Cách điều chỉnh khe hở nhiệt


Technical Library

Độ lớn khe hở nhiệt của các động cơ cụ thể thường được nhà chế tạo cho trong các tài liệu

hướng dẫn sử dụng và bảo dưỡng. Nếu không có số liệu riêng, có thể điều chỉnh khe hở nhiệt

trong khoảng 0,15 0,4 mm tùy thuộc xupáp nạp hay thải và trục cam đặt trên nắp xy lanh hay

dưới thân máy. Nếu để khe hở nhiệt quá lớn sẽ gây ồn và làm giảm độ mở của xupáp, do đó

làm cho động cơ yếu, không phát đủ công suất thiết kế. Ngược lại nếu để khe hở nhiệ t quá nhỏ

sẽ làm cho xupáp bò kênh, dẫn tới lọt khí và cháy bề mặt làm việc của xupáp và đế xupáp.

Nguyên tắc điều chỉnh khe hở nhiệt là điều chỉnh khi động cơ ở trạng thái nguội và xupáp

ở trạng thái đóng, tức là khi mặt lưng (hay mặt cơ sở) của cam tiếp xúc với con đội (hoặc tiếp

xúc trực tiếp với cần bẩy hoặc xupáp).

Phương pháp xác đònh thời điểm điều chỉnh khe hở nhiệt trên động cơ như sau:

- Đối với cơ cấu phân phối khí có trục cam đặt trên nắp xy lanh, có thể quay trục khuỷu và

nhìn trực tiếp vào cam để xác đònh thời điểm điều chỉnh một cách dễ đàng. Do đó mỗi lần quay

trục khuỷu có thể điều chỉnh được khe hở nhiệt của tất cả các xupáp mà chi tiết dẫn động vẫn

đang tiếp xúc với mặt lưng của cam.

- Đối với cơ cấu phân phối khí có trục cam đặt trên thân máy thì không dễ đàng nhìn vào

cam để xác đònh thời điểm khe hở nhiệt. Vì vậy, để dễ xác đònh và xác đònh đúng thời điểm

điều chỉnh tương ứng với vò trí góc quay trục khuỷu, người ta thường điều chỉnh đồng thời cả

xupáp nạp và xupáp thải của cùng một xy lanh ở cuối kỳ nén, đầu kỳ nổ vì lúc này các xupáp

điều đóng.

- Để thực hiện việc này trong động cơ một xy lanh, quay trục khuỷu động cơ từ từ sao cho

dấu xác đònh điểm chết trên ở trên puly hoặc trên bánh đà tiến dần tới dấu cố đònh trên thân

máy, đồng thời quan sát đầu cần bẩy. Nếu dấu điểm chết trên tiến đến trùng với dấu cố đònh

trên thân máy trong khi các cần bảy không chuyển động thì đó chính là thời điểm cuối kỳ nén,

đầu kỳ nổ và có thể điều chỉnh khe hở nhiệt.

- Đối với động cơ nhiều xy lanh, có thể điều chỉnh khe hở nhiệt của các xupáp ở các xy

lanh theo thứ tự nổ của động cơ. Trước tiên, điều chỉnh khe hở nhiệt của các xupáp của xy lanh

thứ nhất như đối với động cơ một xy lanh. Chú ý là dấu xác đònh điểm trên của động cơ nhiều

xy lanh chính là dấu điểm chết trên của xy lanh thứ nhất tính từ phía đầu trục khuỷu. Sau đó,

quay trục khuỷu đi một góc bằng góc lệch công tác của động cơ và điều chỉnh khe hở nhiệt của

các xupáp của xy lanh tiếp theo trong thứ tự nổ, cứ làm như vậy cho đến khi điều chỉnh hết của

tất cả các xy lanh. Như vậy, cần phải quay trục khuỷu tới số lần bằng số xy lanh động cơ và với

góc quay tổng cộng ít nhất bằng 2 vòng để thực hiện điều chỉnh xong khe hở nhiệt của toàn bộ

các xupáp của động cơ.

- Ví dụ, giả sử cần điều chỉnh khe hở nhiệt của một động cơ 4 xy lanh có thứ tự nổ 1-3-42, động cơ này có góc lệch công tác giữa các xy lanh là 1800 góc quay trục khuỷu. Trước tiên,

đánh dấu bằng phấn trên puly các góc 1800 tính từ dấu ĐCT.

- Quay trục khuỷu sao cho dấu điểm chết trên của xy lanh 1 ở kỳ nổ trùng với dấu cố đònh

trên thân máy và điều chỉnh khe hở nhiệt của các xupáp. Sau đó, quay trục khuỷu đi 1800 sao

163



Technical Library

cho dấu phấn trùng với dấu cố đònh trên thân máy và chỉnh khe hở nhiệt các xupáp của xy lanh

3, quay tiếp 180o để điều chỉnh nữa cho dấu phấn trùng dấu cố đònh trên thân máy và điều

chỉnh cho xy lanh 4 và quay tiếp 1800 để điều chỉnh cho xy lanh 2. Như vậy, việc điều chỉnh

được thực hiện xong sau 4 lần quay trục khuỷu.



Hình 5.I- 42. Điều chỉnh khe hở nhiệt.

(a) - vít điều chỉnh tì lên đũa đẩy; (b) - vít điều chỉnh tì lên đuôi xupáp.

Phương pháp điều chỉnh khe hở nhiệt của mỗi xupáp phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo của

cơ cấu phân phối khí. Sau đây là phương pháp điều chỉnh khe hở nhiệt của một số loại cơ cấu

phân phối khí thường gặp:

- Cơ cấu phân phối khí có kết cấu cần bẩy quay quanh trục: với kết cấu này, nếu trục cam

dẫn động cần bẩy thông qua con đội và đũa đẩy thì vít điều chỉnh thường được lắp trên đuôi cầ n

bẩy và tì lên đũa đẩy hình 5.I-42a. Nếu trục cam đặt trên nắp xy lanh và dẫn động trực tiếp cần

bẩy thì ít điều chỉnh được lắp ở đầu cần bẩy và tì lên đuôi xupáp hình 5.I-42b.

Việc kiểm tra khe hở nhiệt được thực hiện bằng cách dùng thước lá có bề đày bằng độ lớn

của khe hở nhiệt quy đònh đưa vào khe hở giữa đuôi xupáp và đầu cần bẩy (hoặc đầu vít điều

chỉnh) để kiểm tra. Nếu phải điều chỉnh thì nới đai ốc hãm vít điều chỉnh, đặt thước lá vào đuô i

xupáp, vặn vít điều chỉnh vào từ từ cho tới khi xê dòch thước lá cảm thấy có ma sát hơi nặng thì

hãm đai ốc chặt lại rồi kiểm tra lại để khẳng đònh khe hở đúng.

- Cơ cấu phân phối khí có kết cấu cần bẩy tựa trên đế cầu trên gu-giông; Đối với kết cấu

này, trục cam có thể được đặt trên thân máy và dẫn động cần bẩy thông qua con đội và đũa đẫy

hoặc đặt trên nắp xy lanh và dẫn động cần bẩy thông qua con đội hình 5.I-43. Để kiểm tra khe

hở nhiệt, nâng đầu cần bẩy phía đuôi xupáp lên hết cỡ và dùng thươc lá có bề đày bằng độ lớn

yêu cầu của khe hở nhiệt cho vào khe hở giữa đuôi xupáp và đầu cần bẩy để kiểm tra. Nếu cần

phải điều chỉnh thì đặt thước lá ở đuôi xupáp, nới đai ốc hãm đế cầu trên gu-giông rồi vặn điều

chỉnh cho đế cầu lên, xuống trên gu-giông; khi nào xê dòch thước lá thấy hơi nặng, tức là đạt

được khe hở yêu cầu, thì vặn chặt đai ốc hãm lại rồi kiểm tra lại để khẳng đònh khe hở đúng.



164



Technical Library

- Cơ cấu phân phối khí có cần bẩy đặt tự do trên trụ đỡ và đuôi xupáp: Một đầu cần bẩy

gối lên trụ đỡ qua vít điều chỉnh, đầu kia tì lên đuôi xupáp, trục cam được đặt trên nắp xy lanh

và cam tì trực tiếp lên phần giữa của thân cần bẩy. Việc kiểm tra được thực hiện bằng cách

quay trục khuỷu cho tới khi mặt lưng cam nằm trên thân cần bẩy, dùng thước lá có bề đày bằng

độ lớn yêu cầu kiểm tra khe hở giữa thân cần bẩy và lưng mặt cam. Khe hở được điều chỉnh

nhờ chỉnh vít điều chỉnh rồi hãm lại. Sau đó, kiểm tra lại để khẳng đònh trò số khe hở đúng tiê u

chuẩn.



Hình 5.I-43. Điều chỉnh khe hở nhiệt của cơ cấu

phân phối khí có kết cấu cần bẩy tựa trên đế cầu.

- Cơ cấu phân phối khí kiểu cam dẫn động trực tiếp xupáp: Trong kết cấu này, trục cam

được đặt trên nắp xy lanh và cam tì trực tiếp lên cụm xupáp qua bu-lông điều chỉnh hình 5.I44a, hoặc đệm điều chỉnh hình 5.I-44a. Để kiểm tra và điều chỉnh khe hở nhiệt cần quay trục

khuỷu cho tới khi mặt lưng cam nằm về phía đuôi xupáp, dùng thứơc lá để kiểm tra khe hở giữa

chúng. Nếu cần điều chỉnh, phải dùng kỳm chuyên dùng ép đóa lò xo xuống một chút rồi quay

bu-lông hoặc thay đệm điều chỉnh mới có bề đày thích hợp.



Hình 5.I-44. Điều chỉnh khe hở nhiệt cơ cấu phân phồi khí

165



Technical Library

có kết cấu cam dẫn động trực tiếp xupáp.

c) Kiểm tra và điều chỉnh vò trí của pit-tông con đội thủy lực

Cơ cấu phân phối khí dùng con đội thủy lực không cần có khe hở nhiệt như cơ cấu phân

phối khí dùng con đội cơ khí. Con đội thủy lực có thể bù trừ được sự xê dòch nhỏ của các chi tiết

trong cơ câu so với trạng thái lắp ghép ban đầu do dãn nở nhiệt hoặc do mài mòn trong quá

trình làm việc. Tuy nhiên, để thực hiện được chức năng này, pit-tông của con đội phải luôn nằm

ở vò trí trung gian giữa vò trí cao nhất (đầu pit-tông con đội chạm vòng hãm) và vò trí thấp nhất

(đuôi pit-tông con đội chạm đáy) trong quá trình làm việc. Vò trí làm việc của pit-tông con đội

trong thân con đội phụ thuộc vào các chi tiết lắp ghép khác trong cơ cấu phân phối khí. Ví dụ,

nếu đũa đẩy quá đài so với tiêu chuẩn sẽ đẩy pit-tông con đội xuống thấp hơn và ngược lại.

Do vậy, sau khi lắp cơ cấu phân phối khí dùng con dội thủy lực cần phải kiểm tra và điều

chỉnh cơ cấu để pit-tông con đội nằm vào phạm vi vò trí làm việc yêu cầu trong thân con đội.

Thông thường, ở trạng thái lắp trong động cơ phân phối khí ứng với thời điểm điều chỉnh (xupáp

đóng và động cơ nguội), vò trí của pit-tông con đôi phải cách vòng hãm 0,5-1,2 mm.

Nếu pit-tông con đội nằm ở vò trí sát vòng hãm (vò trí cao nhất) trong quá trình làm việc

(xem lại hình 5.I-35) thì con đội sẽ không còn tác dụng triệt tiêu khe hở nhiệt giữa đuôi xupáp

và đầu cần bẩy khi xupáp ở trạng thái đóng. Hiện tượng này tương tự như hiện tượng khe hở

nhiệt quá lớn trong cơ cấu phân phối khí dùng con đội cơ khí, sẽ gây ồn trong quá trình động cơ

làm việc và làm cho động cơ chạy yếu, không phát hết công suất thiết kế.

Ngược lại, nếu pit-tông con đội luôn nằm ở vò trí sát đáy (vò trí thấp nhất) sẽ gây hiện

tượng kích xupáp khi ở trạng thái đóng. Hiện tượng này, tương tự như hiện tượng không có khe

hở nhiệt trong cơ cấu phân phối khí dùng con đội cơ khí, sẽ gây kênh xupáp, dẫn đến lọt khí và

cháy mặt xupáp và đế xupáp.

Trong sửa chữa cần phải kiểm tra để điều chỉnh vò trí làm việc của pit-tông con đội thủy

lực trong các trường hợp sau đây :

- Mài mặt nắp xy lanh hoặc mặt thân máy;

- Thay gioăng đệm nắp xy lanh :

- Mài lại cam hoặc xupáp và đế xupáp:

- Thay chi tiết của cơ cấu phân phối khí;

Trong bảo dưỡng đònh kỳ, nói chung ít phải điều chỉnh cơ cấu phân phối khí dùng con đội

thủy lực vì xê dòch nhỏ của các chi tiết trong cơ cấu do sự mài mòn của chúng được bù đắp lại

bởi sự tăng chiều cao làm việc một cách tự động của con đội thủy lực.

Việc kiểm tra và điều chỉnh cơ cấu phân phối khí dùng con đội thủy lực cũng được thực

hiện khi động cơ ở trạng thái nguội và xupáp ở trạng thái đóng. Do đó, việc xác đònh thời điểm

để kiểm tra và điều chỉnh tương tự như xác đònh thời điểm kiểm tra và điều chỉnh khe hở nhiệt

của cơ cấu phan phối khí dùng con đội cơ khí.

Phương pháp kiểm tra và điều chỉnh được thực hiện như sau:



166



Technical Library

- Đối với cơ cấu phân phối khí dùng cần bẩy điều chỉnh được, ví dụ như các cần bẩy có vít

điều chỉnh hoặc các đòn bẩy tựa trên đế cầu có đai ốc điều chỉnh, thì quy trình kiểm tra và điều

chỉnh như sau:

1. Quay trục khuỷu động cơ đến thời điểm điều chỉnh con đội cần kiểm tra (giống như xác

đònh thời điểm điều chỉnh khe hở nhiệt trong cơ cấu phân phối khí dùng con đội cơ khí).

2. Nới vít điều chỉnh trên cần bẩy (hoặc đai ốc đế cầu trên gu-giông) đến khi có khe hở

giữa đuôi xupáp và đầu cần bẩy.

3. Vặn vít điều chỉnh vào dần dần, đồng thời kiểm tra khe hở giữa đầu cần bẩy và đuôi

xupáp bằng cách lắc nhẹ đầu cần bẩy để xem độ rơ, khi nào vừa hết khe hở thì vặn vít hoặc đai

ốc đế cầu thêm 0,5-1 vòng rồi hãm chặt vít hoặc đai ốc điều chỉnh lại.

- Đối với cơ cấu phân phối khí dùng cần bẩy không điều chỉnh thì việc kiểm tra cơ cấu như

sau:

1. Quay trục khuỷu động cơ đến thời điểm điều chỉnh của con đội cần kiểm tra (giống như

các đònh thời điểm chỉnh khe hở nhiệt trong cơ cấu phân phối khí dùng con đội cơ khí).

2. Ấn nặng tay vào đuôi cần bẩy để ép đũa đẩy lên con đội trong vài phút để cho pit-tông

con đội di chuyển xuống đến đáy và nâng đầu cần bẩy lên. Đối với cần bẩy tựa lên đế cầu phải

dùng dụng cụ chuyên dùng bẩy vào đầu cần bẩy để vừa nâng đầu cần bẩy lên vừa ép đuôi cần

bẩy xuống

3. Dùng thước lá đo khe hở giữa đuôi xupáp và đầu cần bẩy trong khi vẫn giữ tay ép đũa

đẩy xuống hình 5.I-45. Khe hở này tùy thuộc vào các động cơ và thường dao động trong khoảng

0,5-2 mm. Nếu khe hở không đảm bảo yêu cầu thì có thể thay đũa đẩy khác có chiều đài thích

hợp. Trong trường hợp khe hở nhỏ hơn mức yêu cầu, có thể cho phép mài bớt đuôi xupáp, lượng

mài tối đa không quá 0,5 mm hoặc mài bớt đũa đẩy (nếu có thể)



167