Biên độ tỷ giá giao ngay là gì

(KTSG) – Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 17-10-2022 đã quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay đô la Mỹ/tiền đồng từ mức ±3% lên ±5%, có hiệu lực ngay cùng ngày. Bối cảnh của động thái này, cũng như NHNN cho biết, là xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất của Fed (Ngân hàng trung ương Mỹ) và các ngân hàng trung ương trên thế giới.

  • Ngân hàng Nhà nước tăng biên độ tỷ giá từ 3% lên 5%
  • Một tuần đầy biến động: đô la tăng giá kỷ lục, dầu và vàng rớt mạnh

Đồng thời, cũng cần nhận thức được thêm một bối cảnh nữa đằng sau động thái này của NHNN là sự liên tục chạm trần tỷ giá của tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng tại các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây, cho thấy hoặc biên độ tỷ giá, hoặc bản thân tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hàng ngày, đã không còn phù hợp với biến động tỷ giá hiện nay.

Sự không còn phù hợp này cũng sẽ hoặc là dẫn đến sự bùng phát của thị trường ngoại tệ “chợ đen” khi ngân hàng thương mại không thể nâng cao giá mua/bán đô la Mỹ quá mức mà thị trường đòi hỏi, hoặc sẽ dẫn đến việc “lách luật” của ngân hàng thương mại, tiến hành mua/bán với giá cao hơn giá trần, làm cho việc quy định biên độ tỷ giá trở nên vô nghĩa.

Tỷ giá trung tâm của NHNN tuy được xây dựng dựa trên sự tham chiếu tỷ giá của một rổ tiền, nhưng nó vẫn không hoàn toàn khách quan bởi vẫn chứa đựng các yếu tố chủ quan gồm “các cân đối kinh tế vĩ mô và tiền tệ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ (của NHNN)”.

Để cải thiện tính khách quan, tính thị trường cho tỷ giá ngân hàng, NHNN áp dụng biên độ tỷ giá. Do được biến động trong một phạm vi nhất định giữa giá sàn và trần (dựa trên tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá) nên tỷ giá ngân hàng gần với tỷ giá thị trường, tỷ giá “chợ đen” hơn so với tỷ giá trung tâm. Biên độ tỷ giá càng lớn thì mức chênh lệch của tỷ giá ngân hàng với tỷ giá thị trường/chợ đen càng nhỏ, đặc biệt những lúc căng thẳng tỷ giá.

Trong bối cảnh tỷ giá có xu hướng gia tăng do Fed tăng lãi suất và việc can thiệp bán đô la Mỹ cũng như nâng lãi suất tiền đồng của NHNN không có nhiều tác dụng trong việc chặn đà tăng này, NHNN chắc chắn đã phải đi đến quyết định “lỏng cương” với tỷ giá.

Nhưng do bị ràng buộc bởi yêu cầu “ổn định vĩ mô”, NHNN cũng không thể điều chỉnh quá mạnh tỷ giá trung tâm dù cần thiết, bởi có thể bị thị trường nhìn nhận như một hành động “phá giá” tiền đồng – một từ “húy” và nhạy cảm đối với nhiều người.

Do vậy, cách tốt nhất để tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng vượt ra ngoài khuôn khổ trói buộc của cơ chế tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá trước đó, là điều chỉnh biên độ tỷ giá, chứ không phải tỷ giá trung tâm.

Tỷ giá tại ngân hàng thương mại có tăng mạnh thêm, ví dụ, 1% chủ yếu bởi nới biên độ sẽ là dễ giải thích (do cung cầu thị trường), dễ được chấp nhận và cũng dễ được thực hiện hơn là tăng tỷ giá trung tâm thêm 1% trong khi lại giữ nguyên biên độ tỷ giá.

Nâng biên độ tỷ giá chắc chắn sẽ mở đường cho tỷ giá ngân hàng tiếp tục tăng hơn đáng kể so với hiện nay trong các tháng tới mà không cần phải phụ thuộc quá nhiều vào tỷ giá trung tâm.

Nhờ đó, NHNN một mặt không còn phải bận tâm chạy theo thị trường hàng ngày và “đau đầu” với việc đặt tỷ giá trung tâm bao nhiêu là phù hợp để vừa không trói tay quá mức ngân hàng thương mại hoặc dẫn đến các hành vi lách luật, vừa vẫn không làm thị trường bị sốc hoặc hoảng loạn nếu tăng quá mạnh, chẳng hạn 1% thay vì chỉ vài (chục) đồng/ngày như vẫn diễn ra cho đến nay.

Mặt khác, NHNN không còn phải tự làm khó mình thêm nữa với nghĩa vụ phải bán ra đô la Mỹ để can thiệp khi tỷ giá ngân hàng căng thẳng, chạm trần tỷ giá, đơn giản bởi tỷ giá bán can thiệp của NHNN có thể đặt cao hơn trong biên độ tỷ giá cao hơn so với trước đây mà không gây ra mấy thắc mắc, “tâm tư” gì cho hệ thống ngân hàng. Tỷ giá bán của NHNN càng cao thì nhu cầu/cơ hội mua đô la Mỹ của ngân hàng thương mại từ NHNN đương nhiên càng giảm đi, giúp ngăn cản sự cạn kiệt thêm nhanh chóng dự trữ ngoại hối quốc gia vốn đã giảm rất mạnh trong mấy tháng gần đây.

Nhìn chung, việc nâng mạnh biên độ tỷ giá như hôm 17-10 cũng tương đương với một bước đi đáng kể tiến đến gần hơn với chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát tương tự như ở nhiều nước khác, thay vì chính sách tỷ giá neo gắn tiền đồng với đô la Mỹ (chính sách tỷ giá ổn định) mà Việt Nam nỗ lực theo đuổi suốt bao năm qua cho đến nay dù thường xuyên dẫn đến các đợt căng thẳng về tỷ giá và vẫn không tránh được xu hướng phải “phá giá” tiền đồng đáng kể qua từng năm.

Biên độ tỷ giá giao ngay là gì
Ảnh minh họa. (Ảnh: Vietnam+)

Các chuyên gia đánh giá việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá lên ±5% sẽ tạo sự linh hoạt cho thị trường. Bởi vậy, việc nới rộng biên độ tỷ giá là động thái phù hợp, giúp tỷ giá linh hoạt hơn, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đối phó tốt hơn với rủi ro và bất ổn của thị trường quốc tế.

Hạn chế bán ngoại tệ ra thị trường

Tháng 8/2015, biên độ tỷ giá được điều chỉnh từ ±2% lên ±3%, sau 7 năm biên độ tỷ giá được điều chỉnh từ ±3% lên ±5%. Động thái này được cho là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Điều chỉnh Ngân hàng Nhà nước diễn ra sau khi tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại liên tục chạm trần nhiều phiên gần đây. Chẳng hạn, phiên 18/10, tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước công bố ở mức 23.637 đồng/USD, tăng 51 đồng so với phiên trước. Vì vậy tại phiên hôm nay đa số các ngân hàng thương mại niêm yết giá bán USD ở mức trần 24.440-24.485 đồng/USD.

[Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh biên độ tỷ giá lên ±5% từ ngày 17/10]

Tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, cho biết giá USD đã tăng giá rất mạnh thời gian qua do Fed liên tục tăng lãi suất với cường độ cao. Việc Việt Nam phải điều chỉnh giá trị đồng tiền là khó tránh. Bên cạnh giải pháp tăng lãi suất điều hành như Ngân hàng Nhà nước đã làm, việc phối hợp các chính sách khác, trong đó có chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoán để hạn chế bán ngoại tệ ra thị trường nhằm cân bằng cung cầu là cần thiết.

Một nguyên nhân nữa được ông Nghĩa đề cập là do sức ép từ cán cân vãng lai. Mặc dù cán cân thương mại nước ta vẫn thặng dư tương đối, nhưng cán cân dịch vụ thâm hụt lớn trong khi cán cân tài chính cũng đang trong trạng thái yếu (vốn đầu tư gián tiếp giảm).

Với các sức ép về tỷ giá lớn như vậy, Ngân hàng Nhà nước buộc phải áp dụng điều chỉnh tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá hối đoái. 

“Tuy vậy, trong tất cả các giải pháp, tôi cho rằng biện pháp quan trọng nhất vẫn là kiểm soát cung tiền. Nếu tăng cung tiền, lãi suất sẽ giảm nhưng tỷ giá sẽ tăng mạnh hơn. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng tất cả các giải pháp. Còn duy nhất công cụ chưa áp dụng là tăng dự trữ bắt buộc do lo ngại ảnh hưởng đến vốn khả dụng cho vay của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, do Ngân hàng Nhà nước không nới room tín dụng nên cũng không cần tăng dự trữ bắt buộc vì sẽ hạn chế nguồn cho vay của các ngân hàng,” ông Nghĩa phân tích.

Ông Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương cũng cho rằng việc điều chỉnh biên độ này là việc làm cần thiết lúc này để đảm bảo điểm cân bằng mới, giảm áp lực cung cầu về quan hệ ngoại hối trên thị trường, đặc biệt tạo dư địa cho chính sách tiền tệ có thể điều hành một cách linh hoạt hơn.

"Điểm này tác động rất nhiều chiều cạnh từ lạm phát, lãi suất, xuất nhập khẩu, thanh toán nợ, nhất là nợ nước ngoài. Tuy nhiên, điểm cân bằng mới này đã nằm trong tính toán để vừa đảm bảo tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, vừa không gây tác động tiêu cực lớn lên lạm phát và nhập khẩu," ông Thành đánh giá.

Biên độ tỷ giá giao ngay là gì
Tỷ giá USD tại Vietcombank từ ngày 10-18/10. Đơn vị: Đồng

Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cũng đánh giá việc tăng biên độ tỷ giá là hành động kịp thời phù hợp với tình hình quốc tế và nền tảng vĩ mô vững chắc của Việt Nam.

Ông Francois Painchaud, đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam nhấn mạnh động thái điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thể hiện sự linh hoạt trong điều hành, với nền tảng kinh tế vững chắc của Việt Nam và lạm phát tương đối thấp thì việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái là cần thiết. Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc sử dụng các biện pháp điều hành nền kinh tế vĩ mô thận trọng. Chính sách tiền tệ trong nước có thể sẽ được thắt chặt hơn nữa.

Theo thống kê, đồng yen mất giá 31%, đồng won mất giá 22%, đồng tiền của các nước ASEAN mất giá từ 12%-18%, VND mới mất giá 7%, ít nhất so với các đồng tiền khác trên thế giới.

Giảm đầu cơ, tích trữ

Làm rõ thêm về động thái mới của Ngân hàng Nhà nước, chuyên gia tài chính, phó giáo sư Định Trọng Thịnh cho rằng hiện nay lạm phát tăng cao, nhiều nước trên thế giới đã lãi suất. Chẳng hạn, từ đầu năm đến nay, Mỹ có 5 lần nâng lãi suất đồng USD với mức nâng 3%. Điều này tác động đến đồng tiền của nhiều nước khác mất giá mạnh.

Trong khi đó, tại Việt Nam, sức ép lên tỷ giá của USD với VND rất đáng kể. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước thực hiện đường lối giữ ổn định kinh tế vĩ mô, giữ cân đối lớn. Chính vì thế, việc đầu tiên và quan trọng nhất là Ngân hàng Nhà nước quyết định giữ ổn định tỷ giá hối đoái.

Ông Thịnh phân tích thêm khi điều chỉnh biên độ giao ngay, việc đầu tiên là chênh lệch giá USD ở thị trường chính thống và thị trường “chợ đen” sẽ giảm. Như vậy hoạt động đầu cơ USD được giảm đi. Các hoạt động mua bán USD từ ngân hàng để tuồn ra "chợ đen" để giao dịch lại sẽ được hạn chế. 

Cũng theo ông Thịnh, việc điều chỉnh này cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mua bán với tỷ giá mới, không vi phạm luật, làm cho hoạt động của các ngân hàng tốt hơn. Từ đó giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có điều kiện bán USD ngay khi thu được cho các ngân hàng thương mại. Còn đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, việc các ngân hàng thương mại nâng giá bán USD gần mức giá thị trường thì cũng phải tính toán nhập khẩu lượng hàng hóa phù hợp, mua USD đúng lúc để giảm áp lực lạm phát.

“Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh biên độ giao dịch, sẽ có thêm nhiều dư địa để thực hiện các giải pháp tiền tệ khác nữa nhằm ổn định kinh tế vĩ mô,” ông Thịnh nhấn mạnh.

Chuyên gia này cũng cho rằng việc điều chỉnh biên độ tỷ giá còn có tác động làm cho lạm phát có xu hướng giảm thấp.

Dù vậy, theo các chuyên gia, hiện nay áp lực việc USD tăng giá là quá lớn và trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước phải bán ra một lượng lớn đồng USD kèm với đó thực hiện nhiều giải pháp. 

Giáo sư, tiến sỹ Hoàng Văn Cường, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế quốc dân nhận định từ nay đến cuối năm, áp lực về lạm phát không phải lớn, nhưng lớn nhất là áp lực về kiểm soát tỷ giá

Theo ông Cường, Việt Nam phải kiên định giữ tỷ giá nhưng không có nghĩa là cứng nhắc mà phải linh hoạt với thị trường. Bởi Nếu không ổn định được tỷ giá thì có thể dẫn đến nguy cơ dự trữ ngoại tệ chuyển thành dự trữ của cá nhân doanh nghiệp. Khi đó chúng ta sẽ mất khả năng chủ động về nguồn ngoại tệ.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp để ổn định thị trường./.