Bơm xi măng có bóng luận văn tiến sĩ năm 2024

Bài viết Kết quả cải thiện góc gù cột sống vùng bản lề ngực thắt lưng bằng kĩ thuật bơm xi măng sinh học có bóng trên bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đánh giá hiệu quả lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh sau khi bơm xi măng sinh học có bóng trên bệnh nhân xẹp đốt sống vùng bản lề ngực thắt lưng T12-L1...

5 p TaiLieuvn 05/04/2023 1 1

Từ khóa: Nghiên cứu y học, Xẹp đốt sống, Bơm xi măng sinh học có bóng, Góc gù thân đốt sống, Kĩ thuật bơm xi măng sinh học

Xẹp đốt sống, loãng xương, bơm xi măng có bóng

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá kết quả phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 67 bệnh nhân được điều trị gãy sẹp đốt sống do loãng xương bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022. Đánh giá các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh trước và sau phẫu thuật 1 ngày, 1 tháng và 3 tháng. Kết quả: Độ tuổi trung bình: 67,3 ± 10,7 (46-94 tuổi). Tỉ lệ bệnh viên nữ 83,6%, bệnh viện nam 16,4%. VAS trung bình trước mổ 7,75 ± 1,25. Mật độ xương ở cột sống (T-score) -3,8 ± 0,7. Mức độ đau theo điểm VAS, chiều cao thân ĐS, góc xẹp thân đốt sống, góc Cobb trên X-quang đều cải thiện rõ rệt so với trước phẫu thuật (p<0,01). Tai biến xi măng tràn qua bờ trước 4,5%, tràn vào đĩa đệm 6,0%. Điểm MacNab sau 3 tháng: 92,5% bệnh nhân có chất lượng cuộc sống tốt và rất tốt. Kết luận: Bơm xi măng sinh học có bóng là phương pháp điều trị gãy xẹp đốt sống do loãng xương cho kết quả tốt, ít tai biến, hiệu quả trong cải thiện chiều cao thân đốt sống và cải thiện góc gù.

Bơm xi măng, xẹp đốt sống, loãng xương

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu ứng dụng tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Người hường dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Thạch ĐỖ MẠNH HÙNG Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Đăng Ninh Phản biện 2: PGS.TS. Kiều Đình Hùng nghiªn cøu øng dông t¹o h×nh ®èt sèng Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thị Minh Hoa b»ng b¬m cement cã bãng cho bÖnh nh©n xÑp ®èt sèng do lo·ng x­¬ng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường tổ Chuyên ngành: Chấn thương chỉnh hình và tạo hình chức tại Trường Đại học Y Hà Nội Mã số: 62720129 Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2018 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Thông tin Y học Trung Ương - Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội HÀ NỘI – 2018
  2. 1 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Bố cục của luận án Bệnh loãng xương (LX) nói chung và xẹp đốt sống (XTĐS) do Luận án gồm 130 trang: phần đặt vấn đề 2 trang, tổng quan tài LX nói riêng đang được coi là một “bệnh dịch âm thầm” lan rộng liệu 34 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 29 trang, kết quả khắp thế giới, ngày càng có xu hướng gia tăng và trở thành gánh nghiên cứu 28 trang, bàn luận 34 trang, kết luận và kiến nghị 3 trang. nặng cho y tế cộng đồng. Có 27 hình, 15 biểu đồ, 30 bảng và 111 tài liệu tham khảo (18 tiếng Mỗi năm nước Mỹ phải bỏ ra một khoản chi phí khổng lồ Việt, 93 tiếng nước ngoài). (khoảng 17,9 tỷ đôla) để điều trị gãy xương do LX, còn ở Anh là Chương 1. khoảng 1,7 tỷ bảng Anh. TỔNG QUAN Năm 1990, bác sĩ chấn thương chỉnh hình Mark Reiley lần đầu 1.1. Loãng xương và xẹp thân đốt sống do loãng xương tiên đưa ra ý tưởng chỉnh hình đốt sống bị xẹp bằng bơm xi măng có bóng (Kyphoplasty). Cho đến nay, kỹ thuật đã được áp dụng phổ biến 1.1.1. Định nghĩa và phân loại loãng xương, xẹp thân đốt sống ở các nước tiên tiến trên thế giới. Ở Việt Nam, khoa Phẫu thuật cột Định nghĩa Loãng xương theo WHO: “LX là bệnh được đặc sống Bệnh viện Việt Đức là trung tâm đầu tiên áp dụng kỹ thuật tạo trưng bởi sự giảm khối xương, tổn hại đến vi cấu trúc của mô xương hình đốt sống bằng bơm xi măng có bóng để điều trị bệnh nhân dẫn đến ròn xương và nguy cơ gãy xương tăng”. XTĐS do LX với kết quả bước đầu rất tốt. Xuất phát từ thực tiễn số Theo Robbins S.L “XTĐS do LX là trạng thái gãy xương siêu lượng bệnh nhân rất lớn, nhu cầu điều trị cao, hiệu quả của phương nhỏ trong đốt sống (vi chấn thương), do lùn ép các thân đốt sống gây pháp, nhưng có rất ít các báo cáo trong nước, vì vậy tôi nghiên cứu nên bởi tình trạng mất chất xương từ từ, kín đáo”. đề tài này nhằm hai mục tiêu: Năm 1990, Kanis đã mô tả XTĐS thành ba dạng: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân Loại 1: Xẹp hình chêm là dạng hay gặp nhất, giảm chiều cao bờ bị xẹp thân đốt sống do loãng xương. trước từ 20% trở lên so với chiều cao bờ sau của thân đốt sống. 2. Đánh giá kết quả điều trị bằng bơm xi măng có bóng cho Loại 2: Xẹp hình lõm hai mặt trên và dưới, có giảm chiều cao bệnh nhân xẹp thân đốt sống do loãng xương và nhận xét phần giữa thân đốt sống từ 20% trở lên so với bờ trước và sau một số yếu tố liên quan đến kết quả. Loại 3: Lún xẹp khi chiều cao toàn bộ thân đốt sống giảm từ Những đóng góp mới của luận án: 20% trở lên so với đốt sống kề cận. - Đưa ra được một nghiên cứu đầy đủ về các tiêu chí chẩn đoán, tiêu chuẩn chỉ định can thiệp, quy trình chẩn bị bệnh nhân, quy trình 1.1.2. Hậu quả của xẹp thân đốt sống do loãng xương kỹ thuật bơm xi măng có bóng và theo dõi bệnh nhân sau can thiệp Trước đây, chúng ta thường cho rằng XTĐS là lành tính, tự giới - Các kết quả chỉnh hình đốt xẹp và giảm đau, khôi phục chức hạn là ít khi tổn thương và nếu có thường gây hậu quả lâu dài. Quan năng vận động sau bơm là kinh nghiệm lâm sàng tốt về điều trị niệm này gây hệ quả khoảng 2/3 bệnh nhân XTĐS không bao giờ đến XTĐS do LX. khám bác sĩ. Dựa trên những nghiên cứu gần đây trên quần thể rộng
  3. 3 4 lớn, ngày càng có nhiều bằng chứng cho rằng XTĐS có thể gây nên Chụp X quang thẳng nghiêng: phát hiện đốt sống bị xẹp, đo được những ảnh hưởng chức năng vận động cơ thể, đau lưng cấp và mạn chiều cao tường trước, giữa, sau đốt xẹp và so sánh với đốt lành. Đo tính, XTĐS thứ phát, biến dạng gù cột sống, vẹo cột sống, trượt đốt góc XTĐS, góc gù cột sống, góc Cobb, so sánh phim trước và sau sống. rối loạn chức năng dạ dày, rối loạn chức năng thông khí phổi, bơm cement có bóng để đánh giá hiệu quả của phương pháp. suy giảm các chức năng cơ thể, tăng tỷ lệ và thời gian nằm viện và Chụp MRI: phát hiện đốt xẹp với sự tăng tín hiệu trên T2, STIR, cuối cùng là tăng nguy cơ tử vong. giảm tín hiệu trên T1, đặc trưng của tổn thương mới, đang chảy máu. Chụp CT-scanner: đánh giá độ vững tường sau đốt sống, để đưa 1.2. Triệu chứng lâm sàng của xẹp thân đốt sống do loãng xương ra chỉ định và chống chỉ định. Khoảng 2/3 số bệnh nhân LX bị tổn thương cột sống không có 1.4. Các phương pháp điều trị xẹp đốt sống do loãng xương triệu chứng lâm sàng hoặc không được chẩn đoán cho tới khi có dấu 1.4.1. Điều trị nội khoa hiệu phát hiện trên X quang hoặc bệnh khân đến khám vì các nguyên Điều trị nội khoa cho XTĐS do LX chỉ định trong 3 tháng đầu. nhân khác. Triệu chứng của LX từ rất âm thầm cho đến gãy xương do Với XTĐS đơn thuần, không có mảnh xương chèn ép thần kinh, chấn thương nhẹ. Bệnh nhân thường phàn nàn đau sâu ở giữa cột không có tổn thương thần kinh phối hợp. Bao gồm bất động tại sống, tương ứng với đốt tổn thương. Đau có tính chất cơ năng, tăng giường, sự dụng thuốc giảm đau, giãn cơ và mặc áo nẹp cột sống lên khi đứng, giảm khi nghỉ ngơi. Ấn hoặc vỗ dọc cột sống sẽ phát 1.4.2. Điều trị Y học cổ truyền hiện điểm đau do XTĐS. Cứng khớp, đau xương lan tỏa thường đặc 1.4.3. Phẫu thuật cho bệnh nhân loãng xương trưng cho bệnh nhuyễn xương và không gặp trong LX 1.4.4 Tạo hình thân đốt sống bằng bơm xi măng có bóng 1.3. Triệu chứng cận lâm sàng của xẹp thân đốt sống Quy trình kỹ thuật Đo mật độ xương chẩn đoán loãng xương - Thì 1: Bệnh nhân nằm sấp, với gối độn hai vai và hai mào chậu. - Thì 2: Xác định điểm vào dưới hướng dẫn của C-arm, điềm Đo mật độ xương (MĐX) chẩn đoán LX: Tiêu chuẩn chẩn đoán vào ở vị trí 10h, 2h bờ ngoài cuống sống trên hình chiếu trước sau LX của WHO dựa vào BMD (Bone Mineral Density) - Thì 3: Chọc 2 kim 11G hoặc 13G qua cuống hai bên. MĐX bình thường khi T-score ≥ -1: tức là BMD của cá thể đó - Thì 4: Đặt kim dẫn đường vào thân đốt sống qua cuống sống. lớn hơn hoặc bằng -1 độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của người - Thì 5: Đặt hệ thống ống canule, khoan tạo đường hầm vào thân trưởng thành khỏe mạnh 20-30 tuổi. đốt, hệ thống lèn xương thân đốt. Giảm MĐX khi -1> T-score >-2,5: tức là BMD -2,5 - Thì 6: Đặt hai quả bóng vào thân đốt, bơm với áp lực < 350 độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của ngưởi trưởng thành khỏe PSI, dưới sự kiểm soát liên tục trên C-arm, sao cho thân đốt sống nở mạnh 20-30 tuổi. cao, trả lại hình dáng ban đầu LX khi T-score ≤ -2,5: tức là BMD ≤ -2,5 độ lệch chuẩn với giá - Thì 7: Rút 2 quả bóng ra, để lại khoang trống trong thân đốt. trị trung bình của người trưởng thành khỏe mạnh 20-30 tuổi. - Thì 8: Dùng kim bơm xi măng vào khoang trống trong thân LX nặng khi T-score ≤ -2,5 và kèm gãy xương. đốt, kiểm soát liên tục trên C-arm. Khi cement đã lấp đầy thì rút kim.
  4. 5 6 Các công trình nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam Chương 2  Thế giới: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Năm 2012, Hwan Mo Lee đã nghiên cứu tiến cứu trên 259 bệnh 2.1. Đối tượng nghiên cứu nhân bị XTĐS do LX. Bơm xi măng có bóng đạt hiệu quả tốt hơn Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là XTĐS do LX, được trong 1 tháng đầu tiên. Bơm xi măng có bóng không nên chỉ định cho THTĐS bằng bơm xi măng có bóng tại Khoa Phẫu thuật cột sống, những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ thất bại trong điều trị bảo tồn. bệnh viện HN Việt Đức từ thời điểm tháng 2/2014 đến tháng 2/2015. Năm 2016, Huilin Yang và cộng sự thực hiện nghiên cứu tổng 2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu - Bệnh nhân ở tuổi trưởng thành hợp toàn bộ các báo cáo về THTĐS bằng bơm xi măng có bóng tại - Giới: cả nam và nữ Trung Quốc. Nhóm tác giả kết luận bơm cxi măng có bóng được thực - Đau lưng tương ứng với vị trí đốt sống bị xẹp, không hay ít hiện theo xu hướng nhanh hơn, an toàn và hiệu quả trong điều trị đáp ứng với điều trị nội khoa (sau ít nhất 1 tháng). giảm đau và chỉnh gù cột sống. Bên cạnh đó, thời gian thực tế và trí - Bệnh nhân XTĐS do LX (có hoặc không có yếu tố chấn tuệ nhân tạo sẽ định hướng cho sự phát triển trong tương lai của thương kèm theo), T-score < -2.5 THTĐS bằng bơm cement có bóng. - Trên MRI có hình ảnh phù nề thân đốt sống (thì T2, STIR).  Việt Nam - Bệnh nhân bị chấn thương cột sống mức độ nhẹ, trong vòng 15 ngày đầu, trên CT scanner cột sống vững, không có biểu hiện chèn ép Năm 2012, Võ Văn Nho và cộng sự tại Bệnh viện Thần kinh quốc thần kinh. Chỉ định chặt chẽ với bệnh nhân có tổn thương tường sau tế TP HCM đã tiến hành tạo hình đốt sống bằng bơm xi măng không đốt sống mức độ nhẹ bóng cho 110 bệnh nhân bị LX với kết quả bước đầu rất khả quan. - Có đầy đủ hồ sơ và được theo dõi ≥ 24 tháng Năm 2017, Nguyễn Văn Thạch và cộng sự đã thực hiện bơm xi - Tự nguyện tham gia nghiên cứu. măng có bóng cho 95 bệnh nhân, trên 106 đốt sống. Sau theo dõi 19 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân nghiên cứu tháng có 4 bệnh nhân xuất hiện XTĐS thứ phát. Tác giả chưa tìm ra - XTĐS mức độ nặng, lớn hơn 60% chiều cao thân đốt sống. được yếu tố liên quan giữa bơm xi măng có bóng với tỷ lệ XTĐS thì 2. - Bệnh nhân XTĐS do chấn thương cột sống không kèm theo LX, hay cột sống mất vững, có dấu hiệu chèn ép và tổn thương thần kinh trên Trịnh Văn Cường cộng sự (năm 2017) thực hiện bơm cement CT scanner và MRI, tổn thương dạng duỗi tường sau đốt xẹp qua cuống cho 41 bệnh nhân với kết quả giảm đau rõ rệt. Điểm VAS - XTĐS cũ, trên MRI không có hình ảnh phù nề thân đốt sống. trung bình trước mổ là 8.02, giảm xuống 3.15 sau mổ 48h và còn - XTĐS không do LX: u máu đốt sống, đa u tủy xương, di căn 2.45 sau mổ 3 tháng. đốt sống, lao… - Bệnh nhân đã được phẫu thuật cố định cột sống hoặc bơm xi măng trước đó
  5. 7 8 - Chống chỉ định tuyệt đối: Bệnh nhân bị rối loạn đông máu, bị Chương 3 suy hô hấp nặng, trong bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết, viêm đĩa đệm KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU hay viêm tủy xương tại đốt sống cần bơm cement, có tiền sử dị ứng với các thành phần của xi măng. 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 2.2. Phương pháp nghiên cứu Tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm rất cao (89%), độ tuổi trung bình của Phương pháp nghiên cứu mô tả, thuần tập, theo dõi dọc (đánh các bệnh nhân là 66,5 ± 11,1 tuổi. 2 nhóm tuổi có tỷ lệ bệnh nhân cao giá kết quả trước và sau điều trị). là: tuổi 60-70 chiếm 34.3% và 70-80 chiếm 23.3%. Đặc điểm này Nội dung nghiên cứu cụ thể như sau: phủ hợp bệnh LX gặp chủ yếu ở người cao tuổi và nữ giới. - Khảo sát lâm sàng: mô tả các triệu chứng lâm sàng, đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu. 3.2. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân xẹp thân đốt sống do - Khảo sát cận lâm sàng: Hình ảnh X-quang, cộng hưởng từ, CT loãng xương - scanner, đo MĐX Điểm VAS trung bình trước bơm của bệnh nhân là 8,4 ± 1,1 điểm - Điều trị THTĐS bằng bơm xi măng có bóng, đánh giá kết quả (trong khoảng 6-10 điểm. Đa số bệnh nhân có điểm VAS từ 8-9 (42/73 của phương pháp sau can thiệp. bệnh nhân). 17/73 bệnh nhân có điểm VAS 6-7, có 14 bệnh nhân có 2.3. Phương pháp thu thập, phân tích số liệu điểm VAS 10. Chứng tỏ đau lưng là chiệu chứng chính, nghiêm trọng để - Các chỉ số nghiên cứu được thu thập theo các biểu mẫu thiết bệnh nhân phải nhập viện. kế sẵn tại các thời điểm trước mổ, diễn biến trong và sau mổ, khám định kỳ hàng tháng. Công cụ thu thập số liệu bao gồm: Thời gian diễn biến bệnh trung bình là 16,0 ± 18,4 ngày (2 -90 + Hồ sơ bệnh án theo mẫu thống nhất khi bệnh nhân vào viện ngày). Trường hợp XTĐS đơn thuần thường được điều trị nội khoa ít + Tất cả các BN được lựa chọn đều có mẫu bệnh án riêng với nhất 4 tuần. XTĐS có chấn thương thường bơm trong 15 ngày đầu. đầy đủ các thông số cần thiết đã nêu. Đa số các bệnh nhân gặp phải triệu chứng đa tại chỗ dữ dội (83,6%); - Số liệu sẽ được nhập vào máy tính theo bệnh án mẫu số hoá và rối loạn vận động không ngồi được (65,8%); không đi lại được được xử lý theo chương trình phần mềm thống kê y học SPSS 13.5. (30.1%); phần lớn các bệnh nhân không bị biến dạng cột sống - Các biến liên tục trình bầy dưới dạng trung bình. So sánh kết (76,7%); không bị hạn chế hô hấp (95,9%) và có 3 trường hợp bị rối quả giữa các biến liên tục bằng thuật toán kiểm định test T Student. loạn tiểu tiện. 39.7% bệnh nhân dùng thuốc giảm đau không đỡ, và Các biến thứ tự và rời rạc được trình bày dưới dạng %. So sánh kết 52.1% trường hợp đỡ ít. Thất bại trong điều trị thuốc giảm đau cũng quả của các biến rời rạc bằng thuật toán kiểm định 2. Sự khác biệt là chỉ định để bơm xi măng có bóng có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. 3.3. Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân xẹp thân đốt sống do 2.4. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học loãng xương Các thông tin trong hồ sơ nghiên cứu hoàn toàn bảo mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu. Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, có tổng số 104 đốt bị tổn thương, bao gồm cả tổn thương cũ và mới. Đa số bệnh nhân có 1 đốt
  6. 9 10 sống mới bị tổn thương (87,7%); có 12,3% bệnh nhân có 2 đốt sống 3.3.3. Mối tương quan giữa mật độ xương và tuổi mới bị tổn thương. Như vậy, trong 73 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu có 82 đốt sống mới bị tổn thương và được tiến hành can thiệp bơm xi măng. Việc phát hiện tổn thương đốt sống cũ và mới dựa vào sự khác biệt trên phim MRI và rất hiệu quả. 3.3.1 Phân bố bệnh nhân theo đặc điểm đốt sống bị tổn thương Phân loại XTĐS cho thấy phần lớn là xẹp hình chêm (61,0%); tiếp theo là xẹp lõm 2 mặt (26.8%). Tỷ lệ bệnh nhân xẹp mức độ trung bình 25-40% chiếm cao nhất (48,8%). 100% trường hợp là xẹp cấp tính, để chỉ định bơm xi măng. Chỉ có 8 đốt sống có khí trong r2 = 0,0524, p = 0,05 thân đốt, đây là dấu hiệu tiên lượng gãy xương không liền, cần can Biểu đồ 3.1. Mối tương quan giữa MĐX (T-score) với tuổi (n=73) thiệp bơm cement sớm, tránh tổn thương mạn tính. Tỷ lệ XTĐS đơn Nhận xét: thuần chiếm cao nhất (63,4%), có 12.2% trường hợp tổn thương 1 Liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi và MĐX của các đối tượng phần tường sau đốt sống, vẫn được chỉ định bơm cement và 1 bệnh nghiên cứu. Tuổi càng cao thì MĐX càng thấp. Phù hợp đặc điểm bệnh nhân tổn thương cuống sống bên phải, được bơm cement bên trái. LX gặp ở người cao tuổi và gây nguy cơ gãy xương cao. Tuy nhiên, mối 3.3.2. Mức độ loãng xương của bệnh nhân tương quan này không thực sự chặt chẽ với r2=0,0524. Bảng 3.1. Điểm T-score của đối tượng nghiên cứu 3.4. Kỹ thuật bơm xi măng Điểm T-score 3.4.1. Mối tương quan giữa thể tích bơm xi măng và mật độ xương Mean ± SD -3,9 ± 0,9 Min – Max (-2,5) – (-6,5) Nhận xét: Điểm T-score trung bình của bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu là -3,9 ± 0,9 điểm. Khi T-Score < -2.5, kèm theo XTĐS được chấn đoán là LX nặng. LX nặng là yếu tố gây nguy cơ XTĐS cao hơn và xẹp ở mức độ nặng hơn. r2 = 0,0004, p = 0,86 Biểu đồ 3.2. Mối tương quan giữa mật độ xương với thể tích xi măng (n=73)
  7. 11 12 Nhận xét: Nhận xét: Trong nghiên cứu này, bệnh nhân có MĐX càng thấp thì lượng Trong nhóm nghiên cứu, chỉ có 3 trường hợp có XTĐS thì 2, tại xi măng bơm vào càng cao. Tuy nhiên tương quan không được chặt các thời điểm sau bơm 29 tháng, 31 tháng và 41 tháng. Qua 73 bệnh chẽ r2 = 0,0004 nhân được bơm cement, số trường hợp xuất hiện XTĐS thì 2 rất ít và 3.4.2. Tai biến trong bơm xi măng đều sau 24 tháng. Sự xuất hiện biến chứng xa này gần với tiến trình Tai biến phổ biến nhất trong bơm cement là tràn qua bờ trước tự nhiên của bệnh LX, hơn là do nguyên nhân bơm cement có bóng thân đốt sống 8.5% đốt được bơm, 3.7% trường hợp tràn xi măng lên đĩa đệm. Những trường hợp rò xi măng này không để lại bất cứ di (thường xuất hiện trong 3 tháng đầu). chứng lâm sàng nào. Tỷ lệ bệnh nhân vỡ bóng và bóng không nở rất 3.5. Kết quả chỉnh hình cột sống thấp (1 bệnh nhân), gặp trong trường hợp xương không đồng nhất và 3.5.1. Mối liên quan giữa sự khôi phục chiều cao và loại XTĐS cũng không để lại di chứng trên lâm sàng. Bảng 3.2. Số đo chiều cao đốt sống theo phân loại XTĐS 1 (n=82) 3.4.3. Biến chứng sau bơm xi măng có bóng Số đo chiều cao đốt sống Trong tổng số 82 đốt sống được bơm cemet, chúng tôi không gặp bất cứ biến chứng nào như tụ máu, nhiễm trùng, tổn thương thần Phân loại Sau bơm Trước Ngay sau P kinh, tràn máu tràn khí màng phổi, tắc mạch phổi, nhổi máu cơ tim, XĐS1 24 tháng bơm (1) bơm (2) đau tăng lên. Chỉ có 3 trường hợp (3,7%) có biến chứng xa là XTĐS (3) thì 2. Trong đó, 2 bệnh nhân xuất hiện xẹp đốt liền kề, 1 bệnh nhân Hình chêm xuất hiện xẹp đốt xa (cách 1 đốt lành). Cả 3 bệnh nhân được điều trị 15,0 ± 3,8 18,9 ± 2,7 18,9 ± 2,7 p1,2
  8. 13 14 Bảng 3.3. Hiệu quả khôi phục chiều cao sau bơm (n=82) Nhận xét: Tần số (n) Tỷ lệ (%) Phẫu thuật bơm cement cho thấy hiệu quả tốt hơn ở nhóm bệnh nhân có phân loại xẹp đốt sống lõm 2 mặt, lùn ép thân đốt sống và Hiệu quả ít 18 22,0 XTĐS mức độ nặng, trung bình. Hay nói cách khác, đốt sống càng Hiệu quả tốt 31 37,8 xẹp nặng thì khả năng nắn chỉnh khôi phục chiều cao càng tăng hơn. Hiệu quả rất tốt 33 40,2 Tuy nhiên, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0.05). Nhận xét: 3.5.3. Mối liên quan giữa vị trí đốt xẹp và hiệu quả chỉnh gù, chiều cao Về hiệu quả khôi phục chiều cao sau bơm, Có 22% đốt sống có Bảng 3.5. Bảng phục hồi góc và chiều cao theo vị trí đốt sống bị xẹp tỷ lệ khôi phục ≤ 10% (hiệu quả ít), 37,8% đốt sống có hiệu quả tốt (n=82) (tỷ lệ khôi phục 11-20%) và 40,2% đốt sống có kết quả khôi phục rất Vị trí đốt bơm cement tốt (tỷ lệ khôi phục >20%). Chứng tỏ phương pháp bơm bóng đạt Bản lề ngực - TL Thắt lưng p hiệu quả cao trong chỉnh hình đốt xẹp. Tuy nhiên, cũng có tỷ lệ nhất (n=58) (n=24) định khôi phục đốt xẹp ở mức vừa phải. Trung bình góc phục hồi sau bơm 3.5.2. Mối liên quan giữa hiệu quả khôi phục chiều cao và loại XTĐS Góc xẹp thân đốt 9o ± 3,8 6,5o ± 3,9 0,004** o o Bảng 3.4. Bảng mức độ phục hồi theo phân loại XTĐS Góc Cobb 5,1 ± 3,5 4,25 ± 2,9 0,39* o o Hiệu quả Hiệu quả tốt Góc gù CS 4,0 ± 2,6 3,2 ± 2,5 0,1** ít và rất tốt Trung bình tỷ lệ chiều cao khôi phục Loại XTĐS (n=18) (n=64) p Tường trước 21,6 ± 13,5 16,7 ± 16,6 0,13* n % n % Tường giữa 22,9 ± 12,1 18,5 ± 12,3 0,13** Hình chêm (n=50) 15 30 35 70 Phân loại Tường sau 4,0 ± 7,4 3,9 ± 10,6 0,87* Lõm 2 mặt (n=22) 2 9,1 20 90,9 0,1 1 * Mann – Whitney test, ** ttest Lùn ép ĐS (n=10) 1 10 9 90 Nhận xét: Nhẹ (20-25%) 8 36,4 14 63,4 Trung bình sự khôi phục về góc và chiều cao của nhóm các đốt ở (n=22) vị trí thắt lưng thấp hơn so với các đốt ở vị trí ngực, bản lề ngực- thắt Phân loại TB (25-40%) 8 20 32 80 0,1 lưng. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự khôi phục góc xẹp 2 (n=40) thân đốt giữa hai nhóm bản lề ngực thắt lưng và thắt lưng Nặng (>40%) (p = 0.004). 2 10 18 90 (n=20)
  9. 15 16 3.5.4. Mối tương quan giữa sự thay đổi góc gù cột sống và tuổi thường có biểu hiện đau lưng dữ dội, ngay lập tức có thể mất chức năng vận động, không thể ngồi, đứng, thậm chí không thể đi lại được do đau. Trái lại, những bệnh nhân XTĐS đơn thuần không có yếu tố chấn thương kèm theo, thường đau âm ỉ kéo dài và vẫn có thể đi lại được mức độ vừa phải. Việc bệnh nhân rối loạn chức năng vận động chủ yếu là do đau lưng dữ dội, chứ không liên quan đến các tổn thương thần kinh do XTĐS. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, 48/73 bệnh nhân không ngồi được, 22/73 bệnh nhân không đi lại được, 3/73 bệnh nhân không đứng được. Để giải thoát triệu chứng đau và cải thiện chức năng đi lại các bệnh nhân thường tự điều trị bằng thuốc giảm đau hoặc nhận được điều trị nội r2 = 0,04787, p = 0,04 khoa ở các cơ sở y tế. 91,8% bệnh nhân của chúng tôi được uống Biểu đồ 3.4. Tương quan giữa góc gù cột sống và tuổi của bệnh nhân thuốc giảm đau trước đó. Trong đó, 39,7% bệnh nhân không đỡ và (n=82) 52.1% bệnh nhân đỡ rất ít. Rõ ràng không phải lúc nào đau lưng cấp Nhận xét: Sự thay đổi góc gù tỷ lệ thuận với tuổi của đối tượng tính do XTĐS cũng đáp ứng với thuốc giảm đau. Ngược lại, việc sử nghiên cứu. Bệnh nhân có tuổi càng cao thì sự thay đổi chiều cao góc dụng thuốc giảm đau lâu dài lại gây ra nhiều tác dụng phụ, đặc biệt là gù càng tăng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p = 0.04, tuy nhiên đau dạ dày. Khi đau lưng cấp tính, điều trị bằng thuốc giảm đau tương quan chưa chặt chẽ. Lý do là số lượng bệnh nhân cao tuổi gù không đáp ứng, đồng nghĩa với điều trị nội khoa thất bại. Những nặng chiếm tỷ lệ lớn trong nghiên cứu, nên khả năng chỉnh gù bằng bệnh nhân này được chỉ định bơm xi măng có bóng với kết quả tốt, bơm xi măng có bóng sẽ tăng cao. do đó thể hiện tính ưu việt của phương pháp. Thời gian diễn biến đau trung bình trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi là 16 Chương 4 ngày (2 – 90 ngày). Theo Jung-Hoon Lee tỷ lệ bệnh nhân có thời gian BÀN LUẬN diễn biến bệnh < 1 tuần chiếm 47.5%, từ 8 - 30 ngày chiếm 25.9%. 4.1. Triệu chứng lâm sàng Với bệnh nhân XTĐS do chấn thương thường được can thiệp bơm Đau lưng tương ứng tại vị trí đốt sống bị xẹp là triệu chứng chủ cement sớm trong 15 ngày đầu, do vậy thời gian diễn biến bệnh ngắn. yếu bệnh nhân phải đến viện điều trị và chị định bơm xi măng. 100% Ngược lại, những trường hợp XTĐS đơn thuần thường trải qua nhiều bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có biểu hiện đau lưng ở đợt điều trị nội khoa, vật lý trị liệu, nhưng hiệu quả ít, thậm chí các mức độ khác nhau. 83.6% bệnh nhân đau lưng dữ dội, không thể không đáp ứng với thuốc giảm đau, rồi mới được chỉ định phẫu thuật. chịu đựng được, còn 16.4% bệnh nhân đau lưng âm ỉ. Mức độ đau có Đây chính là nguyên nhân thời gian diễn biến bệnh có thể lên tới 90 liên quan chặt chẽ với cơ chế gây đau. Khi đốt sống bị xẹp các bè ngày. Tuy nhiên, nếu bệnh điễn biến bệnh quá lâu, lúc này sẽ chuyển xương bị vỡ, kích thích vào các đầu tận cùng thần kinh nằm trong sang đau mạn tính và không có chỉ định bơm cement nữa, do đốt xoang đốt sống, được phân bổ ở 1/3 trước thân đốt sống gây đau cho sống đã trong quá trình liền xương. Đau cấp tính do XTĐS có thể người bệnh. Những bệnh nhân XTĐS do bị chấn thương cột sống giảm dần và khỏi. Nhưng trong nhiều trường hợp đau có thể tiển triển
  10. 17 18 hàng tuần cho đến hàng tháng và đôi khi có thể tiến triển thành đau do LX cấp tính và dẫn đến phải đặt sonde tiểu. Việc rối loạn này mạn tính. Đau lưng mạn tính sau XTĐS có thể dẫn đến liền xương chủ yếu là do bệnh nhân đau lưng dữ dội, do nằm bất động lâu không hoàn toàn với hậu quả là xương đổ gục xuống, từ đó chèn ép ngày làm giảm nhu động và do bệnh nhân cảm giác xấu hổ khi đại vào ống sống và gây ra các thiếu hụt thần kinh (bệnh cảnh Kumell). tiểu tiện ở tư thế nằm trong bệnh phòng. Các rối loạn này thường Theo Michael J. Gardner mặc dù được điều trị nội khoa tích cực, hơn tự mất đi sau khi bệnh nhân được điều trị giảm đau hiệu quả, được 1/3 bệnh nhân vẫn chuyển sang đau mạn tính, dẫn đến co cơ cạnh bơm cement và có thể đi lại được. Bên cạnh đó, những bệnh nhân sống, thoài hóa khớp do viêm tại vị trí gãy đốt sống và thay đổi trục đau lưng mạn tính, gù cột sống nặng có thể gây tổn thương thần của cột sống. kinh và rối loạn đại tiểu tiện. Lúc này để giải quyết rối loạn thần Theo Frank M. Phillips XTĐS do LX có thể dẫn đến mất khả kinh phải phẫu thuật giải phóng thần kinh. Matthew J.M và cộng năng vận động và nguy cơ tử vong tăng cao trong quần thể bệnh nhân sự nghiên cứu những phụ nữ lớn hơn 65 tuổi cho thấy tỷ lệ chết cao tuổi. Hậu quả của XTĐS là gây đau lưng dai dẳng, trong nhiều trong 10 năm gia tăng tỷ lệ thuận với XĐS: từ 19/1000 người/năm trường hợp đốt sống xẹp tiến triển sẽ gây gù cột sống. Các nghiên không bị XĐS tới 44/1000 người/năm với 5 XĐS. cứu chỉ ra rằng XTĐS do LX gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất 4.2. Hiệu quả chỉnh hình đốt xẹp lượng cuộc sống, chức năng cơ thể, sức khỏe tâm thần và sức sống 4.2.1. Kết quả khôi phục chiều cao đốt sống sau bơm xi măng của người bệnh. Những hậu quả này là do biến dạng cột sống nghiêm Khi so sánh chiều cao đốt xẹp trước và sau bơm cxi măng của 82 trọng và do chính bản thân triệu chứng đau lưng gây nên. Thật vậy, đốt sống, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có 2 bệnh nhân bị p < 0.001 trên số đo của tất cả các tường đốt sống. Cụ thể là trung gù cột sống, 15 bệnh nhân vẹo cột sống, 3 bệnh nhân bị hạn chế hô bình chiều cao tường trước, tường giữa, tường sau trước khi bơm là hấp và 3 bệnh nhân có rối loạn tiểu tiện kèm theo. Trong 16 bệnh 14.3 mm, 13.2 mm, 21 mm tương ứng. Sau bơm xi măng, trung bình nhân được nghiên cứu của Masto Nakano, tất cả các bệnh nhân đều số đo tường trước, tường giữa, tường sau được cải thiện là 18.4 mm, phàn nàn về đau lưng và gặp nhiều khó khăn khi ngồi và đi lại, có 3 17.4 mm, 21.9 mm tương ứng. Sự cải thiện chiều cao này được duy bệnh nhân bị sa sút trí tuệ tuổi già, một bệnh nhân bị rối loạn hô hấp, trì đến tận 24 tháng sau bơm. Dựa trên bảng 3.16, chúng ta nhận thấy một bệnh nhân bị viêm phổi mạn và một bệnh nhân trải qua đợt điều có sự cải thiện chiều cao đốt sống rõ rệt sau bơm xi măng trên cả 3 trị steroid dài do thấp khớp. Theo Phạm Mạnh Cường có 15/17 bệnh loại XTĐS là hình chêm, lõm 2 mặt và lùn ép thân đốt sống (p < nhân bị đau tại chỗ, 12/17 bệnh nhân có hạn chế vận động, 2/17 bệnh 0.001). Khi đánh giá tỷ lệ khôi phục chiều cao sau mổ bằng công nhân có biểu hiện chèn ép rễ, 1/17 bệnh nhân bị rối loạn hô hấp, thức, chúng tôi ghi nhận 22% đốt sống có tỷ lệ khôi phục chiều cao 3/17 bệnh nhân không đáp ứng với thuốc giảm đau. Những bệnh hiệu quả ít (dưới 10%), 37.8% đốt sống có tỷ lệ khôi phục hiệu quả nhân bị gù cột sống thường rơi vào nhóm XTĐS nặng (lùn ép thân tốt (11-20%) và 40.2% đốt sống có tỷ lệ khôi phục rất tốt (> 20%). đốt sống) và xẹp nhiều đốt sống (2-3 đốt sống), MĐX loãng nặng. Tương tự như vậy, Jung-Hoon Lee và cộng sự thực hiện bơm cement Do cột sống bị gù nên những bệnh nhân này thường gặp các rối có bóng cho 137 bệnh nhân với 158 đốt sống. Tác giả nhận thấy tỷ số loạn hô hấp, đặc biệt khi gắng sức, gây ảnh hưởng trầm trọng đến xẹp trung bình của đốt xẹp trước bơm cement là 24.97%. Tỷ lệ trung chất lượng cuộc sống của người bệnh, thậm chí làm gia tăng nguy bình chiều cao khôi phục sau bơm là 17.8% (p < 0.001). 45.5% đốt cơ tử vong. Rối loạn tiệu tiện cũng có thể gặp ở bệnh nhân XTĐS sống đạt tỷ lệ khôi phục tốt, 35.4% đốt sống đạt tỷ lệ khôi phục trung
  11. 19 20 bình và 19% đốt sống đạt tỷ lệ khôi phục kém. Qua kết quả nghiên lưng sẽ góp phần làm giảm trọng lực cơ thể lên đốt sống bị xẹp và cứu, chúng tôi nhận thấy phương pháp bơm xi măng có bóng đạt hiệu góp phần nắn chỉnh đốt sống bị xẹp bằng tư thế. quả cao trong việc khôi phục chiều cao đốt xẹp. Các kết quả này Alexander C. Disch thực hiện nghiên cứu cơ sinh học về nguyên được duy trì đến 24 tháng sau bơm. Qua biểu đồ 3.8 chúng tôi nhận nhân giảm khả năng nắn chỉnh đốt xẹp của bơm xi măng có bóng. thấy tỷ lệ khôi phục chiều cao đốt xẹp không liên quan tởi tổng lượng Nguyên nhân được biết đến là “hiệu ứng xẹp bóng”, lý do là vẫn tồn xi măng bơm vào đốt sống. Điều này gợi ý rằng lượng xi măng bơm tại góc gù trên đoạn đơn vị cột sống, cũng như sự thất bại cân bằng vào đốt sống có thể làm giảm góc gù cột sống. Tuy nhiên, một lượng dọc thẳng hàng trên toàn bộ cấu trúc cột sống. Nên khi quả bóng xi măng lớn hơn bơm vào đốt xẹp cũng không góp phần khôi phục được làm xẹp và xi măng không được bơm ngay trực tiếp, dẫn đến chiều cao đốt sống nhiều hơn. Do vậy, chúng ta không cần bơm quá khoang trống có thể bị xẹp lại. Thất bại của khu vực này sẽ dẫn đến nhiều xi măng vào đốt sống, làm đốt sống quá cứng, tổn thương các giảm sự khôi phục chiều cao thứ phát. đặc biệt phụ thuộc vào trọng sụn tiếp hợp, dẫn đến tăng nguy cơ XTĐS liền kề. Dựa trên bảng lực tồn tại trước đó và các cấu trúc cơ bao quanh xương. Khi bệnh 3.18, chúng tôi nhận thấy bơm xi măng đạt hiệu quả tốt hơn ở nhóm nhân nằm sấp, lực nén lên vùng thắt lưng khoảng 150N – 200N. bệnh nhân có phân loại XTĐS lõm 2 mặt, lùn ép thân đốt sống và 4.2.2. Kết quả khôi phục gù cột sống sau bơm xi măng XTĐS mức độ nặng, trung bình. Hay nói cách khác, đốt sống càng Theo Frank M. Phillips biến dạng gù cột sống ở bệnh nhân xẹp nặng thì khả năng nắn chỉnh khôi phục chiều cao càng tăng hơn. LX thường do nguyên nhân cơ sinh học của XTĐS gây nên. Biến Tuy nhiên, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0.05) dạng gù cột sống là do trọng lực trung tâm của cột sống bị đổ lên Các nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng phương pháp THTĐS tường trước đốt sống bị xẹp, tạo nên cánh tay moment lực dài hơn. không khôi phục hoàn toàn chiều cao đốt sống (66.3% - 91.5% khôi Hậu quả là làm tăng moment lực cúi ra trước xung quanh đốt sống bị phục chiều cao). Tương tự như vậy, mặc dù sử dụng 2 quả bóng để xẹp, do đó làm tăng độ gù của toàn bộ cột sống. Khi tiến hành bơm nắn chỉnh đốt xẹp, nhưng vẫn có 22% đốt sống có tỷ lệ khôi phục cement có bóng cho 82 đốt sống, chúng tôi ghi nhận sự cải thiện rõ hiệu quả ít trong nghiên cứu của chúng tôi. Rõ ràng là bơm xi măng rệt về độ gù cột sống sau bơm với sự khác biệt rất có ý nghĩa thống có bóng giúp khôi phục hiệu quả chiều cao đốt sống bị xẹp, nhưng kê (p < 0.001). Cụ thể, số đo trung bình góc xẹp thân đốt, góc Cobb, không phải khôi phục hoàn toàn chiều cao đốt sống như khi chưa bị góc gù cột sống trước bơm cement là 15.1º, 11.6 º, 8.4 º tương ứng. xẹp. Một trong những nguyên nhân là do áp lực nở của 2 quả bóng Sau bơm xi măng, sự cải thiện của trung bình số đo góc xẹp thân đốt, không thể vượt qua được trọng lực toàn cơ thể của bệnh nhân. Ngoài góc Cobb, gúc gù cột sống là 6.90, 6.80, 5.30 tương ứng. Sự cải thiện ra còn có những yếu tố khác làm hạn chế khôi phục chiều cao như: chỉnh gù cột sống này được duy trì đến 24 tháng sau bơm xi măng. tuổi gãy xương, thời gian diễn tiến bệnh, quá trình liền xương gãy, Khi đánh giá hiệu quả góc Cobb sau bơm, chúng tôi ghi nhận có mức độ LX, mức độ co cơ cạnh sống. Những bệnh nhân bị đau do co 40/82 đốt sống đạt sự cải thiện 0º - 4º; 34/82 đốt sống đạt sự cải thiện cơ tại vị trí đốt sống bị xẹp có thể làm tăng trọng lực lên đơn vị cột 5º - 9º; và 8 đốt sống đạt được sự cải thiện 10º - 14º. Các kết quả của sống đó. Như vậy trọng lực cơ thể và lực co cơ có thể làm giảm nỗ Jung-Hoon Lee cũng cho thấy hiệu quả chỉnh gù của phương pháp lực khôi phục chiều cao đốt sống sau khi rút 2 quả bóng ra. Do vậy, bơm cement có bóng. Trung bình góc gù trước bơm cement là 3.24º theo chúng tôi việc đặt tư thế người bệnh nằm sấp và hơi ưỡn vùng và số đo trung bình góc gù được cải thiện sau bơm cement là 1.94º (p < 0.001). Ngoài ra, tác giả còn phát hiện mối liên quan tỷ lệ thuận
  12. 21 22 giữa khả năng nắn chỉnh góc gù cột sống với lượng xi măng được của cột sống có thể làm tiêu lực nắn chỉnh tại chỗ trước khi lực bơm vào trong mỗi đốt sống (p = 0.001). Tương tự vậy, Nguyễn Văn chuyển dịch sang đốt sống lân cận và làm thay đổi sự thẳng hàng của Thạch khi bơm cement có bóng cho 37 đốt sống nhận thấy góc gù toàn bộ cấu trúc cột sống. Một lý do khác làm tiêu lực nắn chỉnh là trung bình trước bơm là 13.1º, sau bơm là 7.1º; góc xẹp đốt sống thay do sự thiếu lực nén giữa bề mặt đốt sống và đĩa đệm. Với bệnh nhân đổi từ 15.5º xuống còn 7.9º sau bơm. Qua các kết quả nghiên cứu, gù cột sống, cánh tay moment lực toàn cơ thể sẽ lớn hơn cánh tay chúng ta nhận thấy phương pháp THTĐS bằng bơm xi măng có bóng moment lực do quá trình nắn chỉnh đốt sống bằng quả bóng tạo ra. đạt hiệu quả cao trong việc chỉnh gù cột sống, giúp khôi phục sự Do đó, đôi khi kết quả nắn chỉnh góc xẹp đốt sống cao nhưng không thẳng hàng trên cân bằng dọc của toàn bộ cấu trúc cột sống. đủ để dịch chuyển lực nắn chỉnh qua đĩa đệm và đốt sống LX lân cận, Theo Gregor Voggenreiter dựa trên phim XQ có thể phân ra để chỉnh gù toàn bộ cột sống. Hơn thế nữa, khả năng nắn chỉnh toàn thêm 2 loại XTĐS. XTĐS động là XTĐS có sự thay đổi chiều cao bộ cột sống còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác: MĐX, kiểu gãy đốt sống trên phim chụp X quang nghiêng giữa tư thế đứng và nằm xương, chất lượng đĩa đệm liền kề, kích cỡ của đĩa (xương tới sấp. XTĐS tĩnh là XTĐS không có sự thay đổi chiều cao đốt sống xương), số lượng quả bóng nở, kích cỡ quả bóng, vị trí đặt bóng phù trên phim XQ nghiêng ở tư thế đứng và nằm sấp. Việc phân loại này hợp với từng kiểu XTĐS, thời gian XTĐS... Các đốt sống lân cận bị sẽ giúp ta tiên lượng được khả năng chỉnh gù đốt xẹp. Khi tập trung LX dẫn đến không dễ dàng để chỉnh gù toàn bộ cột sống. Đĩa đệm nghiên cứu vào chiều cao và góc gù cột sống, tác giả không thấy sự mềm sẽ kém khả năng truyền lực nắn chỉnh hơn. Do vậy chất lượng khác biệt trong việc khôi phục chiều cao giữa XTĐS cấp tính và mạn của đĩa đệm (chiều cao của đĩa) có thể đóng một vai trò quan trọng. tính. Với những trường hợp có khí trong thân đốt sống, hiện tượng Nghiên cứu cho thấy đĩa đệm cột sống ngực nhỏ hơn có xu hướng này không làm ảnh hưởng tới XTĐS động hoặc khả năng khôi phục truyền lực nắn chỉnh tốt hơn. Do vậy, khả năng nắn chỉnh khi phẫu chiều cao đốt sống. Ngược lại, khi có đường nứt gãy trong thân đốt thuật cho đốt sống ngực sẽ cao hơn so với đốt sống thắt lưng. Các kết sống, nó phản ảnh có sự di động nội tại trong thân đốt sống, do đó quả nghiên cứu trong bảng 3.20 của chúng tôi cũng ủng hộ nguyên lý cho phép nắn chỉnh chiều cao đốt sống bằng bơm cement có bóng. cơ sinh học nêu trên. Số đo trung bình hiệu quả của góc xẹp thân đốt Với XTĐS động, việc nắn chỉnh chiều cao đốt sống xẹp được ít nhất vùng cột sống bản lề ngực - thắt lưng là 9º, vùng thắt lưng là 6.5º, sự 5º. Tủy thuộc vào mức độ di động của đốt sống, khả năng nắn chỉnh khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0.004. Sự cải thiện số đo các bằng bơm xi măng có bóng sẽ được nâng cao hơn. góc gù cột sống còn lại và trung bình chiều cao đốt sống vùng bản lề Qua bơm xi măng có bóng cho 82 đốt sống, chúng tôi ghi nhận ngực - thắt lưng cao hơn so với vùng thắt lưng, tuy nhiên p > 0.05. sự cải thiện góc Cobb từ 0 - 4º chiếm khá cao 48,7% (40/82 đốt Do trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 2 trường sống). Điều này phản ánh gần 1 nửa số đốt sống có sự cải thiện góc hợp xẹp đốt T10, không có trường hợp nào xẹp đốt sống ngực cao, Cobb sau bơm cement ở mức vừa phải. Theo Ben B. Pradhan các nên chúng tôi chưa so sánh được hiệu quả nắn chỉnh giữa đốt sống nghiên cứu về cơ sinh học chỉ ra rằng góc gù tại chỗ đốt xẹp và chiều ngực cao và đốt sống thắt lưng. Bên cạnh đấy, thời gian XTĐS cũng cao đốt sống được hoàn trả sau bơm xi măng có bóng có thể rơi vào ảnh hưởng quan trọng đến khả năng nắn chỉnh, do quá trình liền “khu vực trung tính” của đơn vị vận động cột sống, làm giảm khả xương sẽ gây khó khăn cho quá trình nắn chỉnh. Sự nắn chỉnh đốt năng chỉnh gù toàn bộ cột sống. Hay nói cách khác, đĩa đệm mềm sống cao nhất là ở chính giữa đốt sống, do vậy quả bóng nên đặt ở
  13. 23 24 chính giữa đốt sống. Với bề mặt đốt sống nhỏ hơn và đĩa đệm hẹp KẾT LUẬN hơn ở cột sống ngực là nguyên nhân dẫn đến khả năng nắn chỉnh ở 1. Kết quả nghiên cứu đốt sống ngực cao hơn cột sống thắt lưng. Bên cạnh đó, cột sống Trong 73 bệnh nhân, có 87.7% trường hợp tổn thương 1 đốt, ngực với khung xương sườn sẽ tạo cấu trúc cứng hơn cột sống thắt 12.3% trường hợp tổn thương 2 đốt. Với 82 đốt sống, có 61% đốt xẹp lưng và đóng góp vai trò nắn chỉnh toàn bộ cột sống tốt hơn với bơm hình chêm, 26.8% đốt lõm 2 mặt, 12.2% lùn ép thân đốt sống. Có 2 cement có bóng. Cuối cùng, đốt sống ngực có kích thước nhỏ hơn đốt trường hợp xẹp T10, 56 trường hợp xẹp vùng bản lề ngực - thắt lưng, sống thắt lưng nên cũng dễ nắn chỉnh hơn. 24 trường hợp xẹp vùng thắt lưng. MĐX trung bình là -3.9 ± 0.9. Có Trong những nghiên cứu đã được công bố, cấu hình XTĐS do mối liên quan tuyến tính giữa MĐX với tuổi của bệnh nhân, p = 0.05. LX phổ biến là XTĐS hình chêm và thường xẹp ở bờ trên đốt sống. 2. Kết quả phẫu thuật Như vậy, khi đặt quả bóng hình elip vào thân đốt sống, nên đặt quả Hiệu quả khôi phục chiều cao đốt xẹp: Trung bình chiều cao bóng vào đúng trung tâm của đốt xẹp, sẽ làm tăng khả năng nắn tường trước, tường giữa, tường sau đốt xẹp cải thiện có ý nghĩa chỉnh bờ trên đốt sống lên cao nhất. thống kê khi so với trước và sau bơm cement (p < 0.001). Sự cải thiện này được duy trì sau bơm 24 tháng. 31/82 đốt sống đạt tỷ lệ Thông qua biểu đồ 3.11 chúng tôi nhận thấy sự thay đổi góc gù cột khôi phục chiều cao tốt (11-20%), 33/82 đốt sống đạt tỷ lệ khôi sống trước và sau bơm có ý nghĩa khi đem so sánh với tuổi của bệnh phục rất tốt (> 20%). nhân với r2 = 0.04787, p = 0.04. Những bệnh nhân XTĐS với tuổi càng Hiệu quả chỉnh gù cột sống: Trung bình số đo góc xẹp thân đốt, cao, thì nguy cơ gây gù cột sống cũng tăng cao hơn so với người bệnh góc Cobb, góc gù cột sống cải thiện có ý nghĩa thống kê khi so với trong nhóm tuổi thấp hơn. Việc sử dụng phương pháp bơm xi măng có trước và sau bơm cement (p < 0.001). Sự cải thiện này được duy trì bóng đạt hiệu quả chỉnh gù cao trong nhóm bệnh nhân này một lần nữa sau bơm 24 tháng. Với góc Cobb, 40/82 đốt sống cải thiện được 0 - khẳng định hiệu quả chỉnh gù tốt của phương pháp. 4º, 34/82 đốt sống cải thiện được 5 - 9º. Ở vùng bản lề ngực - thắt Năm 2015, Kunio Yokoyama và cộng sự nghiên cứu sự thẳng hàng lưng khôi phục chiều cao đốt xẹp và độ gù cột sống tốt hơn vùng thắt của cột sống xương chậu và cân bằng dọc của toàn bộ cột sống trên bệnh lưng. Có mối liên quan tuyến tính giữa sự thay đổi góc gù cột sống nhân sau THTĐS bằng bơm xi măng có bóng. Tác giả nghiên cứu phim với tuổi của bệnh nhân, p = 0.04. XQ chụp hệ thống xương toàn bộ cơ thể quy chuẩn của 21 bệnh nhân Hiệu quả giảm đau qua thang điểm VAS cải thiện có ý nghĩa sau trước và sau bơm cement có bóng. Nhóm nghiên cứu nhận thấy với bệnh bơm với p < 0.001. Trung bình VAS trước bơm, sau bơm 3 tháng, 12 nhân XTĐS do LX có sự giảm có ý nghĩa độ dốc của xương cùng, tăng tháng, 24 tháng lần lượt là 8.4, 1.9, 1.4, 1.2. Đánh giá chất lượng độ nghiêng của xương chậu và mất cân bằng dọc trước của toàn bộ cột cuộc sống qua thang điểm MacNab sau 24 tháng: 57.5% kết quả rất sống khi so với quần thể người khỏe mạnh. Bệnh nhân sau khi được tốt, 39.8% kết quả tốt, 2.7% kết quả trung bình. bơm xi măng có bóng có sự cải thiện rõ rệt về cân bằng dọc của toàn bộ cột sống. Sự cải thiện này có thể giúp làm giảm gánh nặng lên khớp háng, khớp gối và những đốt sống phía trên, góp phần cải thiện chức năng hoạt động hàng ngày do giảm đau.
  14. 25 26 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING MINISTRY OF HEALTH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ HANOI MEDICAL UNIVERSITY 1. Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Thạch (2014), “Xẹp đốt sống thứ phát sau tạo hình thân đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương”. Tạp chí chấn thương chỉnh hình Việt Nam, số 4, trang 1-7,. ĐO MANH HUNG 2. Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Thạch (2016), “Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương”, Tạp chí Chấn thương chỉnh hình Việt Nam, số đặc biệt, trang 42-49. RESEARCH INTO THE APPLICATION OF 3. Đỗ Mạnh Hùng, Đinh Ngọc Sơn, Nguyễn Lê Bảo Tiến, KYPHOPLASTY IN OSTEOPORPTIC PATIENTS WITH VERTEBRAL COMPRESSION FRACTURE Nguyễn Văn Thạch (2017), “Tỷ lệ xẹp đốt sống thứ phát sao tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương”, Tạp chí Chấn thương chỉnh Speciality : Orthopedics and Plastic surgery hình Việt Nam, số đặc biệt, trang 290 – 294 Code : 62720129 SUMMARY OF PhD THESIS HANOI – 2018
  15. 27 1 STUDY WAS PERFORMED AT HANOI MEDICAL INTRODUCTION UNIVERSITY Osteoporosis in general and osteoporosis due to osteoporosis in particular are considered as a "silent epidemic" spread throughout the world, increasingly tending to become and become a burden on the Superviser: Assoc. Prof. Nguyen Van Thach health of the community. copper. Every year, the United States spends a whopping $ 17.9bn (£ 17.9bn) on osteoporosis fractures, while in the UK it is around £ 1.7bn. Reviewer 1: Assoc. Prof. Pham Dang Ninh In 1990, the orthopedic surgeon Mark Reiley first proposed the idea of orthopedic correction of flat vertebrae by shiny cement injection (Kyphoplasty). So far, the technique has been widely Reviewer 2: Assoc. Prof. Kieu Dinh Hung applied in advanced countries around the world. In Vietnam, the Spinal Surgery Department of Viet Duc Hospital is the first center to apply the technique of spinal projection with cement ball pumps to Reviwer 3: Assoc. Prof. Tran Thi Minh Hoa treat osteoporosis patients with very good initial results. Based on the fact that the number of patients is very high, the need for treatment is high, the effectiveness of the method, but there are very few reports in the country, so I studied the subject for two purposes: The thesi will be defended from the board of doctoral thesis held at 1. The clinical and subclinical characteristics of patients with Hanoi Medical University osteoporosis due to osteoporosis. At , day / / 2018 2. Assessment of treatment results by shiny cement injection for patients with vertebral fractures. Chapter 1. The thesis can be found at: OVERVIEW - National Library - Library of Hanoi Medical University 1.1. Osteoporosis and vertebral fractures due to osteoporosis 1.1.1. Definition and classification of osteoporosis Osteoporosis is a disease characterized by reduced bone mass, damage to the microstructure of bone tissue leading to bone fracture, and increased risk of fracture. Two types of LX are expressed in the following ratios: + From 51-65 years, the ratio of male and female natural resources is 6: 1
  16. 2 3 After the age of 75, the ratio of femoral neck to femur is 2: 1 indices of the population relative to the bone density of the young + Percentage of women with retinopathy or postoperative group as the standard: fracture after the menopause is 5 times higher than the rate of femoral Normal bone density when T-score ≥ -1: that is, the BMD of neck fracture. the individual is greater than or equal to -1 standard deviation with + The rate of femoral neck fracture increases gradually with the mean of healthy adults ages 20-30. age. In the last years of life, this rate increases exponentially. Decreased bone density when -1> T-score> -2.5: ie BMD -2.5 standard deviations with a mean value of 20-30 healthy adults. femoral neck fracture is 1: 1. Osteoporosis at T-score ≤ -2.5: ie BMD ≤ -2.5 standard The two types are called primary fractures, accounting for over deviations with mean values for healthy adults aged 20-30. 80% of osteoporosis cases. Severe osteoporosis when T-score ≤ -2.5 and fracture 1.1.2. Consequences of vertebral fractures due to osteoporosis The Z-score is also sometimes used. Comparison of bone age In the past, we often thought that psychosocial behavior was of patients with control bone age. Patients with more than two benign, self-limiting is rarely hurt and if there are often long-term standard deviations of normal bone age should be used for the consequences. This concept affects around two thirds of patients who diagnosis of osteomalacia. do not go to the doctor's office. Moreover, despite the medical 1.4. The methods of treatment for vertebral fractures attention, the most common response is non-surgical treatment. 1.4.1. Internal Medicine Based on recent studies in large populations, there is growing Internal Medicine for Osteoporosis is prescribed within the evidence that antipsychotics can cause motor dysfunction, such as first 3 months. In isolated cases, there is no nerve compression, as acute and chronic pain, secondary psychosis, gastrointestinal well as no synovial damage. dysfunction, pulmonary dysfunction, decreased bodily function, 1.4.2. Treatment of traditional medicine increased rate and duration of hospital stay and ultimately increased 1.4.3. Surgery for osteoporosis patients mortality. 1.4.4 Spinal projection by shiny cement injection 1.2. Clinical manifestation of vertebral fractures due to Technical process osteoporosis Step 1: The patient is lying on his stomach, with padded knees Approximately two thirds of patients with spinal cord injury and two pelvis. have no clinical or undiagnosed symptoms until signs of radiological - Step 2: Define the entry point under the C-arm's guide, point or pathological findings for other causes. Symptoms of LX range at 10h, 2h outside the live stem in the front projection. from very silent to fractures due to minor injuries. Common fracture - Step 3: 2 needle 11G or 13G stuck to the stalk on either side. sites are the spine, ribs, hip, wrists. Patients often complain of pain at - Step 4: Put the needle into the vertebrae through the living stalk. these sites. Stiff joints, often with bone pain, are not common in LX. - Step 5: Put the canal system, drill tunnel into the body burn, 1.3. Subclinical symptoms of vertebral fractures the system burns the bone body. Measure the bone density of osteoporosis - Step 6: Put two balls into the body of the fire, pumping with The WHO standard for LX diagnosis is based on BMD (Bone pressure
  17. 4 5 - Step 7: Pull out the ball 2, leaving empty space in the body of Chapter 2 the fire. OBJECTIVES AND RESEARCH METHODS - Step 8: Use a cemented needle into the empty chamber in the body of the burn, continuously controlled on the C-arm. When the 2.1. Research subjects cement is filled, withdraw the needle. Patients were diagnosed as XSS by the LX, by the General Assembly with balloon cement injection in the Department of Research works in the world and in Vietnam Spine Surgery, Hanoi Viet Duc Hospital from February 2014 to  The world: February 2015. In 2012, Hwan Mo Lee studied the progress of 259 patients 2.1.1 Criteria for selection of study patients with osteoporosis by LX. However, balloon cement is better for the - Patients in adulthood first month. Cigarette shavings should not be prescribed to patients - Gender: both male and female with risk factors for treatment failure. Back pain associated with vertebrae burns, no more or less In 2016, Huilin Yang et al. undertook a comprehensive study responsive to medical treatment (after at least 1 month). of the overall results of the GCSEs by shading cement in China. The - Osteoporosis due to osteoporosis (with or without traumatic), authors conclude that shiny cement pumps are faster, safer and more T-score
  18. 6 7 2.2. Research Methods Chapter 3 Descriptive research, cohort, vertical follow up (pre and post- RESEARCH RESULTS treatment evaluation). 3.1. General information of the research object Specific research contents are as follows: The incidence of female patients is very high (89%), the - Clinical Surveys: Describe the clinical symptoms, average age of patients is 66.5 ± 11.1 years. Two age groups with characteristics of the research team. high incidence were aged 60-70 with 34.3% and 70-80 with 23.3%. - Clinical examination: X-ray, magnetic resonance, CT This feature prevents LX from occurring mainly in the elderly and scanner, bone density females. - Treatment of hyperthyroidemia with shiny cement injection, 3.2. Clinical characteristics of patients with vertebral fractures evaluation of the results of the post-intervention method. The mean preoperative VAS score was 8.4 ± 1.1 points (in the range of 6-10 points.) Most patients had VAS scores of 8-9 (42/73 2.3. Method of data collection and analysis patients), 17/73 patients VAS score of 6-7, 14 patients with VAS - Research indicators were collected according to the pre- score 10. Demonstrated back pain is the main symptom, serious to designed forms at preoperative, postoperative and post-operative the patient to be hospitalized. times, and periodicals. Data collection tools include: The mean duration of disease was 16.0 ± 18.4 days (2 -90 + Medical records according to the uniform form when the days). In the case of IDUs, they usually receive at least 4 weeks of patient is admitted to the hospital medical treatment. Often there is usually a pumping injury in the first All selected patients have their own medical records with all 15 days. Most patients present with severe onset of symptoms required parameters. (83.6%); sedentary disorder (65.8%); no travel (30.1%); the majority of patients do not have spinal deformities (76.7%); no respiratory - The data will be entered into a computerized model and distress (95.9%) and 3 cases of urinary disorders. 39.7% of patients processed according to the SPSS 13.5 statistical software. had pain medication, and 52.1% did not. Failure to treat analgesia is - Continuous variables are presented in the form of averages. also indicated for shading cement Compare the results between continuous variables with the Student T 3.3. The clinical characteristics of patients with vertebral test. Variable and discrete variables are represented as%. Compare fractures the results of discrete variables with the 2 test algorithm. The In the study population, a total of 104 burns were included, difference was statistically significant when p
  19. 8 9 3.3.1 Distribution of patients with traumatic burns Comment: Classification shows that the majority is flat (61.0%); followed The correlation was statistically significant between the age by double-sided depression (26.8%). The proportion of patients with and the MD of the subjects. The higher the age, the lower the moderate to moderate pain is 25-40% (48.8%). 100% of acute cases score is. Characterization of LX is seen in the elderly and is at risk are acute, for indication of shiny cement. Only 8 vertebrae have gas for high fractures. However, this correlation is not very close with in the body, this is a sign of prolonged fractures, need to intervene to pump cement soon, avoid chronic injury. The rate of occupational r2 = 0.0524. hypertension alone was highest (63.4%), with 12.2% of injuries in 3.4. Cement injection technology one part of the vertebral column, still assigned to cement injection 3.4.1. Correlation between cement pump volume and bone density and one patient in the right ventricle, left. 3.3.2. The patient's osteoporosis level Table 3.1. T-score of study subjects T-score Mean ± SD -3,9 ± 0,9 Min – Max (-2,5) – (-6,5) Comment: The mean T-score of patients enrolled in the study was -3.9 ± 0.9. When T-Score
  20. 10 11 cases of leakage of cement do not leave any clinical sequelae. The 3.5. Chiropractic results incidence of shunting and shingles is very low (1 patient), in case of 3.5.1. The relationship between height restoration and the type of heterogeneous bone and no clinical sequelae. rehabilitation 3.4.3. Complications after Kyphoplaty Table 3.2. Spinal varicose height measurement according to Of the 82 vertebrae injected, no complications such as classification 1 (n = 82) hematoma, infection, nerve damage, pneumothorax, pulmonary High measure embolism, myocardial infarction, increased pain . Only 3 cases VCF Before After 24 P (3.7%) had complications far away from new VCF, in which two classification 1 After (2) (1) months (3) patients appeared adjacent burns, one patient appeared far burned (1 Wedge (Fr A) 15,0 ± 3,8 18,9 ± 2,7 18,9 ± 2,7 p1,2