Cách quản lý hành vi của trẻ khuyết tật trí tuệ

Cách quản lý hành vi của trẻ khuyết tật trí tuệ

H/ả: sưu tầm

  1. Luôn giữ bình tĩnh
  2. Hãy nghĩ tới ngôn ngữ dễ hiểu: dùng tên để thu hút sự chú ý của trẻ, dùng các từ quan trọng, sử dụng các câu ngắn.
  3. Tạo chương trình cố định trong môi trường, ví dụ: sử dụng các biểu tượng, nếp sinh hoạt hàng ngày.
  4. Nhìn thế giới theo cách nhìn của trẻ. Liệu chúng có sợ, bối rối, hay tức giận hoặc không hiểu những gì mà chúng được yêu cầu không?
  5. Hãy rõ ràng và tích cực. Hãy nói những gì bạn muốn, không nói những gì bạn không muốn
  6. Dùng cách đánh lạc hướng khi bạn nhìn thấy vấn đề có thể đang nhen nhúm. Hãy khuyến khích một điều gì đó dễ chịu hơn.
  7. Hãy thống nhất trước sau như một, không được thay đổi nguyên tắc. Một khi bạn quyết định quản lý hành vi, hãy kiên nhẫn.
  8. Hãy luôn có óc hài hước. Thay đổi hành vi là một công việc rất khó, vì vậy hãy duy trì sự tích cực.
  9. Đừng mong đợi sự thay đổi chỉ trong một đêm. Sự thay đổi tích cực sẽ chỉ đến khi nó là kết quả của:
  •  Sự hiểu biết về hành vi trẻ tự kỷ
  • Lập kế hoạch
  • Thống nhất
  • Kiên nhẫn

Sử dụng chiến lược dạy theo một chương trình cố định để ngăn ngừa những hành vi có vấn đề

Những khó khăn trong việc hiểu và những vấn đề về tổ chức và ghi nhớ theo chuỗi làm cho trẻ Tự kỷ khó biết được người ta mong đợi ở chúng điều gì. Một chương trình cố định sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn này. Ví dụ:

  • Nề nếp sinh hoạt hàng ngày giúp gạt bỏ đi sự lo lắng
  • Thời gian biểu bắt mắt và những chỉ dẫn viết sẽ làm giảm sự bối rối và làm cho những mong đợi trở nên rõ ràng hơn.
  • Định sẵn những góc dành riêng cho những hoạt động riêng biệt nào đó. Ví dụ: bàn ăn cho bữa tối, ghế dựa để dành cho thời gian kể chuyện, v.v
  • Sự thống nhất giúp trẻ hiểu được những mong đợi của người lớn. Ví dụ: sử dụng cùng một câu nói mỗi khi bạn đưa ra một yêu cầu nào đó.
  • Việc thiết lập một giới hạn rõ ràng, ví dụ như giới hạn về thời gian sẽ làm giảm đi sự lo lắng và giúp trẻ hiểu. Ví dụ: Thêm một chuyện nữa rồi sau đó lên giường nhé.

Recent Posts

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. QUẢN LÝ HÀNH VI CỦA TRẺ TỰ KỶ 1. Can thiệp hành vi theo hướng phân tích hành vi (ABA) Các phương pháp theo hướng Phân tích hành vi chủ yếu dựa trên những nguyên tắc khoa học về hành vi giúp trẻ có được cách thể hiện mang tính xã hội và giảm được những hành vi có vấn đề. Việc can thiệp theo hướng phân tích hành vi cho trẻ tự kỷ tập trung chủ yếu vào dạy những đơn vị hành vi được chia nhỏ một cách có hệ thống. Vì hầu hết các trẻ tự kỷ đều không thể hiện được những kỹ năng thông thường và tương đối đơn giản như: nhìn vào mắt người khác, giao tiếp và tương tác xã hội… Do vậy, những kỹ năng này cần được chia thành các bước nhỏ hơn để dạy. Trong quá trình dạy chủ yếu sử dụng các tình huống dạy một - một. Bắt đầu mỗi bước dạy, giáo viên cần đưa ra những yêu cầu hoặc gợi ý thật cụ thể. Đôi khi có thể nhắc cho trẻ (ví dụ như cầm tay trẻ) để giúp trẻ bắt đầu thực hiện. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc nhắc hay gợi ý trẻ cũng cần được cân nhắc và phải giảm dần để tránh cho trẻ trở nên thụ động và phụ thuộc vào các gợi ý đó. Sau mỗi lần trẻ thực hiện xong cần phải củng cố bằng cách khen thưởng cho trẻ. Mục đích chủ yếu ở đây là tạo cho trẻ một môi trường học vui vẻ và thoải mái. Một mục tiêu nữa là dạy trẻ cách phân biệt các kích thích khác nhau. Ví dụ như phân biệt tên của mình trong số các âm thanh, lời nói khác nhau; phân biệt màu sắc, hình dạng, các con chữ, con số; phân biệt hành vi phù hợp và không phù hợp… Không củng cố khi trẻ thể hiện những hành vi có vấn đề (ví dụ như hờn dỗi kéo dài, hành vi rập khuôn, tự kích thích…). Thêm vào đó, trẻ cần được giúp đỡ để được tham gia vào những tình huống có hành vi phù hợp nhằm tránh cho trẻ lại thể hiện những hành vi không mong muốn. Việc dạy trẻ cũng cần phải linh hoạt, các tiết dạy cần lặp đi lặp lại nhiều lần. Ban đầu tiết dạy có thể lặp đi lặp lại thường xuyên cho tới khi trẻ có thể tự mình thực hiện được. Việc thể hiện hành vi của trẻ cần được ghi lại và đánh giá theo những tiêu chí cụ thể và khách quan. Ngoài ra, chúng còn cần được biểu đồ hóa để cha mẹ hay giáo viên của trẻ có thể nắm được một cách khái quát sự phát triển của trẻ và giúp họ điều chỉnh chương trình dạy. Mỗi trẻ cũng như mỗi kỹ năng cần dạy lại yêu cầu một chương trình dạy và quy định thời gian tiết dạy khác nhau. Do vậy, mỗi trẻ cần một cách chỉ dẫn khác nhau, phụ thuộc vào các bước thực hiện kỹ năng và cách học tập của từng trẻ. 2. Những điều cần lưu ý trong can thiệp hành vi. 2.1. Hiểu về khuyết tật của trẻ Vấn đề hành vi hầu như nằm ngoài khả năng kiểm soát của trẻ. Do vậy điều đầu tiên là cha mẹ phải hiểu trẻ cũng như khuyết tật của trẻ và phải chấp nhận thực tế bởi vì sự bắt buộc hay trừng phạt trẻ sẽ chẳng đem lại hiệu quả cần thiết.
  2. Không nên phê bình hay phạt trẻ vì những điều mà trẻ không làm được. Cha mẹ nên hiểu và phân biệt được một cách rõ ràng những gì trẻ “không thể làm” và những gì trẻ “không làm” vì hầu hết những trẻ này không cố tình thể hiện những hành vi không mong muốn. 2.2. Suy nghĩ và làm việc một cách tích cực vì trẻ Cần cho trẻ biết được những điều sẽ xảy ra sau khi trẻ thể hiện hành vi. Các hình thức củng cố cần được thực hiện nhiều hơn khi trẻ tỏ ra hợp tác. Vì trong nhiều trường hợp nếu trẻ không nhận được chú ý từ phía giáo viên, cha mẹ, trẻ sẽ cố gắng thể hiện hành vi để được chú ý. Nếu được củng cố đúng lúc một cách phù hợp, trẻ sẽ có nhiều khả năng học được một hành vi mong muốn. Cụ thể là: - Tạo sự khen thưởng bất ngờ với hành vi của trẻ - Khen trẻ ngay lập tức - Đưa ra lời khen thật cụ thể và có mục đích rõ ràng - Khen một cách tích cực - Khen thưởng bằng lời nói đi kèm với các biểu lộ trên khuôn mặt như cười, nhìn vào mắt trẻ. - Có thể có những hành vi khác như xoa đầu, ôm hay hôn trẻ đi kèm với lời khen. - Đừng chỉ khen những khi trẻ biểu hiện hành vi một cách hoàn hảo. Hãy khen và củng cố bất cứ khi nào ta cảm thấy trẻ có thể thành công. - Hãy khen bất cứ khi nào ta thấy trẻ có biểu hiện hành vi mong muốn. - Khen trẻ trước mặt trẻ khác. Luôn tạo và duy trì mối quan hệ tích cực với trẻ. Cha mẹ cần cố gắng tạo ra một hoạt động thú vị và tham gia vào hoạt động này cùng với trẻ càng thường xuyên càng tốt, ít nhất một hoặc hai lần mỗi tuần. 2.3. Giao tiếp rõ ràng. Các trẻ này cần sử dụng giao tiếp hay các chỉ dẫn ngắn gọn, rõ ràng. Các chỉ dẫn cần phải rõ ràng, chính xác và được củng cố thường xuyên. Những chỉ dẫn cho trẻ nên được đưa ra dưới dạng câu khẳng định hơn là câu phủ định. Ví dụ nên nói “Hãy đặt chân xuống sàn” thay vì “con không được đặt chân lên bàn”. Trong quá trình dạy trẻ cần phải biết chắc chắn là trẻ đã nắm được các quy tắc và những gì trẻ cần phải làm theo. Cụ thể là: - Giữ lấy vai của trẻ để trẻ có thể ngồi yên trong khi đưa ra lời chỉ dẫn - Nhìn vào mắt trẻ - Nói rõ ràng, chính xác. - Liên tục yêu cầu trẻ chú ý và làm theo chỉ dẫn
  3. - Cần lưu ý những biện pháp như la mắng, làu bàu, giận dữ, tranh cãi… sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn. - Yêu cầu trẻ nhắc lại yêu cầu vừa được đưa ra. Tỏ ra không để khi cần thiết - Cha mẹ hoàn toàn không nên để ý đến những hành vi như thái độ phản đối hay tỏ ra hỗn xược của trẻ. - Không nên để ý tới những cơn hờn dỗi, la hét bằng cách tỏ ra không nghe thấy gì và không quan tâm đến điều đó. - Cha mẹ cần cho trẻ hiểu được mình muốn nói bằng cách: nhìn vào mắt trẻ, nhắc lại yêu cầu với giọng nói có ngữ điệu rõ ràng (tuy nhiên không được nói quá to), âm lượng của giọng nói phải rõ ràng, đủ nghe… 2.4. Điều khiển được quá trình dạy/tình huống. - Cha mẹ cần tránh để mất kiểm soát tình huống. - Khi cần phê bình trẻ cũng cần kết hợp với khen ngợi những điểm tích cực của trẻ. - Cha mẹ cần tránh những phê bình, nhận xét có thê làm cho trẻ cảm thấy bị tổn thương. Điều này có thể làm tổn hại đến mối quan hệ với trẻ. 2.5. Kỳ vọng thực tế. Cha mẹ không nên kỳ vọng vào việc giải quyết nhanh chóng các vấn đề về hành vi của trẻ. Không nên cứ cố gắng giải quyết tất cả các hành vi không mong muốn cùng một lúc là mỗi lần nên chọn nhiều nhất một hoặc hai hành vi quan trọng nhất để dạy trẻ riêng. Việc chọn các hành vi để dạy phụ thuộc vào từng gia đình và mức độ mà hành vi đó có ảnh hưởng tới trẻ và gây hậu quả không tốt sau này. 3. Giới thiệu đặc điểm và cách can thiệp của một số hành vi có vấn đề. 3.1. Các hành vi tự kích thích hoặc rập khuôn. Hành vi rập khuôn hay tự kích thích tức là sự vận động một cách lặp đi lặp lại các bộ phận cơ thể hoặc các đồ vật. Hành vi này thường phổ biến ở các trẻ khuyết tật, chậm phát triển. Tuy vậy hành vi này thường xuất hiện nhiều ở các trẻ em Tự kỷ. Trên thực tế, nếu một trẻ nào đó mắc một loại khuyết tật phát triển khác với tự kỷ mà có những biểu hiện của hành vi tự kích thích, người ta thường gọi đó là những trẻ có hành vi tự kỷ. Hành vi rập khuôn có thể liên quan đến một hoặc tất cả các giác quan. Chúng tôi xin đưa ra đây năm giác quan chủ yếu và một số ví dụ về hành vi rập khuôn. Giác quan Các hành vi rập khuôn Thị giác Nhìn trừng trừng vào bóng đèn hoặc các vật phát sáng, nheo mắt liên hồi, hay giơ ngón tay trước mắt, hay vỗ tay. Thính giác Hay đập đập vào tay, bật bật các ngón tay cho tạo thành âm thanh, hay phát ra các âm thanh từ miệng
  4. Xúc giác Hay dùng tay hoặc các vật khác tự chà vào da mình. Cũng có thể chúng còn hay tự cào cấu vào da mình Tiền đình Hay đu đưa thân mình từ trước ra sau hoặc hai bên Vị giác Hay đưa các đồ vật hoặc ngón tay lên miệng Khứu giác Hay ngửi các đồ vật, thậm chí người khác Các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều lý do khác nhau lý giải cho các hành vi này. Một số lý thuyết cho rằng những hành vi này gây ra cho trẻ sự kích thích giác quan (nghĩa là giác quan của trẻ ở ngưỡng quá thấp). Do sự suy giảm chức năng ở Hệ thần kinh trung ương hay hệ thần kinh ngoại biên, cơ thể của trẻ thể hiện nhu cầu được kích thích, do vậy trẻ bộc lộ những hành vi này nhằm kích thích hệ thần kinh. Một lý thuyết khác thì lại cho rằng những hành vi này nhằm giải phóng lượng betaendorphins trong cơ thể của trẻ (những chất trong cơ thể giống như thuốc phiện) và tạo cho trẻ khoái cảm bên trong cơ thể. Một trường phái lý thuyết khác cho rằng những hành vi này nhằm mục đích làm cho trẻ bình tĩnh trở lại (như trong trường hợp giác quan của tẻ ở ngưỡng quá cao (quá thấp?)). Điều này có nghĩa là môi trường xung quanh quá kích thích tẻ và trẻ ở trong trạng thái quá tải về cảm giác. Kết quả là trẻ tham gia vào những hành vi này nhằm thoát khỏi môi trường quá nhiều yếu tố kích thích. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng những hành vi rập khuôn có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình chú ý và học tập của trẻ. Một điều thú vị là những hành vi này thường là những hình thức củng cố tích cực có hiệu quả nếu trẻ được phép biểu hiện những hành vi này sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao. Có nhiều cách khác nhau làm giảm bớt hoặc loại trừ các hành vi rập khuôn ví dụ như các bài tập thể dục hay cung cấp cho trẻ những dạng kích thích đa dạng và phù hợp hơn về mặt xã hội (ví dụ như nhai kẹo cao su thay vì tự cắn tay). Ngoài ra, người ta còn sử dụng thuốc nhằm giảm thiểu những hành vi không mong muốn này, tuy nhiên cũng không rõ ràng là liệu thuốc có tác dụng trong việc giảm thiểu hành vi không mong muốn một cách trực tiếp (ví dụ như kích thích nội tại trong cơ thể của trẻ) hay gián tiếp (làm chậm lại sự vận động toàn bộ của trẻ) hay không. Ở một mức độ nào đó, chúng ta cũng đã có những biểu hiện của hành vi tự kích thích, ví dụ như khi buồn hoặc lo lắng, chúng ta thường có những hành vi như cắn đầu bút, gõ gõ ngón chân, cắn tóc, cắn ngón tay, nghiến răng, nhai kẹo… Tuy nhiên đối với trẻ tự kỷ những hành vi này được coi là có vấn đề vì chúng có thể là những nỗi bận tâm ám ảnh với chính đứa trẻ và không dễ điều khiển. Đây chính là một trong những đặc điểm chẩn đoán trẻ tự kỷ. Các ví dụ về những hành vi của trẻ tự kỷ bao gồm sự vận động lặp đi lặp lại ví dụ như hay tự đập vào người, vỗ tay, chạy vòng quanh nhà, tự chọc vào cơ thể, nhẩy lên hoặc vỗ tay đen đét một cách không thích hợp. Các dạng hành vi tự kích thích khác có thê gồm các thao tác với đồ vật (ví dụ trẻ cứ cuộn cuộn một cái dây hoặc tờ giấy…), cứ nhìn chằm chằm vào một vật nào đó một
  5. cách liên tục. Các âm thanh phát ra rất vô nghĩa và khó hiểu giống như ậm ừ, lúng búng trong cổ họng hoặc gào thét the thé hoặc nhắc đi nhắc lại. 3.2. Hành vi tự xâm hại. Hành vi tự xâm hại là những hành vi có thể gây ra những tổn thương ở các mô tế bào như phồng rộp, sưng tấy hay trầy xước. Những dạng hành vi chủ yếu là đập đầu, cắn tay, cào cấu hay chà xát một cách thái quá. Có hai trường phái lý thuyết lý giải tại sao lại xuất hiện những hành vi này, cả về mặt sinh lý và xã hội. Một số cách giải thích theo lý thuyết về sinh học (có gợi ý cách điều trị) bao gồm: 1) Những hành vi này giải phóng beta-endorphines trong não bộ và tạo cho cá nhân sự khoái cảm nội tại (beta-endorphines là một chất nội sinh có thành phần giống như thuốc phiện tồn tại trong não). Cách điều trị gợi ý: để giảm các hành vi này, có thể cho trẻ sử dụng naltrexone, một chất gây ức chế beta- endorphines. 2) Những hành vi tự xâm hại xảy ra một cách đột ngột có thể nguyên nhân từ chứng tai biến có tác dụng phụ của thuốc. Những tai biến này không có mối liên hệ một cách điển hình với những hành vi đặc trưng của chứng tai biến thông thường nhưng lại có biểu hiện bất thường trong điện não đồ. Cách điều trì gợi ý: những người này nên được chụp điện não đồ để xác định hành vi tự xâm hại đó có liên quan đến chứng tai biến do tác dụng của thuốc hay không. 3) Những hành vi như tự đập vào đầu hay vào tai có thể xuất phát từ nguyên nhân viêm tai giữa. Cách điều trị gợi ý: nên đưa trẻ đi khám tai. 4) Những hành vi này cũng có thể xuất phát từ việc trẻ quá bức xúc (ví dụ như tức giận, hờn dỗi thái quá) và do vậy trẻ biểu hiện những hành vi này như một sự giải toả căng thẳng diễn ra trong cơ thể nó. Cách điều trị gợi ý: Nên cố gắng giảm mức độ bức xúc thái quá của trẻ bằng các hình thức giải trí, trị liệu, bằng các hình ảnh kích thích thị giác, bài tập thể dục… 5) Trong một số trường hợp, hành vi tự xâm hại có thể là một dạng của hành vi tự kích thích, rập khuôn. Điều này có nghĩa là những hành vi này xuất hiện lặp đi lặp lại, tạo cho trẻ sự kích thích, bức xúc qua giác quan. Cách điều trị gợi ý: Trẻ cần được trị liệu phối hợp các giác quan để làm cho các giác quan trở lại bình thường. Một số lý thuyết về xã hội lý giải về hành vi này bao gồm: 1) Một số người biểu hiện những hành vi này nhằm thu hút sự chú ý của người khác. Cách điều trị gợi ý: mọi người xung quanh cần phớt lờ khi trẻ có những hành vi này để trẻ thấy rằng hành vi này không giúp gì cho chúng trong việc thu hút sự chú ý của người khác. 2) Một số trẻ biểu hiện hành vi này nhằm trốn tránh thực hiện nhiệm vụ. Cách điều trị gợi ý: Cần yêu cầu trẻ phải hoàn thành nhiệm vụ hơn là trốn tránh không thực hiện. Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được đưa ra trong lý luận nghiên cứu nhưng cũng có nhiều khả năng là những hành vi này liên quan đến sự quá nhạy cảm
  6. đối với những âm thanh từ môi trường xung quanh. Ví dụ: nếu một âm thanh nào đó gây cho trẻ sự khó chịu, chúng có thể phản ứng bằng cách tự đập vào đầu hay tai mình. Cách điều trị gợi ý: nên cho trẻ được học làm quen với các âm thanh từ môi trường xung quanh. Có nhiều nguyên nhân gây nên những vấn đề về hành vi. Cách tốt nhất để xác định lý do nào xuất hiện của các hành vi này là phân tích hành vi. Điều này bao gồm cả việc phân tích những gì xảy ra trước hành vi cũng như những gì xảy ra ngay sau hành vi. Nếu chúng ta có thể loại bỏ những ảnh hưởng về mặt xã hội có thể đối với hành vi, lúc đó cần phải điều tra thêm các nguyên nhân về mặt sinh lý học.


Page 2

YOMEDIA

Các phương pháp theo hướng Phân tích hành vi chủ yếu dựa trên những nguyên tắc khoa học về hành vi giúp trẻ có được cách thể hiện mang tính xã hội và giảm được những hành vi có vấn đề. Việc can thiệp theo hướng phân tích hành vi cho trẻ tự kỷ tập trung chủ yếu vào dạy những đơn vị hành vi được chia nhỏ một cách có hệ thống. Vì hầu hết các trẻ tự kỷ đều không thể hiện được những kỹ năng thông thường và tương đối đơn giản như: nhìn vào mắt người khác,...

14-06-2013 418 42

Download

Cách quản lý hành vi của trẻ khuyết tật trí tuệ

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.