Choỗ quan xử án được gọi là gì năm 2024

Dưới thời Đinh, quyền tư pháp tập trung triệt để trong tay nhà vua. Nhà vua đích thân xem xét việc trừng phạt các vụ phạm pháp, và việc trừng phạt các can phạm được diễn ra ngay trước cung điện nhà vua. Đến thời Tiền Lê quyền tư pháp tuyệt đối thuộc về nhà vua vẫn được áp dụng triệt để.

Dưới thời Lý (1010 – 1225), nhà vua tuy vẫn còn giữ lấy quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước như các vị vua đời trước, nhưng đã san sẻ bớt quyền này cho các quan địa phương.

Thời Lê Thánh Tông, cả nước chia thành 12 Đạo, mỗi đạo có một Tòa Đô, Tòa Thừa, Tòa Hiến. Tòa Đô coi việc binh, Tòa Thừa coi việc hành chính, Tòa Hiến coi việc hình án.

Đứng đầu Tòa Hiến có 2 vị quan: Hiến sát chánh sứ và Hiến sát phó sứ. Hồi đó, trong nước có tất cả có 52 phủ, 172 huyện và 50 Châu. Các quan phủ, huyện, châu đều có quyền xét xử cả hình án.

Từ đời vua Lê Thần Tông cho đến hết đời Lê (1649 – 1788) có các tòa:

  1. Tòa đệ nhất cấp là Tòa án cấp dưới cùng đứng đầu là các quan Huyện,
  2. Tòa đệ nhị cấp đặt ở mỗi Phủ và do quan Phủ chủ tọa,
  3. Tòa đệ tam cấp đặt ở mỗi Đạo gọi là Thừa ti,
  4. Tòa đệ tứ cấp gọi là Hiến ty cũng được đặt ở cấp Đạo,
  5. Tòa phúc thẩm ở mỗi Đạo gọi là Tòa giám sát có một vị quan đứng đầu gọi là quan Giám sát (về sau đổi tên gọi là quan Cai Đạo)
  6. Tòa án cao cấp nhất trong nước là Ngự Sử Đài. Thành viên Ngự sử đài là các quan ngự sử đóng ở kinh đô.

    Việc xét xử những vụ việc thông thường chủ yếu diễn ra ở cấp xã. Xã nào cũng có pháp đình riêng do nhân vật quan trọng nhất trong xã chủ tọa. Trước đời nhà Nguyễn vị chủ tịch pháp đình hàng xã thường là vị xã trưởng, vì trong thời kỳ này xã trưởng là người có uy tín nhất trong xã. Nhưng tình hình này đã thay đổi hẳn dưới triều Nguyễn kể từ năm 1802 trở đi đó là Tiên chỉ - đệ nhất kì mục là người xét xử.

Nhận xét chung:

1. Vua vẫn là người có quyền xét xử tối cao. Các vị quan giải quyết việc kiện tụng trong nước chỉ là những người đại diện của nhà vua thực thi quyền xét xử. Chính vì lẽ đó mà cũng như Trung Hoa, nước ta không có một ngạch pháp quan riêng biệt như các nước Tây Âu cuối thế kỷ 18. Qua các giai đoạn phát triển đã cho thấy hoạt động xét xử đã dần có sự phân cấp, có sự phân công nhiệm vụ giải quyết từng loại công việc cụ thể. Tuy nhiên sự phân cấp đó lại rất thiếu những công cụ giám sát và những ràng buộc về trách nhiệm cụ thể.

2. Tòa án thời phong kiến chưa có sự phân tách giữa chức năng hành chính và chức năng tư pháp. Công tác xét xử không được tách thành một ngạch riêng biệt, độc lập với hoạt động hành chính.

3. Từ các qui định luật pháp đến phân cấp xét xử cũng như thực tế xét xử các vụ việc thời kỳ này cho thấy một đặc điểm chung là "trọng hình, khinh dân". Các qui định pháp luật và thực tiễn xét xử chủ yếu tập trung vào ba lĩnh vực: hình sự, hành chính và quân sự, ít chú trọng và phát triển lĩnh vực pháp luật dân sự. Biểu hiện là đa phần các qui định về dân sự (Ví dụ trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long) đều là những qui định có tính hàm hỗn, được thể hiện dưới dạng luật hình và đều có chế tài kèm theo. Trong hoạt động xét xử cũng vậy, bản chất nhiều vụ việc là dân sự nhưng được xét xử và thi hành theo hình thức của luật hình.

4. Ở địa phương, xã trưởng và Tiên chỉ là người xét xử những vấn đề thông thường ở xã, nguồn xét xử chủ yếu là dựa vào lệ làng, hương ước hay khoán ước của làng. Hầu hết những vấn đề tranh chấp trong xã đều được giải quyết tại cấp này.

5. Phạm vi thẩm quyền của xã trưởng hay Tiên chỉ khá rộng lại không có cơ chế giám sát, không tách bạch chức năng hành chính và xét xử, trình độ hiểu biết của người dân còn hạn chế tất cả những lý do đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lộng hành, nạn cường hào, ác bá ở địa phương diễn ra tràn lan. Thay vì tin tưởng vào sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật, người dân chỉ còn hy vọng duy nhất là tin vào lòng tốt của người tiến hành xét xử.

Tiền hoặc các khoản bảo đảm khác (như một khoản tiền bảo lãnh) được cung cấp cho tòa để tạm thời cho phép người đó được thả ra khỏi nhà tù và đảm bảo sự xuất hiện của họ tại tòa. "Bail" và "bond" thường được sử dụng cho nhau.

Bail Bond

Một nghĩa vụ mà bị can đảm ký để đảm bảo sự có mặt của người đó trong phiên tòa. Nghĩa vụ này có nghĩa là bị cáo có thể bị mất tiền do không xuất hiện đúng cho phiên xử. Thường được gọi đơn giản là trái phiếu.

Thừa phát lại

Một nhân viên tòa án vẫn tiếp tục giữ gìn trật tự tại phòng xử và có quyền giám hộ của bồi thẩm đoàn.

Phá sản

Đề cập đến các đạo luật và các thủ tục pháp lý liên quan đến người hoặc doanh nghiệp không thể trả được nợ của họ và tìm kiếm sự hỗ trợ của tòa án để bắt đầu một khởi đầu mới. Theo sự bảo vệ của Toà án về phá sản, người cho vay có thể được giải phóng khỏi nợ, có thể bằng cách trả một phần của mỗi khoản nợ. Các thẩm phán phá sản chủ trì các thủ tục tố tụng này. Người có khoản nợ được gọi là người nợ và người hoặc công ty mà người nợ nợ tiền được gọi là chủ nợ.

Quán ba

Thuật ngữ này có nghĩa là toàn bộ luật sư được ủy quyền hành nghề luật trong một phạm vi quyền hạn cụ thể.

Kiểm tra quầy bar

Một cuộc kiểm tra của tiểu bang đối với luật sư tương lai để được nhận vào và được cấp phép hành nghề luật.

Pin

Việc sử dụng vũ lực đối với người khác, gây ra sự tiếp xúc có hại hoặc xúc phạm. Mối đe dọa thực sự sử dụng vũ lực là một cuộc tấn công; việc sử dụng nó là một pin, thường bao gồm một cuộc tấn công.

Ghế dài

Chỗ ngồi do thẩm phán chiếm.

Trial thử nghiệm

Phiên toà không có bồi thẩm đoàn, trong đó một thẩm phán quyết định sự thật.

Băng ghế dự bị trát

Một lệnh do quan tòa đưa ra để bắt giữ một người.

Người thụ hưởng

Một người có tên để nhận tài sản hoặc lợi ích trong di chúc hoặc người nhận được lợi ích từ một ủy thác.

Thừa kế

Cung cấp một món quà cho ai đó thông qua một ý chí.

Tuyên bố

Quà tặng được làm theo ý muốn.

Bằng chứng tốt nhất

Bằng chứng chính; các bằng chứng tốt nhất hiện có. Bằng chứng ngắn gọn về điều này là "thứ yếu". Đó là, một bức thư ban đầu là "bằng chứng tốt nhất", và một bản sao là "bằng chứng thứ yếu."

Ngoài một nghi ngờ hợp lý

Tiêu chuẩn trong một vụ án hình sự đòi hỏi bồi thẩm đoàn hài lòng với một sự chắc chắn đạo đức rằng mọi yếu tố tội phạm đã được chứng minh bằng việc truy tố. Tiêu chuẩn chứng minh này không đòi hỏi nhà nước phải xác định chắc chắn tuyệt đối bằng cách loại bỏ mọi nghi ngờ, nhưng đòi hỏi phải có bằng chứng để kết luận rằng tất cả những nghi ngờ hợp lý sẽ được loại bỏ khỏi tâm trí của người bình thường.

Bill of Particulars

Một tuyên bố về các chi tiết của cáo buộc đối với bị đơn.

Kết thúc

Tổ chức một người để xét xử về khoản tiền thế chân (bond) hoặc trong tù. Nếu viên chức tư pháp tiến hành một cuộc điều trần tìm thấy nguyên nhân có thể xảy ra để tin rằng bị buộc tội phạm tội, quan chức sẽ ràng buộc người bị buộc tội, thông thường bằng cách đặt bảo lãnh cho sự xuất hiện của bị can tại phiên xử.

Booking

Quá trình chụp ảnh, lấy dấu vân tay, và ghi nhận dữ liệu của nghi can. Quá trình này sau vụ bắt giữ.

ngắn gọn

Một văn bản tuyên bố được chuẩn bị bởi một bên trong một vụ kiện để giải thích cho tòa án của nó xem các sự kiện của một vụ án và pháp luật áp dụng.

Gánh nặng bằng chứng

Trong luật chứng cứ, sự cần thiết hoặc nghĩa vụ khẳng định một sự kiện hoặc sự kiện đang tranh chấp về một vấn đề được nêu ra giữa các bên trong một vụ kiện. Trách nhiệm chứng minh một điểm (gánh nặng chứng minh) không giống như tiêu chuẩn chứng minh. Gánh nặng chứng minh liên quan đến phía bên phải thiết lập một điểm hoặc điểm; tiêu chuẩn chứng minh cho thấy mức độ mà điểm phải được chứng minh. Ví dụ, trong trường hợp dân sự, nguyên đơn phải thiết lập trường hợp của mình bằng các tiêu chuẩn chứng minh như là một sự vượt trội của bằng chứng hoặc bằng chứng rõ ràng và thuyết phục.

Chủ đề