Câu hỏi so sánh môn luật tư pháp quốc tế năm 2024

Bài viết so sánh một số quy định chung của tư pháp quốc tế (TPQT) Bỉ với các quy định chung của TPQT Việt Nam, nêu các chủ kiến đánh giá và đưa ra các đề xuất.

Câu hỏi so sánh môn luật tư pháp quốc tế năm 2024

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Thẩm quyền tài phán quốc tế của tòa án

1.1. Cấu trúc của các quy định về thẩm quyền tài phán quốc tế

Một trong những điểm mới rất quan trọng của Bộ luật Tư pháp quốc tế (TPQT) Bỉ[1], là Bộ luật đã từ bỏ chế định xoay quanh tiêu chí quốc tịch của bị đơn. Các văn bản luật trước đây của Bỉ về TPQT quy định rằng, để xác định thẩm quyền của các tòa án cần phải xem xét bị đơn có quốc tịch Bỉ hay quốc tịch nước ngoài. Bãi bỏ các quy định này, Bộ luật TPQT đồng thời bãi bỏ thẩm quyền chung dựa trên tiêu chí quốc tịch Bỉ của bị đơn. Như vậy, Bộ luật đã đưa pháp luật Bỉ vào nhóm Các quốc gia chấp nhận quan niệm thuần túy dân sự về thẩm quyền quốc tế. Kể từ đó, thẩm quyền tài phán quốc tế của các tòa án Bỉ dựa trên không phải các yêu cầu về chủ quyền, mà trên sự công bằng về thủ tục tố tụng và mối quan hệ mật thiết với Bỉ.

Về điểm này, TPQT Bỉ không khác nhiều so với TPQT của Việt Nam, bởi một trong những dấu hiệu quan trọng để xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, đó là sự hiện diện (nơi cư trú nếu là cá nhân[2], trụ sở của pháp nhân) của bị đơn tại Việt Nam[3], hoặc quan hệ là đối tượng của tranh chấp có liên quan tới Việt Nam[4].

Một điểm đáng chú ý nữa là nếu như Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) 2004 của Việt Nam chỉ nêu các căn cứ xác định thẩm quyền chung của tòa án Việt Nam[5], thì Bộ luật TPQT Bỉ lại dành khá nhiều điều luật xác định thẩm quyền tài phán nói chung của Tòa án Bỉ và các trường hợp cụ thể tòa án Bỉ có thẩm quyền tài phán quốc tế. Tại chương thứ nhất (mục 4, các điều từ 5 đến 14) của Bộ luật nêu các nguyên tắc chung về thẩm quyền tài phán quốc tế, trong khi các chương tiếp theo đưa ra các quy định về thẩm quyền tài phán quốc tế chuyên biệt cho từng lĩnh vực cụ thể[6]. Về nguyên tắc, các nguyên tắc riêng này bổ sung cho các quy định chung mà không phủ nhận chúng. Điều này có nghĩa là trong các lĩnh vực khác nhau được Bộ luật điều chỉnh, các tòa án Bỉ có thể xác định thẩm quyền tài phán của mình dựa trên các quy định về thẩm quyền tài phán chuyên biệt liên quan đến vụ việc cần giải quyết hoặc trên các quy định chung về thẩm quyền tài phán, hoặc đồng thời cả hai. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong một số lĩnh vực, Bộ luật TPQT Bỉ có quy định rằng các thẩm quyền chuyên biệt loại trừ việc áp dụng một phần[7], hoặc toàn bộ[8] các quy định chung về thẩm quyền tài phán.

1.2. Căn cứ xác định thẩm quyền tài phán chung của tòa án

  1. Nơi cư trú hoặc nơi sinh sống thường xuyên của bị đơn

Tòa án Bỉ có thẩm quyền tài phán nếu bị đơn có nơi cư trú hoặc nơi sinh sống thường xuyên tại Bỉ khi nộp đơn kiện[9]. Quy định này về cơ bản giống với Điều 635 Bộ luật Tư pháp Bỉ[10], nhưng rõ ràng hơn ở hai điểm: thứ nhất, Bộ luật TPQT đã đưa ra định nghĩa riêng cho các khái niệm “nơi cư trú” (trụ sở) và “nơi sinh sống” (hoạt động) thường xuyên. Quy định mới này có thể làm thay đổi một số giải pháp, đặc biệt, khi bị đơn là một pháp nhân, việc khởi kiện có thể được đưa ra trước tòa án Bỉ khi pháp nhân đó có trụ sở điều lệ hoặc có cơ sở chính tại Bỉ; thứ hai, Bộ luật TPQT đã bãi bỏ quy định về nơi cư trú do bị đơn cung cấp tại Bỉ.

Về điểm này, TPQT Bỉ cũng giống TPQT Việt Nam. Thật vậy, một trong những dấu hiệu cơ bản để xác định thẩm quyền tài phán của tòa án Việt Nam là sự hiện diện của bị đơn trên lãnh thổ Việt Nam[11]. Bộ luật TPQT Bỉ đã có quy định rõ hơn trường hợp có nhiều bị đơn tham gia cùng một vụ kiện. Trong trường hợp này, chỉ cần một trong số các bị đơn có nơi cư trú (trụ sở) hoặc nơi sinh sống (hoạt động) thường xuyên tại Bỉ là tòa án Bỉ có thẩm quyền (Điều 5, § 1, đoạn 2).

  1. Chi nhánh của pháp nhân

Theo các quy định mới của Bộ luật TPQT Bỉ, sự hiện diện của chi nhánh của pháp nhân trên lãnh thổ Bỉ được coi là một căn cứ để xác định thẩm quyền tài phán của tòa án Bỉ đối với các hoạt động của chi nhánh này. Thật vậy, theo Điều 5, § 2, các tòa án Bỉ có thẩm quyền xét xử mọi đơn yêu cầu liên quan đến hoạt động của một chi nhánh của pháp nhân dù pháp nhân này không có trụ sở, cũng như không có nơi hoạt động thường xuyên tại Bỉ, nếu chi nhánh này nằm tại Bỉ vào thời điểm nộp đơn.

Rất tiếc, Bộ luật TPQT Bỉ không cho biết nguyên đơn có thể kiện chi nhánh với tư cách là bị đơn hay phải kiện pháp nhân có chi nhánh nơi phát sinh hoạt động gây tranh chấp tại Bỉ.

TPQT Việt Nam cũng có quy định tương tự. Theo điểm a, khoản 2 Điều 410 Bộ luật TTDS Việt Nam 2004, tòa án Việt Nam có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài mà bị đơn “có cơ quan quản lý, chi nhánh... tại Việt Nam”. Tuy nhiên, chi nhánh của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không được tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, bởi vì chi nhánh không phải là pháp nhân. Khoản 3 Điều 92 BLDS quy định: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền”. Như vậy, chi nhánh chỉ tham gia tố tụng theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức nước ngoài thành lập ra chi nhánh đó. Quy định này đặt ra rất nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử và gây rất nhiều tranh cãi trong giới học thuật. Về lý luận, hiện nay đang tồn tại quan điểm “chính thống” về nguyên nhân chi nhánh của cơ quan, tổ chức nước ngoài cũng như của cơ quan, tổ chức của Việt Nam không có quyền khởi kiện hoặc không thể bị khởi kiện do các chi nhánh nêu trên không phải là pháp nhân, không độc lập về tài chính. Do đó, khi không độc lập về tài chính thì họ không có tài sản để thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự, bao gồm việc thanh toán, bồi thường theo bản án, quyết định của tòa án. Tuy nhiên, quy định của điểm a, khoản 2, Điều 410 Bộ luật TTDS nêu trên là không phù hợp với các quy định của pháp luật chuyên ngành về chế độ tài chính của chi nhánh của một số cơ quan, tổ chức nước ngoài. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1, Điều 2, Nghị định số 57/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ về “chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ và các cam kết của mình theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với quy định này thì chi nhánh ngân hàng nước toài tại Việt Nam hoàn toàn có đủ tư cách là người khởi kiện và bị kiện trong các tranh chấp về dân sự[12].

  1. Khả năng lựa chọn cơ quan tài phán nước ngoài

Trong một số lĩnh vực như hợp đồng, ly hôn, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng..., Bộ luật TPQT Bỉ cho phép các bên được thỏa thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp nước ngoài[13]. Khi các thỏa thuận này hợp pháp thì tòa án do các bên lựa chọn là tòa án duy nhất có thẩm quyền và nếu được yêu cầu thì tòa án Bỉ phải từ chối thẩm quyền[14]. Hiệu lực của các thỏa thuận này phụ thuộc vào ba điều kiện chính:

Thứ nhất, thỏa thuận đó phải liên quan đến lĩnh vực mà các bên được quyền lựa chọn cơ quan tài phán. Việc kiểm tra lĩnh vực mà các bên được quyền lựa chọn cơ quan tài phán phải tuân theo pháp luật Bỉ. Theo thuyết trình giải thích Bộ luật TPQT, việc đánh giá có thể phụ thuộc vào bản chất của mối quan hệ pháp lý đang xem xét và nội dung của các quy định bảo vệ. Về phần mình, thông tư hướng dẫn thi hành khẳng định rằng địa vị pháp lý của các cá nhân thuộc các lĩnh vực mà các bên không được quyền thỏa thuận chọn cơ quan tài phán[15].

Thứ hai, thỏa thuận đó phải liên quan đến các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể sẽ phát sinh từ một mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ. Điều kiện này giống TPQT châu Âu, nhưng được xây dựng mềm dẻo hơn, bởi vì trong TPQT châu Âu, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ này phải có một tính chất quyết định[16].

Thứ ba, điều khoản phải được ký kết hợp pháp. Hiệu lực của điều khoản này được điều chỉnh bởi luật áp dụng cho hợp đồng theo quy định tại Điều 98 của Bộ luật. Khác với Nghị định Bruxelles I, Bộ luật TPQT của Bỉ không xác định các hình thức mà điều khoản phải tuân theo.

Tại Việt Nam, có một số quy phạm cho phép các bên chọn tòa án nước ngoài để giải quyết tranh chấp của mình. Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định: “Các bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, thì có quyền thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc tế trong các quan hệ hợp đồng và chọn trọng tài, tòa án ở một trong hai nước hoặc ở một nước thứ ba để giải quyết tranh chấp”. Tuy nhiên, đây chỉ là quy định chuyên biệt điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể là vận tải hàng hải, chứ không phải là nguyên tắc chung áp dụng cho tất cả các quan hệ hợp đồng. Rất tiếc, hai văn bản luật quan trọng nhất cấu thành TPQT Việt Nam là BLDS và Bộ luật TTDS không có quy định nào cho phép các bên trong một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp nước ngoài.

Thiết nghĩ, trong lĩnh vực hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của Bỉ, nên trao cho các bên quyền tự do không chỉ lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ của mình mà còn cả lựa chọn tòa án nước ngoài để giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ đó. Tất nhiên, quyền lựa chọn này không tuyệt đối, mà phải giới hạn ở những trường hợp tòa án Việt Nam có thẩm quyền chung.

Khi điều khoản lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp trao thẩm quyền cho tòa án Bỉ hợp pháp, thì chỉ tòa án Bỉ mới có thẩm quyền xét xử[17] (Điều 6, § 1). Tuy nhiên, tòa án Bỉ vẫn có thể từ chối thẩm quyền nếu có đầy đủ các tình tiết cho thấy tranh chấp không có bất kỳ mối quan hệ rõ ràng nào với Bỉ. Như vậy, TPQT Bỉ đã gián tiếp chấp nhận học thuyết forum non conveniens[18], cho phép thẩm phán từ chối thẩm quyền của mình vì nhiều lý do, trong đó có lý do vụ việc không có mối liên hệ mật thiết với nước mình.

Về điểm này, TPQT Bỉ có khác biệt với TPQT Việt Nam. Tại Việt Nam, mặc dù có một số dấu hiệu cho thấy sự hiện diện trong thực tế của thuyết forum non conveniens, nhưng chúng không đủ rõ ràng để khẳng định pháp luật Việt Nam chấp nhận thuyết này[19].

Theo Điều 7, Bộ luật TPQT Bỉ, khi điều khoản lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp trao thẩm quyền cho một tòa án nước ngoài hợp pháp, về nguyên tắc buộc thẩm phán Bỉ phải từ chối xét xử khi được yêu cầu. Tuy nhiên, tòa án Bỉ vẫn có thể thụ lý vụ việc mà không cần phải tính đến điều khoản lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp của các bên, trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất, tòa án Bỉ phải dự báo được rằng quyết định của tòa án nước ngoài sẽ không thể được công nhận hoặc thi hành tại Bỉ. Như vậy, thẩm phán Bỉ phải dự đoán tính hợp pháp của một quyết định tương lai có thể sẽ được tòa án nước ngoài do các bên lựa chọn đưa ra. Tính toán này dựa trên các lý do từ chối công nhận bản án, quyết định dân sự của cơ quan tài phán nước ngoài, quy định tại Điều 25 của Bộ luật (quyền bào chữa bị xâm phạm, hậu quả của bản án trái với trật tự công cộng của Bỉ...).

Thứ hai, tòa án Bỉ sử dụng quy định ngoại lệ về thẩm quyền tài phán quốc tế để tránh rơi vào quy định về “từ chối xét xử”[20], quy định tài Điều 11 của Bộ luật.

  1. Bị đơn tự nguyện tham gia phiên tòa

Ngoài các trường hợp trên, tòa án Bỉ còn có thẩm quyền khi bị đơn tự nguyện tham gia phiên tòa mà không phản đối thẩm quyền của tòa án[21]. Chúng tôi không thấy TPQT Việt Nam có quy định tương tự. TPQT Việt Nam dường như không có câu trả lời trong trường hợp các bên đã thỏa thuận chọn trọng tài hoặc tòa án nước ngoài để giải quyết tranh chấp, nhưng khi tranh chấp phát sinh, một bên kiện ra tòa án Việt Nam và bên kia tham gia phiên tòa mà không phản đối thẩm quyền của tòa án được yêu cầu thụ lý. Thiết nghĩ, chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của Bỉ, coi đây là một trường hợp các bên đã có một thỏa thuận mới về lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp.

  1. Thẩm quyền dựa trên mối quan hệ mật thiết

Cuối cùng, tòa án Bỉ có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài “vì cần thiết”. Mặc dù không thỏa mãn các quy định khác của Bộ luật, các tòa án Bỉ vẫn có thẩm quyền khi vụ án có các mối quan hệ mật thiết vởi Bỉ và các đương sự không thể tiến hành thủ tục tố tụng ở nước ngoài, hoặc người ta không thể đòi hỏi một cách hợp lý rằng yêu cầu khởi kiện phải được đưa ra ở nước ngoài (Điều 11). Quy định này thực chất nhằm đảm bảo cho pháp luật Bỉ phù hợp với Điều 6, § 1, Công ước châu Âu về quyền con người và tránh trường hợp từ chối xét xử.

Nếu như tại Việt Nam, nguyên tắc xác định pháp luật dựa trên “mối quan hệ mật thiết nhất” chỉ được áp dụng đối với người không quốc tịch, người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài[22], thì tại Bỉ, phạm vi áp dụng của hệ thuộc luật này rộng hơn rất nhiều. Để viện dẫn thẩm quyền này, tòa án Bỉ phải đáp ứng được hai điều kiện cơ bản. Thứ nhất, việc khởi kiện ra tòa án nước ngoài là không thể hoặc không hợp lý, chẳng hạn trong các hoàn cảnh nguyên đơn không thể tiếp cận thực tế tòa án nước ngoài trong một vụ án công bằng theo cách hiểu của pháp luật châu Âu. Thứ hai, vụ án phải có các mối quan hệ mật thiết với Bỉ.

Đây có thể là một tham khảo hữu ích cho TPQT Việt Nam, vì trong chiến lược cải cách tư pháp, pháp luật Việt Nam có xu hướng trao nhiều quyền hơn cho thẩm phán, nhưng đồng thời cũng có những quy định ràng buộc chặt chẽ thẩm phán hơn, trong đó rất có thể bổ sung vào BLDS quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong trường hợp từ chối xét xử. Nói cách khác, thẩm phán không thể viện dẫn lý do pháp luật không có quy định để từ chối xét xử một vụ việc cụ thể.

đ) Thẩm quyền đối với yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời và biện pháp thi hành

Nếu như trong danh sách các căn cứ xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam không có quy định nào về thẩm quyền của tòa án Việt Nam xét xử các yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì Bộ luật TPQT Bỉ lại có những quy định rất rõ ràng về vấn đề này. Tại Điều 10, Bộ luật TPQT Bỉ quy định, các tòa án Bỉ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời, biện pháp bảo vệ và các biện pháp thi hành ngay cả khi các tòa án này không có thẩm quyền xét xử nội dung vụ án theo các quy định của Bộ luật. Để áp dụng quy định này cần phải thỏa mãn hai điều kiện chính. Thứ nhất, các biện pháp chỉ có thể được đưa ra trong trường hợp khẩn cấp. Thế nào là “khẩn cấp” cần phải được xác định theo pháp luật Bỉ. Thứ hai, các biện pháp được áp dụng phải liên quan đến người hoặc tài sản tại Bỉ khi đương sự yêu cầu. Tiêu chí “hiện diện trên lãnh thổ” này được xác định vào thời điểm đương sự nộp đơn, và sự dịch chuyển của người và tài sản sau đó sẽ không ảnh hưởng đến thẩm quyền của tòa án Bỉ. Một lần nữa chúng ta thấy TPQT Bỉ đề cao mối quan hệ mật thiết (sự hiện diện của người hoặc tài sản) của vụ việc để xác định thẩm quyền của tòa án Bỉ. Chúng ta cũng sẽ thấy tầm quan trọng của nguyên tắc này trong việc giải quyết vấn đề xung đột pháp luật.

2. Xung đột pháp luật

Không hề ngẫu nhiên khi bắt đầu Mục 5 về xung đột pháp luật, Bộ luật TPQT Bỉ đã dùng điều đầu tiên của Mục này (Điều 15) để quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài và nghĩa vụ của thẩm phán Bỉ chứng minh pháp luật nước ngoài. Thật vậy, nội dung pháp luật nước ngoài do các bên lựa chọn phải do thẩm phán xác định. Pháp luật nước ngoài phải được áp dụng theo cách giải thích ở nước ngoài. Tuy nhiên, khi không thể xác định được nội dung pháp luật nước ngoài thì tòa án có thể yêu cầu sự hợp tác của các bên. Khi rõ ràng không thể xác định được nội dung pháp luật nước ngoài trong một khoảng thời gian hợp lý, thì tòa án Bỉ áp dụng pháp luật Bỉ.

Như vậy, TPQT Bỉ đã không chỉ thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài mà còn quy định về cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài. Đây là điểm khác biệt của TPQT Bỉ so với TPQT Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, để tránh trường hợp tòa án Bỉ từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài với lý do không xác định được pháp luật nước ngoài. Còn BLDS 2005 của Việt Nam cho phép các bên trong hợp đồng được lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài[23], nhưng không cho biết ai phải chứng minh về pháp luật nước ngoài được lựa chọn đó: các bên đương sự hay tòa án? Sự im lặng này đặt ra nhiều khó khăn khi áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo một số học giả, nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài thuộc về tòa án[24]. Trong thực tế, tòa án Việt Nam gần như chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài. Tình trạng này có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có việc tòa án Việt Nam từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài vì pháp luật thực định không có bất kỳ quy định nào buộc tòa án phải chứng minh pháp luật nước ngoài.

Các Điều 15 và tiếp theo của Bộ luật TPQT Bỉ quy định các nguyên tắc về phương pháp có thể được áp dụng đối với tất cả các hệ thuộc luật mà Bộ luật quy định, trong đó nhấn mạnh đến nguyên tắc về mối quan hệ mật thiết. Đây được coi là một “bộ quy tắc” thực sự về xung đột pháp luật. Các nguyên tắc này dựa trên các học thuyết và án lệ phát triển trước đó.

  1. Điều khoản loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài

Điều 19 Bộ luật TPQT Bỉ cho phép các tòa án Bỉ, trong một số trường hợp đặc biệt, không áp dụng pháp luật nước ngoài mà lẽ ra phải được áp dụng theo lựa chọn của các bên hoặc theo dẫn chiếu của quy phạm xung đột, để ưu tiên áp dụng pháp luật của Bỉ hoặc của một quốc gia khác đáng được áp dụng hơn.

Tuy nhiên, trong trường hợp như vậy, tòa án Bỉ có nghĩa vụ chứng minh có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy vụ việc đang xem xét có rất ít quan hệ với quốc gia có hệ thống pháp luật được chỉ định áp dụng, trong khi lại có những mối quan hệ mật thiết với Bỉ hoặc một quốc gia khác.

Ngoài ra, tòa án Bỉ cũng có thể không áp dụng pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo lựa chọn của các bên hoặc theo quy phạm xung đột của Bỉ dẫn chiếu tới, nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với “trật tự công cộng” của Bỉ.

  1. Bảo lưu trật tự công cộng

Bảo lưu trật tự công cộng được quy định tại Điều 21 Bộ luật TPQT Bỉ, theo đó việc áp dụng pháp luật nước ngoài theo dẫn chiếu của quy phạm xung đột bị loại trừ nếu nó có hậu quả “rõ ràng trái với trật tự công cộng Bỉ”.

Chúng ta cũng thấy quy định tương tự trong pháp luật Việt Nam. Khoản 3 Điều 759 BLDS Việt Nam quy định pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam”. Nói cách khác, pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không cho biết “các nguyên tắc cơ bản” của pháp luật Việt Nam là gì. Điều này dẫn tới rất nhiều khó khăn trong việc áp dụng quy phạm này trong thực tế.

Cũng giống như TPQT Việt Nam không định nghĩa thế nào là các “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Bộ luật TPQT Bỉ không đưa ra định nghĩa thế nào là “trật tự công cộng”, nhưng điểm khác biệt căn bản là đoạn 2, Điều 21 Bộ luật TPQT Bỉ quy định rằng, việc xác định “trật tự công cộng” phải dựa trên một loạt các dấu hiệu, trong đó đặc biệt phải tính đến “mức độ gắn bó của vụ việc với trật tự pháp luật Bỉ và mức độ nghiêm trọng mà việc áp dụng pháp luật nước ngoài này có thể gây ra”. Như vậy, một lần nữa chúng ta có thể thấy tầm quan trọng mà TPQT Bỉ dành cho nguyên tắc về mối quan hệ mật thiết nhất.

Thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại Bỉ cho thấy, tòa án Bỉ đánh giá “trật tự công cộng” dựa trên các nguyên tắc nền tảng về “trật tự đạo đức, chính trị, kinh tế” mà án lệ Vigouroux[25] là một điển hình. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, ngoài các dấu hiệu trên, tòa án Bỉ còn xét thêm các tiêu chí về các quyền cơ bản của con người, phù hợp với Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và Hiệp ước thành lập Liên minh châu Âu.

Khác với quy định về bảo lưu trật tự công cộng, quy định về ngoại lệ không có nhiệm vụ cho phép thẩm phán Bỉ tự động quay trở lại áp dụng pháp luật Bỉ. Quy định này chỉ cho phép tòa án Bỉ không áp dụng pháp luật của một nước ngoài lẽ ra được áp dụng, để áp dụng pháp luật của Bỉ hoặc pháp luật của một nước khác có mối quan hệ mật thiết nhất với hoàn cảnh đang xem xét.

Bên cạnh khả năng sử dụng điều khoản loại trừ và điều khoản bảo lưu trật tự công cộng, tòa án Bỉ còn có thể tránh áp dụng pháp luật nước ngoài bằng cách viện dẫn các “quy pháp áp dụng bắt buộc”.

  1. Quy phạm áp dụng bắt buộc

“Quy phạm áp dụng bắt buộc” là một khái niệm mới trong pháp luật, nhưng không mới trong án lệ ở Bỉ. Khái niệm này được sử dụng tại Điều 20 Bộ luật TPQT Bỉ. Về cơ bản, đó là các quy phạm bắt buộc phải được áp dụng cho một quan hệ dân sự nhất định. Đây là các quy định của pháp luật quốc nội liên quan đến trật tự công hoặc quy phạm bắt buộc chung nhưng có xu hướng được áp dụng cho cả các hoàn cảnh quốc tế. Trong giải trình dự án luật, ban soạn thảo Bộ luật nhấn mạnh đến sự thận trọng cần thiết mà các tòa án Bỉ phải có “để không tước mất toàn bộ hiệu lực cần thiết của quy phạm xung đột”. Mỗi khi áp dụng quy phạm quốc nội có tính áp dụng bắt buộc thay cho pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột, tòa án Bỉ phải giải thích rõ lý do.

TPQT Việt Nam không có quy định nào minh thị cho phép tòa án Việt Nam sử dụng quy phạm áp dụng bắt buộc của Việt Nam để loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài. Vả lại, trong pháp luật Việt Nam cũng không có khái niệm “quy phạm áp dụng bắt buộc”. Tuy nhiên, trong thực tế chúng tôi thấy, có nhiều quy phạm pha trộn tính chất áp dụng bắt buộc và “nguyên tắc cơ bản”. Cụ thể, khoản 1 Điều 769 BLDS quy định: “Hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Hay Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Rất khó có thể khẳng định đây là “quy pháp áp dụng bắt buộc” theo cách hiểu của pháp luật Bỉ hay “nguyên tắc cơ bản” của pháp luật Việt Nam.

Trong thực tiễn xét xử, chúng tôi thấy, đã có tòa án của Việt Nam mặc nhiên áp dụng pháp luật Việt Nam, mặc dù trong vụ việc được xử lý có thể áp dụng pháp luật nước ngoài. Ví dụ, trong phán quyết của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Trà Vinh năm 2004[26] liên quan đến một yêu cầu tuyên bố chết. Cụ thể, ông Minh và bà Nữ kết hôn năm 1976. Năm 1986, hai người vượt biên. Khi đến biên giới Campuchia - Thái Lan thì bị quân lính Pôn Pốt phát hiện và bà Nữ bị bắn chết. Nay ông Minh, đã mang quốc tịch Mỹ, yêu cầu TAND tỉnh Trà Vinh tuyên bố bà Nữ đã chết. Vì vụ liên quan đến các công dân Việt Nam, nên pháp luật Việt Nam có thể được áp dụng. Tuy nhiên, vụ việc lại xảy ra tại biên giới Campuchia - Thái Lan nên pháp luật Campuchia cũng có thể được áp dụng. TAND tỉnh Trà Vinh đã áp dụng Điều 19, BLDS năm 1995 mà không đưa ra giải thích tại sao.

Thiết nghĩ, để tòa án có cơ sở vững chắc trong việc áp dụng pháp luật, chúng ta nên theo giải pháp của Bỉ. TPQT Việt Nam nên có quy định rõ trong trường hợp nào tòa án Việt Nam có thể loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài để áp dụng các quy phạm áp dụng bắt buộc của pháp luật Việt Nam. Việc sử dụng quy phạm áp dụng bắt buộc có ưu điểm hơn so với sử dụng các “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, hay “bảo lưu trật tự công cộng” ở chỗ nó không đòi hỏi tòa án phải so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng, một công việc không hề dễ và cũng rất tế nhị.

  1. Loại bỏ dẫn chiếu

Một điểm khác biệt nữa là TPQT Bỉ đã loại bỏ dẫn chiếu, trong khi TPQT Việt Nam minh thị chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại. Khoản 3, Điều 759 BLDS 2005 quy định: “... trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam”. Nói cách khác, pháp luật Việt Nam chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại, nhưng không cho biết có chấp nhận dẫn chiếu tới nước thứ ba[27] hay không.

Trong khi đó, Điều 16 Bộ luật TPQT Bỉ quy định rằng, pháp luật được chỉ định bởi các quy phạm xung đột của Bộ luật là “các quy phạm luật thực chất, loại trừ các quy phạm xung đột TPQT của quốc gia đó”. Như vậy, TPQT Bỉ không chấp nhận dẫn chiếu nói chung. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, TPQT Bỉ vẫn chấp nhận dẫn chiếu, nhưng đặt trong các khuôn khổ chặt chẽ. Dẫn chiếu chỉ được chấp nhận khi nó cho phép đạt được một mục đích phù hợp với TPQT Bỉ. Như trong lĩnh vực thừa kế bất động sản, Điều 78, § 2 cho phép áp dụng quy phạm xung đột nước ngoài mặc dù quy phạm này dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nơi cư trú thường xuyên của người để lại di sản. Tương tự, liên quan đến pháp nhân, Điều 110 chấp nhận dẫn chiếu, theo đó “pháp nhân được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia nơi pháp nhân đó có trụ sở chính ngay khi thành lập. Nếu pháp luật nước ngoài chỉ định pháp luật của quốc gia nơi pháp nhân được thành lập hợp pháp, thì pháp luật của quốc gia này được áp dụng”. Liên quan đến năng lực pháp luật dân sự, Điều 34, § 1er cũng chấp nhận dẫn chiếu, nhưng chỉ nếu nó cho phép áp dụng pháp luật Bỉ, tức dẫn chiếu ngược trở lại.

3. Kết luận

Từ việc phân tích các quy định chung của TPQT Bỉ và so sánh với các quy định của TPQT Việt Nam, chúng ta có thể thấy, Bộ luật TPQT Bỉ đã được xây dựng theo hướng hiện đại, rõ ràng, dễ tiếp cận, đáp ứng các đòi hỏi của việc hội nhập châu Âu và hội nhập quốc tế của Bỉ. Các nhà lập pháp Bỉ đã pháp điển hóa thành công các quy phạm liên quan đến TPQT vốn trước đó tồn tại rải rác trong rất nhiều các văn bản luật khác nhau. Đây là một kinh nghiệm đáng để chúng ta tham khảo trong bối cảnh các quy định về TPQT của Việt Nam nằm rải rác trong hơn hai mươi văn bản pháp luật khác nhau.

Ban soạn thảo Bộ luật TPQT Bỉ đã có một nỗ lực lớn trong việc “phổ cập” hóa văn bản đến mọi người thông qua việc sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu hơn nhiều so với các văn bản cũ. Cách trình bày của Bộ luật rõ ràng, thống nhất giữa các phần, điều này giúp cho việc tiếp cận văn bản dễ dàng hơn.

Bộ luật TPQT Bỉ đã gián tiếp trao cho thẩm phán Bỉ nhiều quyền hơn, thông qua việc đưa ra các nguyên tắc chung và việc tìm ra các lời giải cho các vấn đề cụ thể thuộc về thẩm phán. Thật vậy, TPQT Bỉ đã trao cho nguyên tắc về mối quan hệ mật thiết nhất tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định thẩm quyền tài phán của tòa án Bỉ cũng như xác định pháp luật cần phải được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự, thương mại cụ thể. Đúng là “mối quan hệ mật thiết nhất” là một khái niệm tương đối mơ hồ, khó xác định, nhưng nó là công cụ cho phép tìm ra lời giải phù hợp nhất cho một vấn đề cần giải quyết. TPQT Bỉ cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà để cho tòa án Bỉ quyền chủ động đánh giá tùy theo các hoàn cảnh cụ thể. TPQT Bỉ nhấn mạnh đến việc thẩm phán Bỉ phải áp dụng pháp luật nước ngoài theo dẫn chiếu của quy phạm xung đột hoặc theo lựa chọn của các bên, đồng thời cũng đưa ra các quy định hết sức chặt chẽ về các trường hợp tòa án Bỉ từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài. Các quy định này có thể là một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tòa án Bỉ tùy tiện từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài, qua đó thiết lập sự công bằng pháp lý trong giao lưu dân sự quốc tế.

Thiết nghĩ, đây cũng là những giải pháp đáng để chúng ta tham khảo bởi nhiều vấn đề của TPQT không thể đưa ra các giải pháp cụ thể và giải pháp phải dựa trên các tình tiết của vụ việc cần xem xét./.


[1] Có hiệu lực từ 01/10/2004

[2] Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam sử dụng khái niệm “cá nhân”, nhưng theo chúng tôi khái niệm “thể nhân” chính xác hơn. Người ta thường dùng “cá nhân” (một con người cụ thể, tách biệt) để phân biệt với “tập thể” (tập hợp nhiều con người). Còn từ “thể nhân” (con người cụ thể bằng xương thịt) được sử dụng để phân biệt với “pháp nhân” (con người trừu tượng do pháp luật “sinh ra”).

[3] Khoản 2, Điều 410, các điểm a, b, c.

[4] Khoản 2, Điều 410, các điểm d, đ, e.

[6] Không nên nhầm lẫn khái niệm “thẩm quyền chuyên biệt” cho một lĩnh vực hoặc trường hợp cụ thể, với khái niệm “thẩm quyền riêng biệt” (được quy định tại điều 411 BLDS 2004 Việt Nam) vốn loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án nước ngoài.

[10] Theo đó, “người nước ngoài có thể bị khởi kiện trước các tòa án của Bỉ, bởi hoặc một người Bỉ, hoặc bởi một người nước ngoài: (...) 2o nếu có nơi cư trú hoặc sinh sống thường xuyên tại Bỉ”.

[11] Khoản 2, Điều 410, Bộ luật TTDS 2004.

[12] Lê Mạnh Hùng, Thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, Tọa đàm về Thực trạng Tư pháp quốc tế Việt Nam và kinh nghiệm Nhật Bản, Bộ Tư pháp, tháng 12/2013

[15]Thông tư hướng dẫn thi hành Bộ luậtTPQT Bỉ.

[16] Xem Điều 23, 1o, Nghị định Bruxelles I. Điều kiện này được giải thích khá rộng. Xem: Tòa án Tư pháp Cộng đồng châu Âu (Nay là Tòa án Tư pháp Liên minh châu Âu), 10/3/1992, Powell, aff. C-214/89, Rec., tr. I-1745.

[18] Được hiểu là trường hợp tòa án của một nước có thẩm quyền nhưng tự khước từ thẩm quyền đó khi xét thấy sẽ là phù hợp hơn nếu vụ việc được giải quyết ở tòa án nước ngoài.

[19] Xem thêm Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2010, tr. 174 và tiếp theo.

[20] Trong pháp luật thực định của Việt Nam không tồn tại khái niệm tội “từ chối xét xử”, nhưng khái niệm này xuất hiện tại pháp luật của nhiều nước như Pháp và Bỉ, theo đó, thẩm phán nào từ chối xét xử thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

[22] Khoản 2, Điều 769 BLDS 2005.

[23] Khoản 3, Điều 759, BLDS 2005.

[24] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân dân, 2013, tr. 56 và tiếp theo; Nguyễn Ngọc Điện, Chế định ly hôn trong tư pháp quốc tế của Việt Nam, Hội thảo về Tư pháp quốc tế do Nhà pháp luật Việt-Pháp tổ chức, tháng 5/2005. Theo Nguyễn Ngọc Điện, “về mặt lôgíc, không thể yêu cầu nguyên đơn và bị đơn đưa ra chứng minh áp dụng luật nước ngoài bởi vì không phải chính họ viện dẫn việc áp dụng luật nước ngoài. Chính vì vậy, do quy phạm xung đột Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng luật nước ngoài nên thẩm phán phải tìm hiểu nội dụng luật áp dụng”. Nhưng trong thực tế, có nhiều tòa án đã yêu cầu các bên đương sự chứng minh pháp luật nước ngoài.

[25] Cass., 4 mai 1950, Pas., 1950, I, 624.

[26] Bản án số 05/HNST ngày 5/5/2004.

[27] Dẫn chiếu đến nước thứ ba, hay còn gọi là chuyển chí, là hiện tượng khi tòa án của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy định vấn đề phải được giải quyết theo pháp luật nước nước C.