Cách tính lãi suất nợ quá hạn trung bình năm 2024

Hiện nay, có rất nhiều tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng giữa các bên trong quan hệ Kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa có nhiều quy định trực tiếp điều chỉnh về vấn đề lãi suất đối với bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng. Điều này dẫn đến việc xác định mức lãi suất quá hạn trên thực tế gặp nhiều khó khăn và đòi hỏi pháp luật cần phải quy định mức lãi suất quá hạn một cách rõ ràng, cụ thể để thuận tiện cho việc áp dụng, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng trong quan hệ Kinh doanh thương mại.

1. Quy định về mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường

Theo quy định pháp luật hiện hành, vấn đề về tiền lãi do chậm thanh toán được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật thương mại năm 2005.

Căn cứ theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 về lãi suất thì:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Căn cứ theo quy định Điều 306 Luật thương mại năm 2005 thì “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Như vậy, theo quy định trên thì đối với quan hệ kinh doanh thương mại, bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu bên vi phạm trả tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường. Tuy nhiên, Luật thương mại 2005 chưa quy định rõ ràng, cụ thể về cách xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường nêu trên.

Ngày 15/3/2019, Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm đã chính thức có hiệu lực, theo đó, căn cứ theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP như sau: “Trường hợp hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh tại Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 thì khi xác định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,…) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán (thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Như vậy, theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP thì mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường mà Tòa án căn cứ để quyết định mức lãi suất chậm trả phải thỏa mãn các điều kiện:

– Là mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 Ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam…) và các Ngân hàng thương mại này trên phải có trụ sở, chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở;

  • Là mức lãi suất nợ quá hạn được tính tại thời điểm xét xử sơ thẩm (Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác).

2. Việc áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường hiện nay

So với Luật thương mại năm 1997 quy định “Bên vi phạm có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả” thì Luật thương mại năm 2005, Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP đã có thay đổi đáng kể khi đưa ra quy định về việc áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 ngân hàng thương mại có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán để quyết định mức lãi suất chậm trả.

Việc quy định lãi suất nợ quá hạn theo mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường nêu trên sẽ giúp đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng (vì lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường thường cao hơn mức lãi suất nợ quá hạn cơ bản do Ngân hàng nhà nước ban hành). Tuy nhiên qua thực tiễn thì việc áp dụng mức lãi suất này vẫn còn nhiều điểm bất cập, bởi:

Thứ nhất, quy định về lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường hiện nay còn chưa cụ thể, bao quát dẫn đến việc áp dụng cứng nhắc trên thực tế.

Cụ thể, tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP chỉ quy định áp dụng mức lãi suất quá hạn tối thiểu của 03 Ngân hàng thương mại mà không giới hạn tối đa bao nhiêu Ngân hàng. Đồng thời cũng chỉ có 03 Ngân hàng là Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được liệt kê tại Điều khoản này. Như vậy, việc quy định như trên rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng cứng nhắc trong thực tiễn xét xử, đó là dẫn đến việc Hội đồng xét xử căn cứ luôn vào mức lãi suất 03 Ngân hàng thương mại này để tính mức lãi suất quá hạn mà rất ít khi xét thêm mức lãi nợ quá hạn của nhiều Ngân hàng thương mại khác, dẫn đến việc chưa đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự trong vụ án.

Thứ hai, việc xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường hiện này khá khó khăn, tốn kém thời gian bởi một số nguyên nhân sau:

Một là, mức lãi suất nợ quá hạn của các Ngân hàng thương mại thường không cố định và còn phụ thuộc vào đối tượng, mục đích, thời hạn vay.

Theo thực tế hiện nay thì mức lãi suất quá hạn tại các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng thường quy định bằng 150% mức lãi suất trong hạn. Tuy nhiên, mức lãi suất trong hạn tại Ngân hàng (đặc biệt là Ngân hàng thương mại) được áp dụng khác nhau phụ thuộc vào từng đối tượng, mục đích, thời hạn vay và luôn có sự biến động, điều chỉnh theo biên độ 3 tháng/lần, 6 tháng/lần hoặc 12 tháng/lần. Do đó, để có căn cứ xác định mức lãi suất bảo đảm đúng quy định pháp luật, Tòa án cũng như các đương sự có thể phải gửi rất nhiều văn bản, công văn đến các Ngân hàng thương mại để đề nghị cung cấp thông tin về mức lãi suất trong hạn, quá hạn tại thời điểm xét xử. Điều này khiến việc giải quyết vụ án Kinh doanh thương mại trở nên phức tạp và tốn kém thời gian hơn.

Bên cạnh đó, chính do mức lãi suất quá hạn của các Ngân hàng thương mại không cố định cũng là nguyên do dẫn đến nhiều Bản án do Tòa án ban hành chưa có nhận định rõ ràng về việc áp dụng mức lãi suất quá hạn. Theo đó, tại nhiều Bản án chỉ nêu cụ thể mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường của các Ngân hàng thương mại được áp dụng chứ không nêu rõ mức lãi suất của từng Ngân hàng tại thời điểm xét xử, từ đó tính ra mức lãi suất trung bình. Thậm chí, một số Bản án còn nhận định về việc mức lãi suất quá hạn do đương sự đề nghị là phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nên được chấp nhận mà không đưa ra mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường là bao nhiêu. Điều này có thể sẽ dẫn đến việc các đương sự trong vụ án không hiểu rõ về mức lãi suất nợ quá hạn trung bình được Tòa án áp dụng tại thời điểm xét xử.

Hai là, nhiều trường hợp đương sự đã có văn bản đề nghị Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin về mức lãi quá hạn, thế nhưng không phải trường hợp nào Ngân hàng cũng đồng ý cung cấp thông tin cho đương sự.

Trên thực tế, trong các vụ án Kinh doanh thương mại, Tòa án cũng như các đương sự, đặc biệt là nguyên đơn đã phải gửi rất nhiều văn bản, công văn gửi tới trụ sở, chi nhánh Ngân hàng thương mại hoặc văn phòng giao dịch của các Ngân hàng thương mại này trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở để xác định được mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm xét xử.

Đối với văn bản, công văn đề nghị của Tòa án thì Ngân hàng thương mại hầu hết sẽ có văn bản cung cấp thông tin về mức lãi suất quá hạn cho Tòa án để phục vụ việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đối với các văn bản đề nghị của đương sự thì rất nhiều trường hợp Ngân hàng thương mại không đưa ra văn bản phản hồi đối với đề nghị của đương sự. Trường hợp Ngân hàng thương mại có văn bản phản hồi thì đa số các văn bản phản hồi này cũng chưa cung cấp đầy đủ, rõ ràng mức lãi suất quá hạn. Thậm chí, một số văn bản phản hồi của Ngân hàng thương mại còn khẳng định về việc Ngân hàng không đồng ý cung cấp thông tin về mức lãi suất quá hạn và nêu ra lý do về việc không đồng ý cung cấp thông tin này.

Như vậy, mặc dù Luật thương mại năm 2005, Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP đã có các quy định về mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường đối với Bên vi phạm hợp đồng trong quan hệ Kinh doanh thương mại, tuy nhiên việc áp dụng các quy định này hiện nay còn nhiều bất cập, do đó đòi hỏi phải tiến hành sửa đổi, bổ sung mới có thể đáp ứng yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng.

3. Đề xuất hoàn thiện quy định về mức lãi suất quá hạn

Từ các phân tích về những bất cập của việc áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường nêu trên, nhận thấy việc áp dụng các quy định này còn chưa chặt chẽ và đồng bộ, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Theo đó, đề xuất sửa đổi cụ thể như sau:

Phương án thứ nhất, sửa đổi quy định về mức lãi suất quá hạn tại Điều 306 Luật thương mại năm 2005:

Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn theo quy định của Bộ luật Dân sự;

Trường hợp các bên không thỏa thuận rõ mức lãi suất thì mức lãi suất được xác định là 10%/năm đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của bên vi phạm hợp đồng.

Phương án thứ hai, cần quy định biện pháp cụ thể để các đương sự có thể xác định được mức lãi suất theo quy định tại Luật thương mại năm 2005 và Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP như: Ngân hàng thương mại phải phối hợp cung cấp mức lãi suất quá hạn theo yêu cầu của đương sự khi có căn cứ cho rằng đương sự này đang trong một vụ án của Tòa án có thẩm quyền; đương sự có quyền đề nghị Tòa án tiến hành xác minh mức lãi suất quá hạn của các Ngân hàng thương mại tại thời điểm xét xử…