Từ xưng h� tiếng Việt kh�ng chỉ d�ng để �xưng� v� �h�� nhằm định vị mối quan hệ giữa c�c đối tượng khi giao tiếp m� c�n l� phương tiện biểu đạt t�nh cảm, g�p phần tạo n�n nhịp cầu giao cảm giữa đ�i bờ t�m hồn. Nhiều nh� nghi�n cứu đ� n�i về sự phong ph� của lớp từ xưng h� tiếng Việt. Sự phong ph� đ� kh�ng chỉ cho thấy ở số lượng từ xưng h� m� c�n thể hiện bởi c�ch ph� diễn. Trong ca dao, d� l� c�ch n�i trực tiếp hay ẩn dụ, v� von� vẫn hiện l�n h�nh ảnh hai nh�n vật đang bộc bạch nỗi l�ng hoặc d� �, trao lời. V� trong qu� tr�nh t�m hiểu đ�, việc d�ng c�c từ để �xưng� v� �gọi� nhau g�p phần thể hiện bao cung bậc t�nh cảm của người trong cuộc. Trong phạm vi b�i viết n�y, ch�ng t�i t�m hiểu c�ch xưng h� trong ca dao trữ t�nh trong quyển �Văn học d�n gian Đồng bằng s�ng Cửu Long�[2], qua đ� thử cảm nhận về sắc th�i biểu cảm của lớp từ rất đa dạng v� phong ph� n�y c�ng vẻ ri�ng trong c�ch n�i năng của người d�n Nam bộ. C�ng thể hiện mối quan hệ t�nh cảm lứa đ�i, thế m� c� đến 7 cặp từ xưng h�. Rất kh� so s�nh cung bậc t�nh cảm giữa những cặp từ xưng h� tr�n, nhưng ch�ng ta cũng dễ d�ng nhận thấy sự kh�c nhau về sắc th�i biểu cảm cũng như mối quan hệ tiệm tiến hay tiệm tho�i của hai nh�n vật. C� thể n�i, những cặp từ xưng h� n�y đ� thể hiện đầy đủ những bước �thăng- trầm�, �li � hợp�� của t�nh y�u đ�i lứa. Theo ch�ng t�i, cặp �đ� � đ�y� thể hiện t�nh cảm giữa hai người c�n một khoảng c�ch nhất định. N� chỉ mới dừng ở mức đ�nh tiếng, thăm d� v� phần n�o đ� c�n l� t�nh y�u đơn phương. �Đ�y� thường l� người mở lời d� hỏi hay than th�n tr�ch phận, tiếc nuối duy�n nợ kh�ng th�nh: Với cặp từ �ta- bạn�, t�nh cảm vẫn c�n xa dẫu giữa hai người đ� c� sự giao cảm. Mối quan hệ t�nh cảm ở đ�y cũng c� khi thuộc về qu� khứ v� để lại cho một trong hai người nỗi đau thật kh� ngu�i ngoai: Cặp �thiếp- ch�ng� d� c� sắc th�i biểu cảm dương t�nh nhưng c� phần khu�n s�o, xa lạ với t�nh cảm ch�n chất, mộc mạc, s�i nổi v� tự nhi�n của người d�n lao động. Cặp �anh- em� thể hiện sắc th�i t�nh cảm tự nhi�n, gần gũi v� phổ biến nhất. H�ng r�o ngăn c�ch đ� được khai th�ng; sự e ấp của c�i thuở �T�nh trong như đ� mặt ngo�i c�n e� qua đi để sang một bước ngoặt mới về t�nh cảm: Cuộc �c�ch mạng� về lối xưng h� n�y thực ra kh�ng phải dễ d�ng. Nếu kh�ng chuẩn bị đầy đủ, chưa ch�n muồi m� vội v�ng �qu� độ� th� kh�ng kh�o sẽ �x�i hỏng bỏng kh�ng�. Cặp xưng h� �ta (em)- m�nh� đ� vươn tới sự gần gũi, th�n quen, nồng thắm v� khoảng c�ch giữa hai người dường như kh�ng c�n nữa. Từ �anh� (hoặc �em�) đến �m�nh� l� một bước tiến d�i về t�nh cảm, một sự thay đổi về chất trong mối quan hệ. Ch�nh v� thế m� ch�ng ta thấy v� sao để gọi được tiếng �m�nh� thiết tha ấy, c� g�i đ� trải qua bao nỗi đắn đo, lo lắng: Từ c�ch xưng h� �ta- m�nh� dẫn đến lối xưng h� m� khoảng c�ch giữa hai người đ� được xo� nho�, kh�ng c�n giới hạn. Đ� l� c�ch n�i gộp kiểu như �Đ�i ta�� hay �Ch�ng m�nh��: C�i dấu nối ngắn ngủi tr�n văn tự đ� biến mất nhường chỗ cho sự h�a hợp, ho� nhập, ho� đồng, ho� �m, ho� điệu, ho� th�n� của lứa đ�i. Những cặp từ xưng h� đ� x�t xuất hiện trong ca dao cả nước. B�n cạnh đ� l� lớp từ xưng h� v� c�ch xưng h� mang đậm sắc th�i v�ng, tuy kh�ng nhiều nhưng cũng g�p phần tạo n�n sự đa dạng, phong ph� v� mang đậm m�u sắc địa phương m� ca dao Đồng bằng s�ng Cửu Long l� một minh chứng. Cặp từ xưng h� �qua � bậu� mang đậm sắc th�i địa phương. Tuy nhi�n, qua khảo s�t ch�ng t�i thấy cặp từ n�y thể hiện mối quan hệ v� t�nh cảm kh� phức tạp. Nếu l� vợ chồng th� mối quan hệ ở đ�y đang c� vấn đề: B�n cạnh đ� l� hai biến thể �anh (em) � bậu� v� �qua � em (anh)�. Những b�i ca dao sử dụng hai biến thể xưng h� n�y thường l� những b�i ca dao tỏ t�nh nhưng thiếu tự tin: C�ch xưng h� �qua- bậu� nay rất �t gặp trong giao tiếp, nhất l� từ �bậu�. Ri�ng từ �qua� thỉnh thoảng c�n được d�ng trong quan hệ kh�ng bằng vai. Trong những cặp từ xưng h� c�n lại, ch�ng ta thấy c� một n�t chung l� ng�i thứ nhất d� l� nam hay nữ, đều xưng h� l� �t�i� hoặc �tui� (biến thể ph�t �m Nam bộ). Đại từ n�y d�ng trong giao tiếp mang t�nh nghi thức th� c� sắc th�i biểu cảm trung t�nh, nhưng nếu d�ng trong giao tiếp kh�ng nghi thức th� c� thể mang sắc th�i biểu cảm �m t�nh. Thực tế cho thấy khi n�i năng h�ng ng�y, d�ng đại từ n�y thường tạo ra sự xa c�ch v� để biểu lộ th�i độ kh�ng đồng t�nh, phản đối hay tạo ra một khoảng c�ch an to�n nếu ta kh�ng muốn t�nh cảm tiến xa. Với hai người vốn đ� th�n quen, c� quan hệ gần gũi, đại từ n�y �t khi d�ng v� nếu c� l� dấu hiệu b�o cho biết sự thay đổi t�nh cảm, th�i độ. (Cũng cần phải n�i th�m, sắc th�i biểu cảm của đại từ �tui� kh�ng ho�n to�n �m t�nh m� c� khi chỉ l� phương tiện để thể hiện sự giận dỗi, tr�ch hờn của hai người đang y�u. L�c n�y, ngữ điệu đ�ng một vai tr� quan trọng). Trong ca dao n�i chung, đại từ �t�i�, vốn mang t�nh chỉ định c� thể cao, �t xuất hiện. Thế nhưng, trong ca dao Đồng bằng s�ng Cửu Long lại c� nhiều m� h�nh xưng h� m� ng�i thứ nhất lại mạnh dạn d�ng �tui� (hoặc �t�i�). Ở đ�y, dường như c� sự m�u thuẫn trong c�ch thể hiện t�nh cảm. Họ bộc lộ c�ng khai, r� r�ng c�i t�i của m�nh khi b�y tỏ t�nh y�u nhưng lại c� phần �thủ thế� kh�ng tự tin, ngại ngần chưa d�m xưng th�n mật với người m�nh thương. Ngay cả tiếng �y�u� trước đ�y thật xa lạ đối với c�c ch�ng trai, c� g�i v�ng s�ng nước (Trong khẩu ngữ Nam bộ, từ �thương� đồng nghĩa với từ �y�u�). Họ d�ng từ �thương� khi thổ lộ nỗi l�ng: Đ�y c� thể l� th�i quen ăn n�i, tuy nhi�n, lối xưng h� tr�n phần n�o tạo một khoảng c�ch v� h�nh. Nhưng phải chăng l� khoảng c�ch cần thiết v� l� dấu hiệu mở để nhờ đối tượng khai th�ng? Con đường đ� thật ra c�n cam go bởi phải qua hai lần thay đổi c�ch xưng h�. Thứ nhất, ng�i thứ hai từ �anh� (hoặc �em�) chuyển sang �m�nh�: Thứ hai, ng�i thứ nhất thay đổi từ �tui� (hoặc �t�i�) c� phần xa c�ch để chuyển sang �anh� (hoặc �em�) như đ� n�i ở tr�n. Sự thay đổi c�ch xưng h� c� khi sẽ diễn ra ch�ng v�nh, chỉ đ�i lần gặp gỡ, nhưng cũng c� khi m�i m�i dừng lại ở bước khởi đầu. Ngo�i ra c�n c� một số c�ch xưng h� đậm chất khẩu ngữ với sắc th�i biểu cảm �m t�nh như: B�n cạnh những c�ch xưng h� được n�i ở tr�n, ch�ng ta c�n bắt gặp c�ch xưng h� m� ng�i thứ nhất hoặc ng�i thứ hai được ẩn đi, phản �nh khuynh hướng gia tộc ho� rất mạnh trong ca dao Đồng bằng s�ng Cửu Long. Đấy l� khuynh hướng d�ng t�n ri�ng hay từ chỉ quan hệ họ h�ng k�m với ng�i thứ trong gia đ�nh. V� dụ như: C�ch xưng h� n�y thường được d�ng phổ biến trong quan hệ h�ng x�m l�ng giềng để thể hiện sự th�n mật, gần gũi như người trong gia đ�nh, d�ng họ. C�n trong t�nh y�u đ�i lứa, c�ch xưng h� n�y cho thấy mối quan hệ giữa hai đối tượng vẫn c�n rất �sơ� d� người n�i đ� c� t�nh, c� �. N� chỉ mới ở mức thăm d�, đ�nh t�n hiệu, c�n �đối t�c� c� bắt t�n hiệu hay chịu giải m� kh�ng th� đ�nh chịu v� chỉ c�n biết��V�i trời��. 3. T�m lại, c�ch xưng h� trong ca dao trữ t�nh Đồng bằng s�ng Cửu Long hết sức phong ph�, đa dạng. Ngo�i việc sử dụng những cặp từ xưng h� thường thấy trong ca dao n�i chung, ch�ng ta c�n thấy những n�t ri�ng mang đậm t�nh địa phương v� phản �nh lời ăn, tiếng n�i, nếp nghĩ của cư d�n v�ng cực Nam của Tổ quốc. Nổi bật nhất l� cặp từ xưng h� �qua- bậu� v� những biến thể của cặp xưng h� n�y. B�n cạnh đ� l� việc sử dụng rất nhiều đại từ �tui� (hoặc �t�i�) ở ng�i thứ nhất. Ngo�i ra, ch�ng ta c�n thấy cả c�ch gọi: �C� Hai, c� Bảy, c� Ba...� ở ng�i thứ hai vốn l� đặc trưng phổ biến của c�ch xưng h� h�ng ng�y trong giao tiếp khẩu ngữ ở Nam bộ. Ở mỗi c�ch xưng h� thể hiện mối quan hệ t�nh cảm kh�c nhau; phản �nh những chặng đường kh�c nhau từ l�c sơ giao đến khi th�nh vợ, th�nh chồng hay những l�c �o le, trắc trở trong t�nh y�u. C�ng một cặp từ xưng h�, nhưng ở mỗi b�i ca dao n� c� thể phản �nh mối quan hệ v� sắc th�i biểu cảm kh�c nhau. Chỉ với ca dao ở một v�ng của Tổ quốc, ch�ng ta đ� thấy sự đa dạng, phong ph� về lớp từ xưng h�, c�ch xưng h� của người Việt. [2] Văn học d�n gian Đồng bằng s�ng Cửu Long�, NXB Gi�o dục 1997 |