận chỉ trích từ người hâm mộ vì họ cho rằng anh đã thiếu tôn trọng di sản của Lennon thông qua việc sửa lời ca khúc biểu tượng nhất của ông.[65] Green lập luận rằng việc đổi lời bài hát của anh có ý thể hiện "một thế giới nơi mà bạn được tự do tin vào những gì mình muốn".[65]

Trên 160 nghệ sĩ đã thu âm lại ca khúc "Imagine".[66] Joan Baez hát lại bài hát này trong album Come from the Shadows phát hành năm 1972 còn Diana Ross thu âm ca khúc cho album phát hành năm 1973 có tên Touch Me in the Morning.[67] Năm 1995, Blues Traveler thu âm ca khúc cho album Working Class Hero: A Tribute to John Lennon còn Dave Matthews cũng có một màn trình diễn trực tiếp với họ.[68] A Perfect Circle thu âm lại ca khúc cho album eMOTIVe phát hành năm 2004. Nữ ca sĩ người Ý Marco Carta đã hát lại ca khúc này và bản thu lọt vào top 20 ở Ý vào năm 2009 ở vị trí số 13.[69] Seal, Pink, India.Arie, Jeff Beck, Konono Nº1, Oumou Sangaré và một số nghệ sĩ khác đã thu âm ca khúc cho album năm 2010 của Herbie Hancock, The Imagine Project.[70]

Hancock biểu diễn ca khúc này cùng các nghệ sĩ Arie, Kristina Train, and Greg Phillinganes tại Lễ trao giải Nobel hoà bìnămm 2010 diễn ra vào ngày 11 tháng 12. Ngày 13 tháng 2 năm 2011, bản thu âm ca khúc này—với sự tham gia của Pink, Seal, ca sĩ người Mali Oumou Sangaré, India.Arie, và Jeff Beck giành giải Grammy cho Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất.[71]

"Imagine" được biểu diễn tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 2012 bởi Dàn đồng ca Thiếu nhi Liverpool (Liverpool Philharmonic Youth Choir) và Dàn đồng ca ngôn ngữ ký hiệu Liverpool (Liverpool Signing Choir), trong đó hai dàn nhạc trên biểu diễn đoạn đầu, đoạn sau là băng thu âm giọng hát của Lennon.[72][gc 5] Một bản hát lại khác của Emeli Sandé được đài BBC sử dụng cho video tổng kết thế vận hội.[73] "Imagine" sau đó lại một lần nữa vào bảng xếp hạng top 40 tại Anh quốc (đứng ở vị trí thứ 18).[74]

Năm 2015, ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lady Gaga biểu diễn ca khúc tại lễ khai mạc Đại hội Thể thao châu Âu 2015. Ca khúc được trình bày trước 70.000 người dân Baku, Azerbaijan, chủ nhà của sự kiện.[75] Vào ngày 14 tháng 11 năm 2015, buổi sáng sau các vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015, một người đàn ông đã tới biểu diễn một bản phối piano không lời của ca khúc bên ngoài nhà hát Bataclan, nơi xảy ra nhiều thương vong nhất.[76]

Thành phần tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

  • John Lennon: hát, piano
  • Klaus Voormann: bass
  • Alan White: trống
  • The Flux Fiddlers: dàn dây

Xếp hạng và chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lời ca khúc "Imagine" có liên quan tới ý niệm của Lennon về Nutopia, sau này được sáng tác thành ca khúc "Nutopian International Anthem" vào năm 1973 trong album Mind Games phát hành sau đó cùng năm.[10]
  2. ^ Năm 1991, đài BBC ngăn cấm việc phát sóng ca khúc "Imagine" trong cuộc chiến tranh vùng vịnh.[41]
  3. ^ Yoko Ono khánh thành Tòa nhà hòa bình Imagine tại Iceland vào năm 2007.[46]
  4. ^ Madonna đưa ca khúc vào danh sách biểu diễn trong tour lưu diễn Re-Invention World Tour vòng quanh thế giới năm 2004 và phát hành nó trong album thu âm trực tiếp tour diễn cũng như DVD phim tài liệu I'm Going to Tell You a Secret vào năm 2006.[62]
  5. ^ Phiên bản đầu tiên trong băng thu gốc tám bản của ca khúc "Imagine", Lennon cũng xuất hiện trong video.[72]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Womack, Kenneth (2014). “"Imagine" (Lennon)”. The Beatles Encyclopedia: Everything Fab Four. 1: A–J. Greenwood. tr. 457. ISBN 978-0-313-39171-2.
  2. ^ Rogers, Jude (ngày 6 tháng 10 năm 2018). “Not the only one: how Yoko Ono helped create John Lennon's Imagine”. The Guardian. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ “WATCH: Gal Gadot, Natalie Portman, Zoe Kravitz and others sing 'Imagine' to lift spirits during coronavirus fight”. The Daily Telegraph. ngày 19 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  4. ^ a b Sheff 1981, tr. 212–213.
  5. ^ Spizer 2005, tr. 54.
  6. ^ a b c d Blaney 2007, tr. 51.
  7. ^ a b c d e f g Blaney 2007, tr. 52.
  8. ^ a b Fricke 2012, tr. 59.
  9. ^ a b c d e f Wenner 2010, tr. 13.
  10. ^ Blaney 2007, tr. 82.
  11. ^ *Floman, Scott. “John Lennon – Overview”. Sfloman.com. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
    • Trust, Gary (ngày 10 tháng 4 năm 2013). “A History Of Hit Piano Ballads On The Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  12. ^ Otte, Jef (ngày 11 tháng 1 năm 2012). 12 tháng 1 năm 2012/music/john-lennon-fans-mad-at-cee-lo/full/ “Imagine that: John Lennon fans turn into zealots over Cee Lo's change in lyrics”. Denver Westword. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.[liên kết hỏng]
  13. ^ Lennon 1983, tr. 5–9.
  14. ^ Về các nốt nhạc trong ca khúc "Imagine" xem: Lennon 1983, tr. 5–9; về chiếc đàn piano mà Lennon dùng để sáng tác "Imagine", xem: “George Michael buys Lennon's piano”. BBC News. ngày 18 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  15. ^ Về việc Spector đồng sản xuất cùng Lennon và Ono xem: Du Noyer 1971, tr. 1–14; về câu nói "Tôi luôn cho rằng ca khúc này giống như một bản quốc ca" xem: Levy 2005, tr. 87.
  16. ^ a b Blaney 2007, tr. 50–51.
  17. ^ Fricke 2012, tr. 58.
  18. ^ Blaney 2007, tr. 53.
  19. ^ Roberts 2005, tr. 292.
  20. ^ Blaney 2007, tr. 57.
  21. ^ Về việc "Imagine" đứng đầu bảng xếp hạng Canada ngày 27 tháng 11 năm 1971 xem: “Top Singles – Volume 16, No. 15, ngày 27 tháng 11 năm 1971”. RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.. Về việc "Imagine" đứng đầu bảng xếp hạng Canada ngày 4 tháng 12 năm 1971 xem: “Top Singles – Volume 16, No. 16, ngày 4 tháng 12 năm 1971”. RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  22. ^ a b Harry 2000, tr. 382.
  23. ^ Levy 2005, tr. 87.
  24. ^ Doggett 2009, tr. 179.
  25. ^ Badman 1999, tr. 55.
  26. ^ Goldman 1988, tr. 397.
  27. ^ “George Michael buys Lennon's piano”. BBC News. ngày 18 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  28. ^ a b Harry 2000, tr. 378.
  29. ^ Về bản miêu tả căn phòng và việc Ono mở cửa chớp, xem: Edmondson, Jacqueline (2010). John Lennon: A Biography. Greenwood. tr. 140. ISBN 978-0-313-37938-3.; for the title of Ono's then New York art show see: Harry 2000, tr. 907–908.
  30. ^ Norman 2008, tr. 763.
  31. ^ “Artist/VIP gallery: Zbigniew Rybczynski”. Polish American Film Society. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2012.
  32. ^ “John Lennon”. Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  33. ^ Roberts 2005, tr. 292: Lennon's best-selling single; for 1.64 million copies sold in the UK see: Lane, Daniel (ngày 27 tháng 6 năm 2013). “Daft Punk's Get Lucky becomes one of the UK's biggest selling singles of all-time!”. Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  34. ^ Roberts 2005, tr. 292: Lần phát hành lại năm 2003 và vị trí trên bảng xếp hạng Anh quốc của ca khúc "Happy Xmas (War Is Over)"; Blaney 2007, tr. 282: "Imagine" là ca khúc ở mặt B trong lần phát hành lại năm 2003 của bài hát "Happy Xmas (War Is Over)".
  35. ^ “BMI Announces Top 100 Songs of the Century”. BMI. ngày 13 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  36. ^ Về "Giải Đại sảnh Danh vọng Grammy" xem: “GRAMMY Hall Of Fame – i”. Grammy Hall of Fame Award. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2012.. Về danh sách "500 ca khúc đã định hình nên phong cách Rock and Roll" xem: “Songs that shaped Rock and Roll: "Imagine"”. Rock and Roll Hall of Fame. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  37. ^ “Hottest 100 of All Time”. Triple J. 2009. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  38. ^ “Queen rock on in poll”. BBC News. ngày 8 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  39. ^ “Gold's Top 1000: Day 4”. Gold. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  40. ^ Morello, Tom (ngày 1 tháng 11 năm 2001). “The New Blacklist: The nation's largest radio network's list of 'questionable' songs”. FAIR. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2014.
  41. ^ Peddie, Ian (2006). The Resisting Muse: Popular Music And Social Protest. Ashgate Publishing, Ltd. tr. 13. ISBN 0-7546-5114-2.
  42. ^ a b Jackson, Andrew Grant (2012). Still the Greatest: The Essential Songs of the Beatles' Solo Careers. Scarecrow Press. tr. 30. ISBN 978-0-8108-8222-5.
  43. ^ “Virgin Radio All Time Top 500 Songs”. Last.fm. ngày 31 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  44. ^ “Hottest 100 Of All Time 2009”. ABC Online.
  45. ^ Elliott, Debbie (ngày 5 tháng 11 năm 2006). “Carter helps monitor Nicaragua presidential election”. NPR. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  46. ^ Marter, Joan (2011). The Grove Encyclopedia of American Art, Volume 1. Oxford University Press. tr. 596. ISBN 978-0-19-533579-8.
  47. ^ “Peace monument unveiled in Liverpool for John Lennon's 70th (VIDEO & PICS)”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.. Liverpool Daily Post. ngày 9 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  48. ^ “Imagine... if he was still alive: Sculpture of Peace unveiled to mark John Lennon's life on his 70th birthday”. Daily Mail. London. ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  49. ^ Coleman 1992, tr. 370.
  50. ^ Du Noyer 1971, tr. 1.
  51. ^ a b c d e f Urish & Bielen 2007, tr. 27.
  52. ^ a b Ingham 2009, tr. 99.
  53. ^ Aswad, Jem (ngày 14 tháng 6 năm 2017). “Yoko Ono to Receive Songwriting Credit on John Lennon's 'Imagine'”. Variety. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2017.
  54. ^ Blaney 2007, tr. 56.
  55. ^ Bernardin, Claude; Stanton, Tom. Rocket Man: The Encyclopedia of Elton John. Greenwood. tr. 158. ISBN 978-0-313-29700-7.
  56. ^ Sutcliffe, Phil (2009). Queen: The Ultimate Illustrated History of the Crown Kings of Rock. Voyageur Press. tr. 150. ISBN 978-0-7603-3719-6.
  57. ^ “Today in Music History: A look at events from past Oct. 9ths”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2014.. The Province. The Canadian Press. ngày 9 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2012.
  58. ^ Currin, Brian. “Mike Makhalemele – Mind Games”. Rock.co.za. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2014.
  59. ^ Frey, Jennifer (ngày 5 tháng 8 năm 1996). “A Curtain Call in Atlanta”. The Washington Post. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  60. ^ Melnick, Jeffrey (2009). 9/11 Culture. Wiley-Blackwel. tr. 39, 61. ISBN 978-1-4051-7372-8.
  61. ^ Mitchell, Claudia A.; Reid-Walsh, Jacqueline biên tập (2007). Girl Culture: An Encyclopedia, Volume 1. Greenwood. tr. 413. ISBN 978-0-313-33909-7.
  62. ^ Về việc đưa "Imagine" vào danh sách biểu diễn trong tour diễn, xem:: Timmerman, Dirk (2007). Madonna Live! Secret Re-inventions and Confessions on Tour. Maklu. tr. 27. ISBN 978-90-8595-002-8. và: Mervis, Scott (ngày 4 tháng 11 năm 2012). “Madonna to perform Tuesday at Consol Energy Center”. Pittsburgh Post-Gazette. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.. Về việc đưa "Imagine" vào DVD phim tài liệu I'm Going to Tell You a Secret, xem: “I'm Going to Tell You a Secret – Madonna”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 7 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  63. ^ “Gabriel, Pavarotti Participate In Surreal Olympic Opening”. Associated Press. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 10 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2014.
  64. ^ Về việc ca khúc "Imagine" được phát tại Lễ mừng năm mới 2005 ở New York xem: Gilmore, Hugh (ngày 17 tháng 5 năm 2012). “John Lennon's "Imagine" meets the DSM”. Chestnut Hill Local. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2012.; về việc "Imagine" được phát "tại thời điểm cố định trước nửa đêm" tại Lễ mừng năm mới 2010 ở New York xem: “Hello 2010: Huge, Wet Crowd Rings In New Year In Times Square”. NY1. ngày 1 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2012.. Về việc ca khúc "Imagine" được phát tại Lễ mừng năm mới 2011 ở New York xem: Golgowski, Nina (ngày 2 tháng 1 năm 2012). “Cee Lo Green changes lyrics to Lennon's Imagine to include pro-religion message enraging fans”. Daily Mail. London. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2012.
  65. ^ a b Cooper, Gael Fashingbauer (ngày 1 tháng 1 năm 2012). “Fans angry that Cee Lo changed 'Imagine' lyrics”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2014.. NBC News. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2012.
  66. ^
    • “Cover versions of Imagine written by John Lennon”. Second Hand Songs. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
    • “Imagine a World With Only Good Covers”. UpVenue. ngày 19 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  67. ^ Fricke 2012, tr. 63.
  68. ^ Về bản thu lại của Blues Traveler trong album Working Class Hero: A Tribute to John Lennon xem: Gnatt, Brian (ngày 1 tháng 11 năm 1995). “Records”. The Michigan Daily. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.;: Về việc Dave Matthews biểu diễn trực tiếp "Imagine" cùng Blues Traveler xem: Fricke 2012, tr. 63
  69. ^ “Italiancharts.com – Marco Carta – Imagine”. Italiancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2013.
  70. ^ Kelman, John (ngày 21 tháng 6 năm 2010). “Herbie Hancock: The Imagine Project (2010)”. All About Jazz. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.
  71. ^ “Past Winners Search”. Grammy.com. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  72. ^ a b Makarechi, Kia (ngày 12 tháng 8 năm 2012). “John Lennon & Closing Ceremony: Video Of Late Beatle Singing 'Imagine' Wows At London Olympics”. The Huffington Post. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  73. ^ Holden, Steve (ngày 15 tháng 8 năm 2012). “Olympics closing ceremony sales boost for music artists”. Newsbeat. BBC Online. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2012.
  74. ^ Szalai, Georg (ngày 20 tháng 8 năm 2012). “Summer Olympics Opening, Closing Ceremony Performers Rise on U.K. Charts”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2012.
  75. ^ “Lady Gaga stars in Baku 2015 Opening Ceremony”. Baku 2015. ngày 12 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng 10 2018. Truy cập 16 Tháng 11 2015.
  76. ^ Lynch, Joe (ngày 14 tháng 11 năm 2015). “Pianist Plays John Lennon's 'Imagine' Outside Le Bataclan After Paris Shootings”. Billboard.
  77. ^ “Go-Set Australian charts – ngày 1 tháng 1 năm 1972”. Go-Set. Poparchives.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  78. ^ a b c Kent, David (1993). Australian Chart Book 1970-1992. St Ives, N.S.W.: Australian Chart Book. ISBN 0-646-11917-6.
  79. ^ a b "Ultratop.be – John Lennon – Imagine" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  80. ^ “Imagine – JOHN LENNON” (bằng tiếng Hà Lan). Top 30. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014. Hoogste notering in de top 30: 14
  81. ^ “CHART NUMBER 770 – Saturday, ngày 23 tháng 10 năm 1971”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.. CHUM. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  82. ^ "Top RPM Adult Contemporary: Tài liệu số 7554." RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  83. ^ "Top RPM Singles: Tài liệu số 7536." RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  84. ^ a b c “InfoDisc: Tous les Titres par Artiste” (bằng tiếng Pháp). InfoDisc. Select "John Lennon" from the artist drop-down menu. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  85. ^ "Musicline.de – John Lennon Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  86. ^ “SINGOLI – I NUMERI UNO (1959-2006) (parte 2: 1970-1980)” (bằng tiếng Ý). It-charts.150m.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  87. ^ a b c Okamoto, Satoshi (2011). Single Chart Book: Complete Edition 1968-2010 (bằng tiếng Nhật). Roppongi, Tokyo: Oricon Entertainment. ISBN 4-87131-088-4.
  88. ^ a b "Nederlandse Top 40 – John Lennon - Imagine" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  89. ^ a b c d e "Dutchcharts.nl – John Lennon – Imagine" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  90. ^ a b "Norwegiancharts.com – John Lennon – Imagine". VG-lista. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  91. ^ “South African Rock Lists Website SA Charts 1969 – 1989 Acts (L)”. Rock.co.za. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  92. ^ a b c d "Swisscharts.com – John Lennon – Imagine". Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  93. ^ a b c d e f “Imagine – Awards”. AllMusic. All Media Network. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  94. ^ “CASH BOX Top 100 Singles – Week ending ngày 20 tháng 11 năm 1971”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.. Cash Box magazine. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  95. ^ “RECORD WORLD 1971”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.. Record World. Geocities.com. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  96. ^ a b c d “The Irish Charts – All there is to know”. Irishcharts.ie. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  97. ^ a b "Swedishcharts.com – John Lennon – Imagine". Singles Top 100. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  98. ^ "Official Singles Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  99. ^ a b "Austriancharts.at – John Lennon – Imagine" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  100. ^ "Charts.nz – John Lennon – Imagine". Top 40 Singles. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  101. ^ "Official Singles Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  102. ^ "Australian-charts.com – John Lennon – Imagine". ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  103. ^ "Lescharts.com – John Lennon – Imagine" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  104. ^ "Italiancharts.com – John Lennon – Imagine". Top Digital Download. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  105. ^ a b c d "Spanishcharts.com – John Lennon – Imagine" Canciones Top 50. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  106. ^ "Official Singles Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  107. ^ “IMAGINE – JOHN LENNON / THE PLASTIC ONO BAND” (bằng tiếng Ba Lan). LP3. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  108. ^ a b “Forum – ARIA Charts: Special Occasion Charts – CHART POSITIONS PRE 1989”. Australian-charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  109. ^ "Official Singles Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  110. ^ “Top Singles – Volume 16, No. 20, ngày 8 tháng 1 năm 1972”. RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  111. ^ “Veronica's Top 100” (PDF) (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  112. ^ “Jaaroverzichten – Single 1971” (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  113. ^ “I singoli più venduti del 1972” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Creative Commons. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  114. ^ “Top 20 Hit Singles of 1972”. Rock.co.za. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  115. ^ “Jaaroverzichten 1981” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  116. ^ “Single Top 100 1981” (PDF) (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  117. ^ “Jaaroverzichten – Single 1981” (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  118. ^ Rice, Tim; Rice, Jonathan; Gambaccini, Paul (1990). Guinness Hits of the 80s. Guinness Publishing. tr. 288. ISBN 978-0-8511-2398-1.
  119. ^ a b Lane, Daniel (ngày 27 tháng 6 năm 2013). “Daft Punk's Get Lucky becomes one of the UK's biggest selling singles of all-time!”. Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  120. ^ “Italy single certifications – John Lennon – Imagine” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Chọn lệnh "Tutti gli anni" trong bảng chọn "Anno". Nhập "Imagine" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
  121. ^ “Britain single certifications – John Lennon” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập John Lennon vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có thuộc tính nhóm “” không thấy xuất hiện trong văn bản phía trên.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Badman, Keith (1999). The Beatles After the Breakup 1970–2000: A Day-by-Day Diary (ấn bản 2001). Omnibus. ISBN 978-0-7119-8307-6.
  • Blaney, John (2007). Lennon and McCartney: Together Alone (ấn bản 1). Jawbone Press. ISBN 978-1-906002-02-2.
  • Coleman, Ray (1992). Lennon: The Definitive Biography . HarperPerennial. ISBN 978-0-06-098608-7.
  • Doggett, Peter (2009). You Never Give Me Your Money: The Beatles After the Breakup (ấn bản 1). Harper. ISBN 978-0-06-177446-1.
  • Du Noyer, Paul (1971). Imagine. John Lennon. Capitol Records.
  • Ingham, Chris (2009). The Rough Guide to the Beatles (ấn bản 3). Rough Guides. ISBN 978-1-84836-525-4.
  • Fricke, David (2012) [2002]. “The Making of 'Imagine'”. Trong Wenner, Jann (biên tập). John Lennon: The Ultimate Guide to His Life, Music, and Legend. Rolling Stone. ISBN 7-09-893419-4.
  • Goldman, Albert (1988). The Lives of John Lennon. William Morrow and Company. ISBN 1-55652-399-8.
  • Harry, Bill (2000). The John Lennon Encyclopedia. Virgin. ISBN 978-0-7535-0404-8.
  • Levy, Joe (editor) (2005). Rolling Stone's 500 Greatest Albums of All Time . Wenner Books. ISBN 978-1-932958-61-4.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  • Lennon, John (1983). The John Lennon Collection. Hal Leonard. ISBN 978-0-7935-0265-3.
  • Norman, Philip (2008). John Lennon: The Life. ECCO (Harper Collins). ISBN 978-0-06-075401-3.
  • Roberts, David biên tập (2005). British Hit Singles & Albums (ấn bản 18). Guinness World Records Limited. ISBN 978-1-904994-00-8.
  • Sheff, David (1981). Golson, G. Barry (biên tập). All We Are Saying: The Last Major Interview with John Lennon and Yoko Ono (ấn bản 2000). St Martin's Griffin. ISBN 978-0-312-25464-3.
  • Spizer, Bruce (2005). The Beatles Solo on Apple Records. 498 Productions, LLC. ISBN 978-0-9662649-5-1.
  • Urish, Ben; Bielen, Ken (2007). The Words and Music of John Lennon. Praeger. ISBN 978-0-275-99180-7.
  • Wenner, Jann (2010) [2004]. 500 Greatest Songs of All Time. OCLC 641731526.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Borack, John (2010). John Lennon: Life Is What Happens. Krause Publications. ISBN 978-1-4402-1391-5.
  • George-Warren, Holly biên tập (2001). The Rolling Stone Encyclopedia of Rock & Roll (ấn bản 2005). Fireside. ISBN 978-0-7432-9201-6.
  • Riley, Tim (2011). Lennon: The Man, the Myth, the Music – The Definitive Life. Hyperion. ISBN 978-1-4013-2452-0.
  • Tillery, Gary (2009). The Cynical Idealist: A Spiritual Biography of John Lennon. Quest Books. ISBN 978-0-8356-0875-6.
  • Wenner, Jann (2000). George-Warren, Holly (biên tập). Lennon Remembers. Verso. ISBN 1-85984-600-9.

Phim tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Yoko Ono, Phil Spector (Producers) (2000). Gimme Some Truth – The Making of John Lennon's "Imagine" (DVD). Capitol. ASIN B000AYELY2.
  • Andrew Solt (Director) (2005). Imagine: John Lennon (DVD). Warner Home Video. ASIN B000AYELY2.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lời bài hát tại MetroLyrics

Thông tin

Billboard Hot 100

Tuần các bài hát phổ biến nhất trên tất cả các thể loại, được xếp hạng bởi hoạt động phát trực tuyến từ các nguồn âm nhạc kỹ thuật số được theo dõi bởi Luminate, Radio AirPlay Audience ấn tượng được đo bằng dữ liệu Luminate và Bán hàng được biên soạn bởi Luminate.

Xem các huyền thoại biểu đồ

Dấu ấn/Nhãn quảng cáo:

Tái hiện

Billboard Hot 100

Tuần các bài hát phổ biến nhất trên tất cả các thể loại, được xếp hạng bởi hoạt động phát trực tuyến từ các nguồn âm nhạc kỹ thuật số được theo dõi bởi Luminate, Radio AirPlay Audience ấn tượng được đo bằng dữ liệu Luminate và Bán hàng được biên soạn bởi Luminate.

  • 1
    • Xem các huyền thoại biểu đồ

      Dấu ấn/Nhãn quảng cáo:
    • 2
    • 1
    • 7
      • 2
      • 1
      • 7
  • 2
    • Tái hiện

      Tuần ngày 18 tháng 3 năm 1972
    • 7
    • 2
    • 5
      • 7
      • 2
      • 5
  • 3
    • Trái tim vàng

      Neil Young
    • 3
    • 3
    • 12
      • 3
      • 3
      • 12
  • 4
    • Một con ngựa không có tên

      Nước Mỹ
    • 1
    • 1
    • 14
      • 1
      • 1
      • 14
  • 5
    • Sư tử ngủ tối nay

      Robert John
    • 5
    • 5
    • 8
      • 5
      • 5
      • 8
  • 6
    • Không có bạn

      Nilsson
    • 12
    • 6
    • 7
      • 12
      • 6
      • 7
  • 7
    • Mọi thứ tôi sở hữu

      Bánh mì
    • 6
    • 3
    • 12
      • 6
      • 3
      • 12
  • 8
    • Cuộc hội ngộ của mẹ và con

      Paul Simon
    • 9
    • 8
    • 8
      • 9
      • 8
      • 8
  • 9
    • Quý giá và ít

      Cực điểm
    • 11
    • 9
    • 4
      • 11
      • 9
      • 4
  • 10
    • Con đường tình yêu

      Cher
    • 4
    • 4
    • 9
      • 4
      • 4
      • 9
  • 11
    • Tình yêu trẻ con

      Donny Osmond
    • 15
    • 11
    • 10
      • 15
      • 11
      • 10
  • 12
    • Xuống dưới dòng sông lười

      Osmonds
    • 8
    • 2
    • 10
      • 8
      • 2
      • 10
  • 13
    • Sốt rừng

      Các Chakachas
    • 10
    • 10
    • 12
      • 10
      • 10
      • 12
  • 14
    • Làm tổn thương nhau

      những người thợ mộc
    • 18
    • 14
    • 9
      • 18
      • 14
      • 9
  • 15
    • Bang a cồng chiêng (nhận nó trên)

      T. Rex
    • 14
    • 6
    • 12
      • 14
      • 6
      • 12
  • 16
    • Tôi gotcha

      Joe Tex
    • 13
    • 9
    • 8
      • 13
      • 9
      • 8
  • 17
    • Vui sướng

      Apollo có Tom Parker
    • 27
    • 17
    • 4
      • 27
      • 17
      • 4
  • 18
    • Mùa ngọt

      Vua Carole
    • 21
    • 18
    • 6
      • 21
      • 18
      • 6
  • 19
    • Trong mưa

      Các kịch tính
    • 17
    • 15
    • 14
      • 17
      • 15
      • 14
  • 20
    • Rock and Roll ru

      B.J Thomas
    • 19
    • 1
    • 17
      • 19
      • 1
      • 17
  • 21
    • Đừng nói bạn không nhớ

      Beverly Bremers
    • 24
    • 21
    • 15
      • 24
      • 21
      • 15
  • 22
    • Bánh Mỹ (Phần I & II)

      Don McLean
    • 20
    • 1
    • 16
      • 20
      • 1
      • 16
  • 23
    • Không hiểu êm dịu

      Jerry Butler & Brenda Lee háo hức
    • 33
    • 23
    • 4
      • 33
      • 23
      • 4
  • 24
    • Hay ở lại cung nhau

      Al màu xanh lá cây
    • 16
    • 16
    • 11
      • 16
      • 16
      • 11
  • 25
    • Một công việc cao bồi không bao giờ được thực hiện

      Sonny & Cher
    • 25
    • 25
    • 7
      • 25
      • 25
      • 7
  • 26
    • Niềm vui của Floy

      Đấng tối cao
    • 28
    • 26
    • 9
      • 28
      • 26
      • 9
  • 27
    • Runnin 'đi

      Sly & The Family Stone
    • 30
    • 27
    • 6
      • 30
      • 27
      • 6
  • 28
    • Chúng ta phải lấy nó một lần nữa

      Anh em Addrisi
    • 32
    • 28
    • 6
      • 32
      • 28
      • 6
  • 29
    • Nói to và không nói gì - Phần tôi

      James Brown
    • 38
    • 29
    • 8
      • 38
      • 29
      • 8
  • 30
    • Bùng binh

      Đúng
    • 34
    • 30
    • 4
      • 34
      • 30
      • 4
  • 31
    • Mẹ điên

      J.J. Cale
    • 31
    • 31
    • 8
      • 31
      • 31
      • 8
  • 32
    • Betcha bởi golly, wow

      Các phong cách có Russell Thompkins, jr.
    • 23
    • 16
    • 8
      • 23
      • 16
      • 8
  • 33
    • Chuông chuông sống

      Melanie
    • 68
    • 33
    • 2
      • 68
      • 33
      • 2
  • 34
    • Thế giới của tôi

      Bee Gees
    • 29
    • 29
    • 9
      • 29
      • 29
      • 9
  • 35
    • Rockin 'Robin

      Michael Jackson
    • 43
    • 35
    • 6
      • 43
      • 35
      • 6
  • 36
    • Nhẹ nhàng thì thầm, tôi yêu bạn

      Hội thánh tiếng Anh
    • 39
    • 36
    • 5
      • 39
      • 36
      • 5
  • 37
    • Vinh quang ràng buộc

      Rễ cỏ
    • 37
    • 37
    • 6
      • 37
      • 37
      • 6
  • 38
    • chòm sao Kim Ngưu

      Dennis Coffey & The Detroit Guitar Band
    • 22
    • 22
    • 8
      • 22
      • 22
      • 8
  • 39
    • Không ai phụ thuộc vào

      Santana
    • 45
    • 39
    • 8
      • 45
      • 39
      • 8
  • 40
    • Tôi không thể giúp mình (bánh đường, bó mật ong)

      Donnie Elbert
    • 50
    • 40
    • 3
      • 50
      • 40
      • 3
  • 41
    • Mọi ngày trong đời tôi

      Bobby Vinton
    • 41
    • 41
    • 5
      • 41
      • 41
      • 5
  • 42
    • Nhìn xung quanh

      Những cám dỗ
    • 55
    • 42
    • 3
      • 55
      • 42
      • 3
  • 43
    • Nó có thể là mãi mãi

      David Cassidy
    • 49
    • 43
    • 4
      • 49
      • 43
      • 4
  • 44
    • Lần đầu tiên tôi nhìn thấy khuôn mặt của bạn

      Roberta Flack
    • 36
    • 36
    • 11
      • 36
      • 36
      • 11
  • 45
    • Làm việc của bạn

      Isaac Hayes
    • 47
    • 45
    • 5
      • 47
      • 45
      • 5
  • 46
    • Bạn muốn nó, bạn đã hiểu nó

      Detroit Emeralds
    • 42
    • 42
    • 6
      • 42
      • 42
      • 6
  • 47
    • Ngày tôi thấy mình

      Hình nón mật ong
    • 48
    • 47
    • 7
      • 48
      • 47
      • 7
  • 48
    • Túi xách và Gladrags

      Sly & The Family Stone
    • 51
    • 48
    • 3
      • 51
      • 48
      • 3
  • 49
    • Chúng ta phải lấy nó một lần nữa

      Anh em Addrisi
    • 40
    • 40
    • 8
      • 40
      • 40
      • 8
  • 50
    • Nói to và không nói gì - Phần tôi

      James Brown
    • 54
    • 50
    • 9
      • 54
      • 50
      • 9
  • 51
    • Bùng binh

      Đúng
    • 46
    • 46
    • 8
      • 46
      • 46
      • 8
  • 52
    • Mẹ điên

      J.J. Cale
    • 52
    • 52
    • 8
      • 52
      • 52
      • 8
  • 53
    • Betcha bởi golly, wow

      Các phong cách có Russell Thompkins, jr.
    • 66
    • 53
    • 3
      • 66
      • 53
      • 3
  • 54
    • Chuông chuông sống

      J.J. Cale
    • 35
    • 35
    • 9
      • 35
      • 35
      • 9
  • 55
    • Betcha bởi golly, wow

      Các phong cách có Russell Thompkins, jr.
    • 67
    • 55
    • 3
      • 67
      • 55
      • 3
  • 56
    • Chuông chuông sống

      Melanie
    • 69
    • 56
    • 3
      • 69
      • 56
      • 3
  • 57
    • Thế giới của tôi

      Bee Gees
    • 57
    • 57
    • 8
      • 57
      • 57
      • 8
  • Rockin 'Robin NEW
  • Michael Jackson
    • Nhẹ nhàng thì thầm, tôi yêu bạn

      Hội thánh tiếng Anh
    • Vinh quang ràng buộc
    • 58
    • 1
      • Vinh quang ràng buộc
      • 58
      • 1
  • 59
    • Rễ cỏ

      chòm sao Kim Ngưu
    • 60
    • 59
    • 4
      • 60
      • 59
      • 4
  • 60
    • Dennis Coffey & The Detroit Guitar Band

      Không ai phụ thuộc vào
    • 62
    • 60
    • 3
      • 62
      • 60
      • 3
  • 61
    • Santana

      Tôi không thể giúp mình (bánh đường, bó mật ong)
    • 61
    • 61
    • 6
      • 61
      • 61
      • 6
  • 62
    • Donnie Elbert

      Mọi ngày trong đời tôi
    • 44
    • 29
    • 11
      • 44
      • 29
      • 11
  • 63
    • Bobby Vinton

      Nhìn xung quanh
    • 78
    • 63
    • 2
      • 78
      • 63
      • 2
  • 64
    • Những cám dỗ

      Nó có thể là mãi mãi
    • 65
    • 64
    • 8
      • 65
      • 64
      • 8
  • 65
    • David Cassidy

      Lần đầu tiên tôi nhìn thấy khuôn mặt của bạn
    • 70
    • 65
    • 7
      • 70
      • 65
      • 7
  • 66
    • Roberta Flack

      Làm việc của bạn
    • 73
    • 66
    • 3
      • 73
      • 66
      • 3
  • 67
    • Isaac Hayes

      Bạn muốn nó, bạn đã hiểu nó
    • 64
    • 64
    • 4
      • 64
      • 64
      • 4
  • 68
    • Detroit Emeralds

      Ngày tôi thấy mình
    • 71
    • 68
    • 5
      • 71
      • 68
      • 5
  • 69
    • Đó là những gì tình yêu sẽ khiến bạn làm

      Milton nhỏ
    • 59
    • 59
    • 6
      • 59
      • 59
      • 6
  • 70
    • Bài hát của Brian

      Michel Legrand
    • 58
    • 56
    • 8
      • 58
      • 56
      • 8
  • 71
    • Louisianna

      Mike Kennedy
    • 76
    • 71
    • 3
      • 76
      • 71
      • 3
  • 72
    • Người chạy tiền

      Quincy Jones
    • 77
    • 72
    • 2
      • 77
      • 72
      • 2
  • 73
    • Nó là gì

      Sự thật không thể tranh cãi
    • 74
    • 73
    • 4
      • 74
      • 73
      • 4
  • 74
    • Ông Penguin-pt. Tôi

      Lunar Funk
    • 63
    • 63
    • 7
      • 63
      • 63
      • 7
  • 75
    • Sống mà không có bạn

      Ban nhạc Trái đất của Manfred Mann
    • 79
    • 75
    • 4
      • 79
      • 75
      • 4
  • 76
    • Làm người yêu em nhé

      Alice Cooper
    • 81
    • 76
    • 2
      • 81
      • 76
      • 2
  • 77 MỚI NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 77
    • 1
      • -
      • 77
      • 1
  • 78 MỚI NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 78
    • 1
      • -
      • 78
      • 1
  • 79
    • 78 MỚI

      Vincent (Starry, Starry Night)/Castles in the Air
    • 80
    • 79
    • 3
      • 80
      • 79
      • 3
  • Don McLean NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 80
    • 1
      • -
      • 80
      • 1
  • 81
    • 78 MỚI

      Vincent (Starry, Starry Night)/Castles in the Air
    • 82
    • 81
    • 2
      • 82
      • 81
      • 2
  • 82
    • Don McLean

      Kể từ khi tôi yêu bạn
    • 83
    • 82
    • 4
      • 83
      • 82
      • 4
  • 83
    • Laura Lee

      80 mới
    • 84
    • 83
    • 4
      • 84
      • 83
      • 4
  • 84
    • Bác sĩ mắt của tôi

      Jackson Browne
    • 85
    • 84
    • 4
      • 85
      • 84
      • 4
  • 85
    • Hằng ngày

      John Denver
    • 87
    • 85
    • 3
      • 87
      • 85
      • 3
  • 86
    • Rất vui được ở bên bạn

      Phòng trưng bày
    • 90
    • 86
    • 2
      • 90
      • 86
      • 2
  • Lên ở Heh NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 87
    • 1
      • -
      • 87
      • 1
  • 88
    • 78 MỚI

      Vincent (Starry, Starry Night)/Castles in the Air
    • 100
    • 88
    • 2
      • 100
      • 88
      • 2
  • 89
    • Don McLean

      Kể từ khi tôi yêu bạn
    • 97
    • 89
    • 2
      • 97
      • 89
      • 2
  • Laura Lee NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 90
    • 1
      • -
      • 90
      • 1
  • 91
    • 78 MỚI

      Vincent (Starry, Starry Night)/Castles in the Air
    • 92
    • 91
    • 2
      • 92
      • 91
      • 2
  • 92
    • Don McLean

      Kể từ khi tôi yêu bạn
    • 99
    • 92
    • 2
      • 99
      • 92
      • 2
  • 93
    • Laura Lee

      80 mới
    • 95
    • 93
    • 3
      • 95
      • 93
      • 3
  • Bác sĩ mắt của tôi NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 94
    • 1
      • -
      • 94
      • 1
  • 95
    • 78 MỚI

      Vincent (Starry, Starry Night)/Castles in the Air
    • 98
    • 95
    • 2
      • 98
      • 95
      • 2
  • 96
    • Don McLean

      Kể từ khi tôi yêu bạn
    • 96
    • 96
    • 2
      • 96
      • 96
      • 2
  • Laura Lee NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 97
    • 1
      • -
      • 97
      • 1
  • 78 MỚI NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 98
    • 1
      • -
      • 98
      • 1
  • 78 MỚI NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 99
    • 1
      • -
      • 99
      • 1
  • 78 MỚI NEW
  • MỚI
    • Rock and Roll

      Led Zeppelin
    • -
    • 100
    • 1
      • -
      • 100
      • 1

Bài hát hit số 1 năm 1972 là gì?

Billboard năm kết thúc nóng bỏng 100 đĩa đơn năm 1972.

Đứng đầu các bảng xếp hạng vào năm 1972 là gì?

100 hit hàng đầu năm 1972/100 bài hát hàng đầu năm 1972..

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy khuôn mặt của bạn - Roberta Flack ..

Một mình một lần nữa (tự nhiên) - Gilbert O'Sullivan ..

American Pie - Don McLean ..

Không có bạn - Nilsson ..

The Candy Man - Sammy Davis Jr ..

I Gotcha - Joe Tex ..

Dựa vào tôi - hóa đơn withers ..

Em bé không bị cuốn hút vào tôi - Mac Davis ..

Bài hát rock số 1 năm 1972 là gì?

100 bài hát hay nhất từ năm 1972.

Top 40 năm 1972 là gì?

Năm 1972 Top 80 (riêng)

1

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy khuôn mặt của bạn

Roberta Flack

2

Một mình một lần nữa (một cách tự nhiên)

Gilbert O 'Sullivan

3

Bánh Mỹ

Don McLean

4

KHÔNG CÓ BẠN

Nilsson

Khảo sát cuối năm của Mỹ năm 1972www.hbr3.sakura.ne.jp năm 1972Null


Để đọc bình luận của Jarrett Nolan cho biểu đồ tuần này, bấm vào đây!


Top 40 - ngày 29 tháng 10 năm này


1 Motown/ Wolfpack/ 4pf) 5. Tôi thích bạn (một bài hát hạnh phúc hơn) bởi Post Malone có Doja Cat (Cộng hòa) 6. Tôi không lo lắng bởi Onerepublic (Interscope) 7. Bạn bằng chứng bởi Morgan Wallen (lớn/ Cộng hòa) 8. Mãi mãi của Lil Baby có thứ Sáu (Kiểm soát chất lượng/ Motown/ Wolfpack/ 4pf) 9. Cô gái siêu kỳ dị của Nicki Minaj (Tiền trẻ/ Tiền mặt/ Cộng hòa) 10. 4pf)
2. BAD HABIT by Steve Lacy (L-M/ RCA)
3. AS IT WAS by Harry Styles (Erskine/ Columbia)
4. CALIFORNIA BREEZE by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
5. I LIKE YOU (A HAPPIER SONG) by Post Malone featuring Doja Cat (Republic)
6. I AIN'T WORRIED by OneRepublic (Interscope)
7. YOU PROOF by Morgan Wallen (Big Loud/ Republic)
8. FOREVER by Lil Baby featuring Fridayy (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
9. SUPER FREAKY GIRL by Nicki Minaj (Young Money/ Cash Money/ Republic)
10. REAL SPILL by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)

11. Bebe Rexha (What a DJ/ Warner UK) 15. Bị bật ra bởi Lil Baby & Nardo Wick (Kiểm soát chất lượng/ Motown/ Wolfpack/ 4pf) 16. Trong một phút của Lil Baby (Kiểm soát chất lượng/ Motown/ Wolfpack/ 4PF) 17. Lãng phí cho bạn bởi Morgan Wallen (lớn/ Cộng hòa) 18. Chờ bạn bằng tương lai có Drake & Tems (Freebandz/ Epic) 19. Không bao giờ ghét bởi Lil Baby & Young Thug (Kiểm soát chất lượng/ Motown/ Wolfpack/ 4PF) 20. Khoảng thời gian chết tiệt của Lizzo (cuộc sống tốt đẹp/ Đại Tây Dương)
12. SOMETHING IN THE ORANGE by Zach Bryan (Warner)
13. VEGAS by Doja Cat (Kemosabe/ RCA)
14. I'M GOOD (BLUE) by David Guetta & Bebe Rexha (What a DJ/ Warner UK)
15. POP OUT by Lil Baby & Nardo Wick (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
16. IN A MINUTE by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
17. WASTED ON YOU by Morgan Wallen (Big Loud/ Republic)
18. WAIT FOR U by Future featuring Drake & Tems (Freebandz/ Epic)
19. NEVER HATING by Lil Baby & Young Thug (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
20. ABOUT DAMN TIME by Lizzo (Nice Life/ Atlantic)

21. ) 24. Ngày mai 2 của Glorilla & Cardi B (CMG/ Interscope) 25. Titi Me Pregunto của Bad Bunny (Rimas) 26. Không kết thúc bởi Lil Baby (Kiểm soát chất lượng/ Motown/ Wolfpack/ 4pf) Styles (Erskine/ Columbia) 28. Cô ấy đã có tôi tại Heads Carolina của Cole Swindell (Warner Music Nashville) 29. dưới ảnh hưởng của Chris Brown (CBE/ RCA) 30. ME Porto Bonito của Bad Bunny & Chencho Corleone (Rimas)
22. STAND ON IT by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
23. THE KIND OF LOVE WE MAKE by Luke Combs (River House/ Columbia)
24. TOMORROW 2 by GloRilla & Cardi B (CMG/ Interscope)
25. TITI ME PREGUNTO by Bad Bunny (Rimas)
26. NOT FINISHED by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
27. LATE NIGHT TALKING by Harry Styles (Erskine/ Columbia)
28. SHE HAD ME AT HEADS CAROLINA by Cole Swindell (Warner Music Nashville)
29. UNDER THE INFLUENCE by Chris Brown (CBE/ RCA)
30. ME PORTO BONITO by Bad Bunny & Chencho Corleone (Rimas)

31. & Britney Spears (EMI/ Mercury) 35. Rock and a Hard Place của Bailey Zimmerman (Warner Music Nashville) 36. FALL IN Love By Bailey Zimmerman (Warner Music Nashville) 37. Die for You By the Weeknd (XO/ Cộng hòa) 38 . Cảm ơn Chúa bởi Kane Brown với Kelyn Brown (RCA Nashville) 39. Không thể ngăn cản của SIA (Monkey Puzzle/ RCA) 40. Ba Lan của Lil Yachty (kiểm soát chất lượng)
32. PERFECT TIMING by Lil Baby (Quality Control/ Motown/ Wolfpack/ 4PF)
33. CUFF IT by Beyonce (Parkwood/ Columbia)
34. HOLD ME CLOSER by Elton John & Britney Spears (EMI/ Mercury)
35. ROCK AND A HARD PLACE by Bailey Zimmerman (Warner Music Nashville)
36. FALL IN LOVE by Bailey Zimmerman (Warner Music Nashville)
37. DIE FOR YOU by the Weeknd (XO/ Republic)
38. THANK GOD by Kane Brown with Katelyn Brown (RCA Nashville)
39. UNSTOPPABLE by Sia (Monkey Puzzle/ RCA)
40. POLAND by Lil Yachty (Quality Control)

100 bài hát hàng đầu của chúng tôi năm 2022

Logo Hot 100 hiện tại của Billboard

Billboard Hot 100 là bảng xếp hạng kỷ lục tiêu chuẩn công nghiệp âm nhạc tại Hoa Kỳ cho các bài hát, được xuất bản hàng tuần bởi tạp chí Billboard. Xếp hạng biểu đồ dựa trên doanh số (vật lý và kỹ thuật số), phát radio và phát trực tuyến tại Hoa Kỳ. [1]Billboard Hot 100 is the music industry standard record chart in the United States for songs, published weekly by Billboard magazine. Chart rankings are based on sales (physical and digital), radio play, and online streaming in the United States.[1]

Thời gian theo dõi hàng tuần để bán hàng ban đầu là từ thứ Hai đến Chủ nhật khi Nielsen bắt đầu theo dõi doanh số vào năm 1991, nhưng đã được thay đổi thành Thứ Sáu đến Thứ Năm vào tháng 7 năm 2015. Thời gian theo dõi này cũng áp dụng để biên dịch dữ liệu phát trực tuyến. Radio Airplay, không giống như số liệu bán hàng và phát trực tuyến, có sẵn trên cơ sở thời gian thực, cũng được theo dõi vào chu kỳ thứ Sáu đến thứ Năm có hiệu lực với bảng xếp hạng ngày 17 tháng 7 năm 2021 [2] (trước đó đến thứ Hai đến Chủ nhật và trước tháng 7 2015, Thứ Tư đến Thứ Ba [3]). Một biểu đồ mới được biên soạn và chính thức phát hành ra công chúng bởi Billboard vào thứ ba nhưng sau ngày thứ bảy sau.

Bài hát số một số đầu tiên của Billboard Hot 100 là "Fool Little Fool" của Ricky Nelson, vào ngày 4 tháng 8 năm 1958. [4] Kể từ vấn đề trong tuần kết thúc vào ngày 5 tháng 11 năm 2022, Billboard Hot 100 đã có 1.144 mục số một số khác nhau. Bài hát số một của biểu đồ là "Anti-Hero" của Taylor Swift. [5]

Lịch sử

100 bài hát hàng đầu của chúng tôi năm 2022

1958 Lặp lại logo

Biểu đồ đầu tiên được xuất bản bởi Billboard là "Mười người bán chạy nhất tuần trước trong số các bài hát nổi tiếng", một danh sách các bản nhạc bán chạy nhất, vào tháng 7 năm 1913. Các bảng xếp hạng khác liệt kê các buổi biểu diễn bài hát nổi tiếng trong rạp chiếu phim và diễn xuất. Năm 1928, "những con số nổi tiếng được giới thiệu bởi các ca sĩ và nhà lãnh đạo nổi tiếng" đã xuất hiện, trong đó bổ sung các buổi biểu diễn trên đài phát thanh cho các buổi biểu diễn trực tiếp. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1936, tạp chí Billboard đã xuất bản "Mười kỷ lục tốt nhất cho tuần kết thúc", trong đó ghi lại 10 hồ sơ bán hàng hàng đầu của ba công ty thu âm hàng đầu theo báo cáo của chính các công ty. Vào tháng 10 năm 1938, một danh sách đánh giá "Hồ sơ tốt nhất trong tuần" đã được thử lại "Hướng dẫn mua kỷ lục Billboard" bằng cách kết hợp bán hàng phát sóng và doanh số âm nhạc, cuối cùng sẽ trở thành cuộc khảo sát thương mại đầu tiên về mức độ phổ biến kỷ lục. Đây, "Biểu đồ phổ biến âm nhạc Billboard" đầy đủ, xuất hiện vào ngày 20 tháng 7 năm 1940, với các danh sách bao gồm chơi máy hát tự động, bán lẻ bán lẻ, bán hàng nhạc và phát radio. Được liệt kê là 10 bài hát của "Singles bán chạy nhất", đây là người chạy đầu tiên của bảng xếp hạng nhạc pop ngày nay, với "Tôi sẽ Never Smile Again" của Tommy Dorsey số một đầu tiên của nó. [6]

Bắt đầu từ ngày 24 tháng 3 năm 1945, bảng xếp hạng phổ biến hàng đầu của Billboard là danh hiệu danh dự của các bản hit. Biểu đồ này được xếp hạng các bài hát phổ biến nhất bất kể người biểu diễn (nó đã kết hợp các phiên bản khác nhau của cùng một bài hát của các nghệ sĩ khác nhau) dựa trên doanh số thu âm và bảng, các màn trình diễn của đĩa và các màn trình diễn của máy hát tự động được xác định bởi cuộc khảo sát trên toàn quốc của Billboard. [7] Khi bắt đầu kỷ nguyên nhạc rock năm 1955, có ba bảng xếp hạng đã đo các bài hát bằng các số liệu riêng lẻ: [8]'s lead popularity chart was the Honor Roll of Hits. This chart ranked the most popular songs regardless of performer (it combined different versions of the same song by different artists) based on record and sheet sales, disk jockey, and jukebox performances as determined by Billboard's weekly nationwide survey.[7] At the start of the rock era in 1955, there were three charts that measured songs by individual metrics:[8]

  • Những người bán hàng tốt nhất trong các cửa hàng là bảng xếp hạng bán chạy nhất lần đầu tiên được thành lập vào tháng 7 năm 1940. Biểu đồ này được xếp hạng đơn lớn nhất trong các cửa hàng bán lẻ, theo báo cáo của các thương nhân được khảo sát trên toàn quốc (20 đến 50 vị trí).
  • Được chơi nhiều nhất bởi Jockeys là bảng xếp hạng phát sóng ban đầu của Billboard. Nó xếp hạng các bài hát được chơi nhiều nhất trên các đài phát thanh Hoa Kỳ, theo báo cáo của các đài phát thanh và đài phát thanh (20 đến 25 vị trí).'s original airplay chart. It ranked the most played songs on United States radio stations, as reported by radio DJs and radio stations (20 to 25 positions).
  • Hầu hết được chơi trong Jukeboxes xếp hạng các bài hát được chơi nhiều nhất trong Jukeboxes trên khắp Hoa Kỳ (20 vị trí). Đây là một trong những cửa hàng chính của việc đo lường sự phổ biến của bài hát với thế hệ người nghe âm nhạc trẻ hơn, vì nhiều đài phát thanh chống lại việc thêm nhạc rock and roll vào danh sách phát của họ trong nhiều năm.

Mặc dù chính thức cả ba biểu đồ đều có "trọng lượng" bằng nhau về tầm quan trọng của chúng, Billboard hồi tưởng lại xem xét các sản phẩm bán chạy nhất trong biểu đồ cửa hàng khi tham khảo hiệu suất của bài hát trước khi tạo ra Hot 100. [9] Vào tuần kết thúc vào ngày 12 tháng 11 năm 1955, Billboard đã xuất bản Top 100 lần đầu tiên. Top 100 kết hợp tất cả các khía cạnh của hiệu suất duy nhất (bán hàng, phát sóng và hoạt động máy hát tự động), dựa trên một hệ thống điểm thường mang lại trọng lượng bán hàng (mua) nhiều hơn so với phát thanh phát thanh. Số 1 đầu tiên trong bảng xếp hạng đó là "Tình yêu là một điều nhiều người". [6] Những người bán hàng giỏi nhất trong các cửa hàng, được chơi nhiều nhất bởi jockeys và hầu hết được chơi trong bảng xếp hạng máy hát tự động tiếp tục được xuất bản đồng thời với bảng xếp hạng Top 100 mới.The Top 100 for the first time. The Top 100 combined all aspects of a single's performance (sales, airplay and jukebox activity), based on a point system that typically gave sales (purchases) more weight than radio airplay. The first No. 1 in that chart was "Love Is a Many-Splendored Thing".[6] The Best Sellers in Stores, Most Played by Jockeys and Most Played in Jukeboxes charts continued to be published concurrently with the new Top 100 chart.

Vào ngày 17 tháng 6 năm 1957, Billboard đã ngừng biểu đồ Jukeboxes được chơi nhiều nhất, khi sự phổ biến của máy hát tự động suy yếu và các đài phát thanh kết hợp âm nhạc ngày càng nhiều nhạc rock vào danh sách phát của họ. Tuần kết thúc vào ngày 28 tháng 7 năm 1958, là ấn phẩm cuối cùng được chơi nhiều nhất bởi Jockeys và 100 bảng xếp hạng Top 100, cả hai đều có phiên bản "Patricia" của Perez Prado được chơi lên hàng đầu. [Cần trích dẫn]citation needed]

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1958, Billboard đã công chiếu một bảng xếp hạng đơn thể loại chính: The Hot 100. The Hot 100 nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn công nghiệp và Billboard đã ngừng các sản phẩm bán chạy nhất trong bảng xếp hạng các cửa hàng vào ngày 13 tháng 10 năm 1958.

Hot 100 được tạo ra bởi các nhà báo Tom Noonan, Paul Ackerman và Seymour Stein; Stein không nhớ ai đã chọn tên. [10]

Billboard Hot 100 vẫn là tiêu chuẩn mà sự phổ biến của một bài hát được đo lường ở Hoa Kỳ. Hot 100 được xếp hạng bởi các ấn tượng của khán giả phát thanh phát thanh được đo bằng Nielsen BDS, dữ liệu bán hàng do Nielsen Soundcan biên soạn (cả tại bán lẻ và kỹ thuật số) và hoạt động phát trực tuyến được cung cấp bởi các nguồn âm nhạc trực tuyến. [8]

Có một số biểu đồ thành phần góp phần tính toán tổng thể của Hot 100. Các biểu đồ quan trọng nhất là:

  • Hot 100 Airplay: (mỗi bảng quảng cáo) Khoảng 1.000 trạm ", bao gồm các định dạng đương đại, R & B, hip hop, quốc gia, rock, phúc âm, tiếng Latin và Kitô giáo, theo dõi kỹ thuật số hai mươi bốn giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Biểu đồ là Được xếp hạng theo số lượng ấn tượng tổng số khán giả, được tính toán bằng cách tham chiếu chéo thời gian chính xác của phát thanh phát thanh với dữ liệu người nghe của Actionron. "
  • HOT Singles Sales: (Per Billboard) "Các đĩa đơn bán chạy nhất được biên soạn từ một mẫu cửa hàng bán lẻ quốc gia, báo cáo bán hàng hàng loạt và bán hàng internet được thu thập, biên soạn và cung cấp bởi Nielsen Soundcan." Biểu đồ được phát hành hàng tuần và đo lường doanh số bán các đĩa đơn thương mại vật lý. Với sự suy giảm doanh số của những người độc thân thể chất ở Mỹ, nhiều bài hát trở thành số một trên bảng xếp hạng này thường không biểu đồ trên Hot 100.
  • Bài hát kỹ thuật số: Bán hàng kỹ thuật số được Nielsen Soundcan theo dõi và được đưa vào như một phần của điểm bán hàng của tiêu đề.
  • Truyền phát các bài hát: Sự hợp tác giữa Billboard, Nielsen Soundcan và Hiệp hội các thương nhân ghi âm quốc gia đo lường các bài hát phát thanh được phát trực tuyến, các bài hát và video theo yêu cầu hàng đầu về các dịch vụ âm nhạc trực tuyến hàng đầu.

Tổng hợp

Tuần theo dõi để bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng bắt đầu vào thứ Sáu và kết thúc vào thứ năm (phát sóng được sử dụng để có một tuần theo dõi từ thứ Hai đến Chủ nhật, nhưng có hiệu lực với bảng xếp hạng ngày 17 tháng 7 năm 2021, tuần đã được điều chỉnh để phù hợp với hai số liệu [2]). Một biểu đồ mới được Billboard biên soạn và chính thức phát hành ra công chúng vào thứ ba. Mỗi biểu đồ được gửi qua ngày với ngày phát hành "kết thúc tuần" bốn ngày sau khi các biểu đồ được làm mới trực tuyến (tức là, thứ bảy sau). [11] Ví dụ:

  • Thứ Sáu, ngày 1 tháng 1-Tuần theo dõi bắt đầu bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng
  • Thứ Năm, ngày 7 tháng 1-Theo dõi tuần kết thúc để bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng
  • Thứ ba, ngày 12 tháng 1-Biểu đồ mới được phát hành, với vấn đề sau ngày thứ bảy, ngày 16 tháng 1

Thay đổi chính sách

Các phương pháp và chính sách mà dữ liệu này được lấy và biên dịch đã thay đổi nhiều lần trong suốt lịch sử của biểu đồ.

Mặc dù sự ra đời của một bảng xếp hạng âm nhạc độc thân đã tạo ra các nhà sử học biểu đồ và những người theo dõi biểu đồ và ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa nhạc pop và tạo ra vô số bit của những câu đố, mục đích chính của Hot 100 là để hỗ trợ những người trong ngành công nghiệp âm nhạc: phản ánh sự phổ biến của "" Sản phẩm "(The Singles, The Album, v.v.) và để theo dõi xu hướng của công chúng mua. Billboard đã (nhiều lần) thay đổi phương pháp và chính sách của mình để đưa ra sự phản ánh chính xác và chính xác nhất về những gì phổ biến. Một ví dụ rất cơ bản về điều này sẽ là tỷ lệ được đưa ra cho doanh số và phát sóng. Trong lịch sử ban đầu của Hot 100, những người độc thân là cách hàng đầu mà mọi người đã mua nhạc. Đôi khi, khi doanh số bán hàng đơn trở nên mạnh mẽ, trọng lượng hơn được trao cho các điểm bán lẻ của một bài hát hơn là phát sóng phát thanh của nó.

Khi nhiều thập kỷ trôi qua, ngành công nghiệp ghi âm tập trung nhiều vào doanh số album hơn là bán hàng đơn. Các nhạc sĩ cuối cùng đã bày tỏ kết quả sáng tạo của họ dưới dạng album dài hơn là người độc thân, và đến những năm 1990, nhiều công ty thu âm đã ngừng phát hành hoàn toàn (xem phần cắt album, bên dưới). Cuối cùng, các điểm phát sóng của một bài hát được cân nặng hơn doanh số của nó. Billboard đã điều chỉnh tỷ lệ bán hàng/phát sóng nhiều lần để phản ánh chính xác hơn sự phổ biến thực sự của các bài hát.

Người độc thân hai mặt

Billboard cũng đã thay đổi chính sách nóng 100 của mình liên quan đến "đơn hai mặt" nhiều lần. Biểu đồ 100 trước nóng bỏng "Người bán chạy nhất trong các cửa hàng" được liệt kê các mặt A và-B phổ biến với nhau, với mặt được chơi thường xuyên nhất (dựa trên các biểu đồ khác của nó) được liệt kê trước tiên. Một trong những điều đáng chú ý nhất trong số này, nhưng khác xa với người duy nhất, là "Đừng tàn nhẫn" của Elvis Presley. Trong cuộc chạy bảng xếp hạng của Presley, thanh toán hàng đầu đã được chuyển qua lại giữa hai bên nhiều lần. Nhưng trong "các hộp được chơi nhiều nhất trong các hộp Juke", "hầu hết được chơi bởi Jockeys" và "Top 100", hai bài hát được liệt kê riêng, như đúng với tất cả các bài hát. Với sự khởi đầu của Hot 100 vào năm 1958, các mặt A và-B được biểu đồ riêng biệt, như họ đã có trên Top 100 trước đây.

Bắt đầu với bảng xếp hạng Hot 100 cho tuần kết thúc vào ngày 29 tháng 11 năm 1969, quy tắc này đã bị thay đổi; Nếu cả hai bên nhận được phát sóng đáng kể, chúng được liệt kê cùng nhau. Điều này bắt đầu trở thành một điểm moot vào năm 1972, vì hầu hết các hãng thu âm lớn đã củng cố một xu hướng mà họ đã bắt đầu vào những năm 1960 bằng cách đặt cùng một bài hát ở cả hai bên của những người độc thân được cung cấp cho đài phát thanh.

Các vấn đề phức tạp hơn bắt đầu phát sinh khi định dạng người độc thân điển hình của người độc thân nhường chỗ cho những người độc thân và bóng tối Maxi 12 inch, nhiều trong số đó chứa nhiều hơn một bên B. Các vấn đề khác phát sinh khi, trong một số trường hợp, một bên B cuối cùng sẽ vượt qua mức độ phổ biến của A "B-Side.

Việc bao gồm các lần cắt album trên Hot 100 đã đưa các vấn đề đình đám hai mặt để nghỉ ngơi vĩnh viễn.

Cắt album

Vì nhiều chính sách biểu đồ nóng 100 đã được sửa đổi trong những năm qua, một quy tắc luôn không đổi: các bài hát không đủ điều kiện để vào Hot 100 trừ khi chúng có sẵn để mua dưới dạng duy nhất. Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 12 năm 1998, Hot 100 đã thay đổi từ biểu đồ "Singles" sang biểu đồ "Bài hát". [12] Trong những năm 1990, một xu hướng phát triển trong ngành công nghiệp âm nhạc là quảng bá các bài hát lên đài phát thanh mà không bao giờ phát hành chúng như những người độc thân. Nó đã được tuyên bố bởi các hãng thu âm lớn [CITE cần] rằng những người độc thân đang ăn thịt người bán hàng, vì vậy họ đã dần dần bị loại bỏ. Trong giai đoạn này, các cáo buộc bắt đầu bay vào thao tác biểu đồ khi các nhãn sẽ giữ được phát hành một cho đến khi phát sóng ở đỉnh cao tuyệt đối của nó, do đó đưa ra một top 10 hoặc, trong một số trường hợp, một lần ra mắt số một. Trong nhiều trường hợp, một nhãn sẽ xóa một bản duy nhất khỏi danh mục của nó chỉ sau một tuần, do đó cho phép bài hát bước vào Hot 100, ra mắt cao và sau đó từ từ từ từ khi sản xuất một lần của bán lẻ đơn lẻ được bán hết .citation needed] that singles were cannibalizing album sales, so they were slowly phased out. During this period, accusations began to fly of chart manipulation as labels would hold off on releasing a single until airplay was at its absolute peak, thus prompting a top ten or, in some cases, a number-one debut. In many cases, a label would delete a single from its catalog after only one week, thus allowing the song to enter the Hot 100, make a high debut and then slowly decline in position as the one-time production of the retail single sold out.

Đó là trong giai đoạn này, một số bản hit chính nổi tiếng không bao giờ được xếp hạng trên Hot 100, hoặc được xếp hạng tốt sau khi phát sóng của họ đã giảm. Trong khoảng thời gian họ không được phát hành dưới dạng đĩa đơn, các bài hát không đủ điều kiện để lập biểu đồ. Nhiều bài hát trong số này đã thống trị bảng xếp hạng HOT 100 AirPlay trong thời gian dài:

  • 1995 The Rembrandts: "Tôi sẽ ở đó vì bạn" (số một trong tám tuần)
  • 1996 Không còn nghi ngờ gì nữa: "Đừng nói" (số một trong 16 tuần)
  • 1997 Sugar Ray có Super Cat: "Fly" (số một trong sáu tuần)
  • 1997 Will Smith: "Đàn ông mặc đồ đen" (số một trong bốn tuần)
  • 1997 The Cardigans: "Lovefool" (số hai trong tám tuần)
  • 1998 Natalie Imbruglia: "Torn" (số một trong 11 tuần)
  • 1998 Goo Goo Doll: "Iris" (số một trong 18 tuần)

Khi các cuộc tranh luận và xung đột xảy ra ngày càng thường xuyên hơn, Billboard cuối cùng đã trả lời các yêu cầu của các nghệ sĩ và người trong ngành âm nhạc bằng cách bao gồm các đĩa đơn chỉ phát sóng (hoặc "cắt album") trong Hot 100. [Cites cần thiết]citation needed]

EPS

Các bản phát hành chơi mở rộng (EP) đã được Billboard liệt kê trên Hot 100 và trong bảng xếp hạng 100 lần nóng (Top 100) cho đến giữa những năm 1960. Với sự phổ biến ngày càng tăng của các album, người ta đã quyết định chuyển EPS (thường chứa bốn đến sáu bản nhạc) từ Hot 100 đến Billboard 200, nơi chúng được đưa vào ngày nay.

Tải xuống kỹ thuật số, phát trực tuyến và các gói

Kể từ ngày 12 tháng 2 năm 2005, Billboard Hot 100 bài hát đã thanh toán các bản tải xuống kỹ thuật số từ các dịch vụ internet như iTunes, MusicMatch và Rhapsody. Billboard ban đầu bắt đầu theo dõi các bản tải xuống vào năm 2003 với biểu đồ theo dõi kỹ thuật số nóng. Tuy nhiên, những bản tải xuống này không được tính vào Hot 100 và biểu đồ đó (trái ngược với các bài hát kỹ thuật số nóng) đã đếm từng phiên bản của một bài hát riêng biệt (biểu đồ vẫn tồn tại ngày nay cùng với các bài hát kỹ thuật số nóng). Đây là cuộc đại tu lớn đầu tiên của công thức biểu đồ Hot 100 kể từ tháng 12 năm 1998.

Sự thay đổi trong phương pháp đã làm rung chuyển biểu đồ một cách đáng kể, với một số bài hát ra mắt trên bảng xếp hạng nghiêm ngặt với doanh số trực tuyến mạnh mẽ và những người khác tạo ra những bước nhảy vọt. Trong những năm gần đây, một số bài hát đã có thể đạt được các bước nhảy vị trí 80 đến 90 trong một tuần vì các thành phần kỹ thuật số của chúng đã được cung cấp tại các cửa hàng âm nhạc trực tuyến. Kể từ năm 2006, kỷ lục mọi thời đại cho phong trào lên một tuần lớn nhất đã bị phá vỡ chín lần.

Trong vấn đề ngày 11 tháng 8 năm 2007, Billboard bắt đầu kết hợp dữ liệu hàng tuần từ các phương tiện truyền thông và dịch vụ theo yêu cầu vào Hot 100. Hai công ty lớn đầu tiên cung cấp số liệu thống kê của họ cho Nielsen BDS hàng tuần là AOL Music và Yahoo! Âm nhạc. [13] Vào ngày 24 tháng 3 năm 2012, Billboard đã công chiếu biểu đồ các bài hát theo yêu cầu và dữ liệu của nó được đưa vào phương trình biên dịch Hot 100. [14] Điều này đã được mở rộng sang biểu đồ các bài hát phát trực tuyến rộng hơn vào tháng 1 năm 2013, xếp hạng các luồng radio web từ các dịch vụ như Spotify, cũng như các tiêu đề âm thanh theo yêu cầu. [15] Vào tháng 2 năm 2013, các lượt xem của Hoa Kỳ cho một bài hát trên YouTube đã được thêm vào công thức Hot 100. "Harlem Shake" là bài hát đầu tiên đạt được số một sau khi những thay đổi được thực hiện. [16]

Vào tháng 7 năm 2020, Billboard tuyên bố rằng họ sẽ không còn cho phép bán các gói vật lý/kỹ thuật số được báo cáo là doanh số kỹ thuật số. Điều này đề cập đến các bài hát được mua cùng với hàng hóa, từ một trang web nghệ sĩ hoặc thông qua một nhà cung cấp khác. Tạp chí tuyên bố rằng đây là một chiến thuật thường được sử dụng bởi một số nghệ sĩ nhất định để tăng vị trí biểu đồ của họ. Thay vào đó, các bản phát hành vật lý như vậy hiện chỉ được tính khi chúng được chuyển đến người tiêu dùng, khiến chiến thuật "không hiệu quả". [17]

Phối lại

Một xu hướng ngày càng tăng trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 là phát hành một bài hát như một "bản phối lại" rất khác biệt về cấu trúc và nội dung trữ tình từ phiên bản gốc của nó đến nỗi nó thực chất là một bài hát hoàn toàn mới. Trong những trường hợp bình thường, các điểm phát sóng từ phiên bản album của bài hát, "Radio" Mix và/hoặc Dance Music Remix, v.v. đều được kết hợp và đưa vào màn trình diễn của bài hát trên Hot 100, vì cấu trúc, lời bài hát và giai điệu vẫn còn nguyên vẹn. Những lời chỉ trích bắt đầu khi các bài hát được ghi lại hoàn toàn đến mức chúng không còn giống với bản ghi âm gốc. Ví dụ đầu tiên về kịch bản này là "Tôi là thật" của Jennifer Lopez. Ban đầu bước vào Hot 100 trong phiên bản album của nó, một "bản phối lại" đã được phát hành giữa biểu đồ của nó có sự góp mặt của rapper Ja Rule. Phiên bản mới này được chứng minh là phổ biến hơn nhiều so với phiên bản album và bản nhạc được đưa lên số một.

Để giải quyết vấn đề này, Billboard hiện đã tách các điểm phát sóng với phiên bản gốc của bài hát và bản phối lại của nó, nếu bản phối được xác định là "bài hát mới". Kể từ khi quản lý quy tắc biểu đồ mới này, một số bài hát đã xếp hạng hai lần, thường được ghi có là "Phần 1" và "Phần 2". Quy tắc phối lại vẫn còn đúng.

Định kỳ

Billboard, trong nỗ lực cho phép biểu đồ duy trì hiện tại nhất có thể và đưa ra đại diện thích hợp cho các nghệ sĩ và bài hát mới và đang phát triển, đã (kể từ năm 1991) đã loại bỏ các tiêu đề đã đạt được một số tiêu chí nhất định về thứ hạng và số tuần hiện tại của nó trên đồ thị. Các tiêu chí tái phát đã được sửa đổi nhiều lần và hiện tại (tính đến năm 2015), một bài hát được chuyển vĩnh viễn sang "Trạng thái tái phát" nếu nó đã dành 20 tuần cho Hot 100 và giảm xuống dưới vị trí số 50. Ngoài ra, các bài hát giảm dần được xóa khỏi Biểu đồ nếu xếp hạng dưới số 25 sau 52 tuần. [18] Các trường hợp ngoại lệ được thực hiện để phát hành lại và sự hồi sinh đột ngột trong sự phổ biến của các bài hát đã mất một thời gian rất dài để đạt được thành công chính thống. Những trường hợp hiếm hoi này được xử lý trên cơ sở từng trường hợp và cuối cùng được xác định bởi các nhà quản lý và nhân viên biểu đồ của Billboard. Các bài hát Giáng sinh là sự hiện diện thường xuyên trên Hot 100 mỗi tháng 12 kể từ khi thư giãn các quy tắc tái diễn, lên đến đỉnh điểm trong bản thu âm năm 1994 của Mariah Carey "All I Want for Christmas là bạn" đạt số 1 trên bảng xếp hạng vào tháng 12 năm 2019. [19]'s chart managers and staff. Christmas songs have been a regular presence on the Hot 100 each December since the relaxation of recurrent rules, culminating in Mariah Carey's 1994 recording "All I Want for Christmas is You" reaching #1 on the chart in December 2019.[19]

Điều chỉnh tuần theo dõi

Billboard đã thay đổi tuần theo dõi để bán hàng, phát trực tuyến và phát thanh phát thanh để phù hợp với ngày phát hành toàn cầu mới, hiện rơi vào thứ Sáu ở tất cả các lãnh thổ thị trường lớn (sản phẩm Hoa Kỳ trước đây được phát hành vào thứ ba trước tháng 6 năm 2015). Lịch theo dõi sửa đổi này có hiệu lực trong vấn đề ngày 25 tháng 7 năm 2015. [3]

Biểu đồ cuối năm

"Năm biểu đồ" của Billboard diễn ra từ tuần đầu tiên của tháng 12 đến tuần cuối cùng vào tháng 11. Lịch thay đổi này cho phép Billboard tính toán các biểu đồ cuối năm và phát hành chúng kịp thời cho vấn đề in cuối cùng vào tuần cuối tháng 12.'s "chart year" runs from the first week of December to the final week in November. This altered calendar allows for Billboard to calculate year-end charts and release them in time for its final print issue in the last week of December.

Trước Nielsen Soundcan, các biểu đồ đơn cuối năm được tính bằng một hệ thống điểm nghịch chỉ dựa trên màn trình diễn của bài hát trên Hot 100 (ví dụ, một bài hát sẽ được đưa ra một điểm trong một tuần ở vị trí 100, hai điểm cho một Tuần dành ở vị trí 99 và vv, lên tới 100 điểm cho mỗi tuần ở vị trí số một). Các yếu tố khác bao gồm tổng số tuần mà một bài hát dành cho bảng xếp hạng và ở vị trí cao nhất của nó được tính vào tổng số cuối năm của nó.

Sau khi Billboard bắt đầu có được thông tin bán hàng và phát sóng từ Nielsen Soundcan, các bảng xếp hạng cuối năm hiện được tính bằng tổng số tích lũy rất đơn giản của các điểm bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng. Điều này cung cấp một bức tranh chính xác hơn về bất kỳ bài hát phổ biến nhất trong năm nhất định, vì các điểm được tích lũy bởi một bài hát trong tuần của nó ở vị trí số một vào tháng 3 có thể ít hơn những bài hát được tích lũy bởi một bài hát khác đạt vị trí thứ ba vào tháng 1. Các bài hát ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của họ tại thời điểm cắt giảm bảng xếp hạng tháng 11/tháng 12 nhiều lần cuối cùng được xếp hạng trên bảng xếp hạng năm sau, vì các điểm tích lũy của chúng được phân chia giữa hai năm biểu đồ, nhưng thường được xếp hạng thấp hơn hơn họ đã có đỉnh xảy ra trong một năm.

Sử dụng trong phương tiện truyền thông

Hot 100 phục vụ trong nhiều năm khi nguồn dữ liệu cho Đài tin vô tuyến hàng tuần cho thấy Top 40 của Mỹ. Mối quan hệ này đã kết thúc vào ngày 30 tháng 11 năm 1991, khi Top 40 của Mỹ bắt đầu sử dụng phía chỉ phát sóng của Hot 100 (sau đó được gọi là Top 40 Đài phát thanh). Sự kết hợp liên tục của top 40 radio vào đầu những năm 1990 đã dẫn các đài dựa vào các định dạng cụ thể, có nghĩa là thực tế không có đài nào sẽ chơi nhiều thể loại thường sáng tác mỗi biểu đồ 100 nóng hàng tuần.Top 40 Radio Monitor). The ongoing splintering of Top 40 radio in the early 1990s led stations to lean into specific formats, meaning that practically no station would play the wide array of genres that typically composed each weekly Hot 100 chart.

Khả năng của một nghệ sĩ hoặc ban nhạc để có được các bản hit trong Hot 100 trong nhiều thập kỷ được công nhận là dấu hiệu của tuổi thọ và có thể thích nghi với việc thay đổi phong cách âm nhạc. Chỉ có năm nghệ sĩ đã có một bản hit Top 40 nóng bỏng trong bốn thập kỷ từ những năm 1980 đến những năm 2010: Michael Jackson, Madonna, "Weird Al" Yankovic, U2 và Kenny G. [20] Mariah Carey là nghệ sĩ đầu tiên có một đĩa đơn số một trong bốn thập kỷ khác nhau. [21]

Biểu đồ tương tự

Một bảng xếp hạng mới, The Pop 100, được Billboard tạo ra vào tháng 2 năm 2005 để trả lời những lời chỉ trích rằng Hot 100 tại thời điểm đó đã bị chi phối bởi Hip Hop và R & B. Nó đã bị ngừng vào tháng 6 năm 2009 do các bảng xếp hạng ngày càng giống nhau.

Canada Hot 100 đã được ra mắt vào ngày 16 tháng 6 năm 2007. Giống như bảng xếp hạng Hot 100, nó sử dụng theo dõi bán hàng và phát sóng được biên soạn bởi Nielsen Soundcan và BDS. [22]

Billboard Japan Hot 100 đã được ra mắt trong số phát hành ngày 31 tháng 5 năm 2008, sử dụng các phương pháp tương tự như bảng xếp hạng Hot 100 cho Hoa Kỳ và Canada, sử dụng dữ liệu bán hàng và phát sóng từ Soundcan Nhật Bản và dịch vụ theo dõi đài phát thanh Plantech. [23]

Phiên bản Việt Nam của Hot 100, Billboard Việt Nam Hot 100, đã được ra mắt vào ngày 14 tháng 1 năm 2022. [24]

Xem thêm

  • Top 40 của Mỹ
  • Người bán hàng giỏi nhất
  • Biểu đồ Billboard
  • Billboard Global 200
  • Giải thưởng âm nhạc Billboard
  • Chart-topper
  • Danh sách các nghệ sĩ đạt vị trí số một ở Hoa Kỳ
  • Danh sách các nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất
  • Danh sách các thành tích và cột mốc biểu đồ Hot 100 của Billboard
  • Danh sách Billboard Hot 100 số một của những năm 2020
  • Danh sách Billboard Hot 100 Mười đơn hàng đầu
  • Danh sách những người độc thân một số Billboard-One
  • Chứng nhận duy nhất
  • Đá lăn Top 100

Ghi chú

  1. ^"Billboard hoàn thiện các thay đổi về cách các luồng được tính trọng số cho Billboard Hot 100 & Billboard 200". Bảng quảng cáo. Ngày 1 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2021 .________ 0: CS1 Duy trì: URL-status (liên kết) "Billboard Finalizes Changes to How Streams Are Weighted for Billboard Hot 100 & Billboard 200". Billboard. May 1, 2018. Retrieved August 4, 2021.{{cite magazine}}: CS1 maint: url-status (link)
  2. ^ abtrust, Gary (ngày 12 tháng 7 năm 2021). "BTS '' Butter 'dẫn đến HOT 100 trong tuần thứ bảy,' Montero 'của Lil Nas X trở lại top năm". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021.a b Trust, Gary (July 12, 2021). "BTS' 'Butter' Leads Hot 100 for Seventh Week, Lil Nas X's 'Montero' Returns to Top Five". Billboard. Retrieved July 12, 2021.
  3. ^ ab "Billboard để thay đổi tuần theo dõi biểu đồ cho ngày phát hành toàn cầu". Bảng quảng cáo. Ngày 24 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.a b "Billboard to Alter Chart Tracking Week for Global Release Date". Billboard. June 24, 2015. Retrieved June 24, 2015.
  4. ^"Ricky Nelson quy tắc đầu tiên nóng 100 với 'kẻ ngốc nhỏ tội nghiệp'". Ngày 4 tháng 8 năm 2019. "Ricky Nelson Rules First-Ever Hot 100 with 'Poor Little Fool'". August 4, 2019.
  5. ^Tin tưởng, Gary (ngày 31 tháng 10 năm 2022). "Taylor Swift làm nên lịch sử với tư cách là nghệ sĩ đầu tiên với toàn bộ top 10 trên Billboard Hot 100, được dẫn dắt bởi 'Anti-Hero' ở vị trí số 1". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2022. Trust, Gary (October 31, 2022). "Taylor Swift Makes History as First Artist With Entire Top 10 on Billboard Hot 100, Led by 'Anti-Hero' at No. 1". Billboard. Retrieved November 1, 2022.
  6. ^ ab "Biểu đồ trong quá trình tiến hóa: Một biên niên sử". Bảng quảng cáo. Ngày 21 tháng 5 năm 1977. P. & NBSP; RS-110.a b "The Chart in Evolution: A Chronicle". Billboard. May 21, 1977. p. RS-110.
  7. ^"Billboard Honor Roll of Hits đại diện cho đỉnh điểm của cuộc sống của đĩa trên bảng xếp hạng" (PDF). Bảng quảng cáo. Ngày 24 tháng 4 năm 1954. P. & NBSP; 34. "Billboard Honor Roll of Hits Represents Culmination of Disk's Life on the Charts" (PDF). Billboard. April 24, 1954. p. 34.
  8. ^ Abmolanphy, Chris (ngày 1 tháng 8 năm 2013). "Làm thế nào Hot 100 trở thành phong vũ biểu nổi tiếng của Mỹ". Tất cả mọi thứ đã được cân nhắc. NPR. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018.a b Molanphy, Chris (August 1, 2013). "How The Hot 100 Became America's Hit Barometer". All Things Considered. NPR. Retrieved March 14, 2018.
  9. ^"Biểu đồ đánh bại trò chuyện 12/2/2005". Bảng quảng cáo. Ngày 2 tháng 12 năm 2005. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2020. Biểu đồ chính là những người bán chạy nhất trong các cửa hàng và đó là danh sách Billboard sử dụng làm biểu đồ 100 trước. "CHART BEAT CHAT 12/2/2005". Billboard. December 2, 2005. Archived from the original on September 28, 2015. Retrieved July 15, 2020. The main chart was Best Sellers in Stores, and that's the list Billboard uses as THE pre-Hot 100 chart.
  10. ^Tin tưởng, Gary (ngày 4 tháng 8 năm 2021). "Seymour Stein trên bảng quảng cáo của mình bắt đầu và Hot 100 được sinh ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1958". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022. Tom [Noonan] có thể đã đưa ra cái tên. Tôi chắc chắn đã không. Nó có thể là một trong những phóng viên, hoặc Paul Ackerman. Tôi chỉ không nhớ. Trust, Gary (August 4, 2021). "Seymour Stein on His Billboard Beginning & How the Hot 100 Was Born on Aug. 4, 1958". Billboard. Retrieved October 1, 2022. Tom [Noonan] could have come up with the name. I certainly did not. It might have been one of the reporters, or Paul Ackerman. I just don't remember.
  11. ^"Biểu đồ Billboard & Tạp chí có ngày ngay bây giờ để sắp xếp gần hơn để phát hành tuần". Bảng quảng cáo. Ngày 19 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2018. "Billboard Chart & Magazine Dates Now to Align Closer to Release Week". Billboard. December 19, 2017. Retrieved January 1, 2018.
  12. ^"Làm thế nào Hot 100 trở thành phong vũ biểu hit của Mỹ". NPR. Ngày 1 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2017. "How The Hot 100 Became America's Hit Barometer". NPR. August 1, 2013. Retrieved August 2, 2017.
  13. ^Mayfield, Geoff (ngày 4 tháng 8 năm 2007). "Billboard Hot 100 để bao gồm các luồng kỹ thuật số". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2007. Mayfield, Geoff (August 4, 2007). "Billboard Hot 100 To Include Digital Streams". Billboard. Retrieved July 30, 2007.
  14. ^Tin tưởng, Gary (ngày 14 tháng 3 năm 2012). "Hot 100 bị ảnh hưởng bởi biểu đồ các bài hát theo yêu cầu mới". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2012. Trust, Gary (March 14, 2012). "Hot 100 Impacted by New On-Demand Songs Chart". Billboard. Retrieved March 14, 2012.
  15. ^Pietroluongo, Silvio (ngày 17 tháng 1 năm 2013). "Biểu đồ bài hát mới/điện tử mới ra mắt với Will.i.am & Britney ở vị trí số 1". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2012. Pietroluongo, Silvio (January 17, 2013). "New Dance/Electronic Songs Chart Launches With Will.i.am & Britney at No. 1". Billboard. Retrieved February 19, 2012.
  16. ^Sisario, Ben (ngày 20 tháng 2 năm 2013). "Số 1 của Billboard là gì? Bây giờ YouTube có tiếng nói". Thời báo New York. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013. Sisario, Ben (February 20, 2013). "What's Billboard's No. 1? Now YouTube Has a Say". The New York Times. Retrieved February 20, 2013.
  17. ^Eggertsen, Chris (ngày 13 tháng 7 năm 2020). "Billboard thông báo các quy tắc biểu đồ mới: Không còn gói Merch & Ticket". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2020. Eggertsen, Chris (July 13, 2020). "Billboard Announces New Chart Rules: No More Merch & Ticket Bundles". Billboard. Retrieved July 16, 2020.
  18. ^Tin tưởng, Gary (ngày 23 tháng 11 năm 2015). "Adele đứng đầu 100 Hot 100 trong tuần thứ tư; Justin Bieber, Alessia Cara lọt vào top 10". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015. Trust, Gary (November 23, 2015). "Adele Tops Hot 100 for Fourth Week; Justin Bieber, Alessia Cara Hit Top 10". Billboard. Retrieved November 23, 2015.
  19. ^"Mong muốn trở thành sự thật: 'All I Want For Christmas của Mariah Carey là bạn' đạt số 1 trên Hot 100 sau 25 năm chờ đợi". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2019. "Wish Come True: Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Hits No. 1 on Hot 100 After 25-Year Wait". Billboard. Retrieved December 17, 2019.
  20. ^Tin tưởng, Gary (ngày 4 tháng 11 năm 2019). "Nhờ Kanye, Kenny G chỉ là hành động thứ năm với 100 lượt truy cập nóng bỏng 100 trong bốn thập kỷ qua". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2019. Trust, Gary (November 4, 2019). "Thanks to Kanye, Kenny G Is Just the Fifth Act With Hot 100 Top 40 Hits in Each of the Last Four Decades". Billboard. Retrieved November 6, 2019.
  21. ^Tin tưởng, Gary (ngày 30 tháng 12 năm 2019). "Mariah Carey trở thành nghệ sĩ đầu tiên ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100 trong bốn thập kỷ, nhờ 'Tất cả những gì tôi muốn cho Giáng sinh'". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019. Trust, Gary (December 30, 2019). "Mariah Carey Becomes First Artist at No. 1 on Billboard Hot 100 in Four Decades, Thanks to 'All I Want for Christmas'". Billboard. Retrieved December 30, 2019.
  22. ^"Billboard ra mắt bảng xếp hạng Hot 100 của Canada". Bảng quảng cáo. Ngày 7 tháng 6 năm 2007 Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010. "Billboard Launches Canadian Hot 100 Chart". Billboard. June 7, 2007. Retrieved June 4, 2010.
  23. ^Tin tưởng, Gary (ngày 21 tháng 5 năm 2008). "Billboard Japan Hot 100 tìm thấy khán giả toàn cầu". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010. Trust, Gary (May 21, 2008). "Billboard Japan Hot 100 Finds Global Audience". Billboard. Retrieved June 4, 2010.
  24. ^"Billboard Việt Nam Hot 100". Bảng quảng cáo. Ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022. "Billboard Vietnam Hot 100". Billboard. January 20, 2022. Retrieved January 19, 2022.

Người giới thiệu

  • Bronson, Fred. Sách Billboard của số 1 lượt truy cập, Phiên bản thứ 5 (ISBN & NBSP; 0-8230-7677-6)
  • Feldman, Christopher G. Sách Billboard của số 2 đĩa đơn (ISBN & NBSP; 0-8230-7695-4)
  • Whitburn, Joel. Đĩa đơn hàng đầu 1955 Từ2008, 12 phiên bản (ISBN & NBSP; 0-89820-180-2)
  • Whitburn, Joel. Các bảng xếp hạng pop Billboard, 1955 Từ1959 (ISBN & NBSP; 0-89820-092-X)
  • Whitburn, Joel. Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: Những năm sáu mươi (ISBN & NBSP; 0-89820-074-1)
  • Whitburn, Joel. Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Seventies (ISBN & NBSP; 0-89820-076-8)
  • Whitburn, Joel. Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Eighties (ISBN & NBSP; 0-89820-079-2)
  • Whitburn, Joel. Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Nineties (ISBN & NBSP; 0-89820-137-3)

liện kết ngoại

  • Trang web chính thức

HITS TOP TOP TOP.

Nâng tôi lên - Từ Black Panther: Wakanda mãi mãi - Âm nhạc từ và lấy cảm hứng từ Byrihanna ..Easy on Me

50 bài hát hàng đầu ở Mỹ là gì?

Top 50 - Hoa Kỳ..
Anti-Herotaylor Swift ..
Unholy (Feat. Kim Petras) Sam Smith, Kim Petras ..
Như nó kiểu đồ trang trí ..
Bình tĩnh (với Selena Gomez) Rema, Selena Gomez ..
Cuff itbeyoncé.
Tôi tốt (màu xanh) David Guetta, Bebe Rexha ..
Unholy (Feat. Kim Petras) Sam Smith, Kim Petras ..
Như nó kiểu đồ trang trí ..

Bình tĩnh (với Selena Gomez) Rema, Selena Gomez ..

Cuff itbeyoncé.

10 bài hát hàng đầu hiện nay là gì?

HITS TOP TOP TOP..
Nâng tôi lên - Từ Black Panther: Wakanda mãi mãi - Âm nhạc từ và lấy cảm hứng từ Byrihanna ..
Anti-Herotaylor Swift ..
Unholy (Feat. Kim Petras) Sam Smith, Kim Petras ..
Như nó kiểu đồ trang trí ..
ShirtSZA..
Bình tĩnh (với Selena Gomez) Rema, Selena Gomez ..
Cuff itbeyoncé.
Tôi tốt (màu xanh) David Guetta, Bebe Rexha ..