Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời

Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời

giúp tui vs

tui sẽ trả nhìu coin

----- Nội dung dịch tự động từ ảnh -----Câu 4: Có bạn đọc cho rằng: Đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là mộtnhân cách sáng ngời. Em có đồng ý với nhận xét trên không? Hãy bày tỏ suy nghĩcủa em bằng một đoạn văn có độ dài 8 – 10 câu, theo phép lập luận tổng hợp -phân tích - tổng hợp. Trong đoạn văn có dùng một tình thái từ, một thán từ, gạch

chân xác nhận.


2. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc.

Chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta lại thấy bừng sáng lên một vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc. Lão Hạc sống lủi thủi, thầm lặng, bề ngoài lão có vẻ như lẩm cẩm, gàn dở ; vợ ông giáo cũng chẳng ưa gì lão : « cho lão chết ! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ ? Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ ! » Chính ông giáo cũng có lúc từng nghĩ là lão « quá nhiều tự ái », còn Binh Từ thì « bĩu môi nhận xét : Lão làm bộ đấy ! thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu ! » Nhưng kì thực lão Hạc có một nhân cách hết sức cao quý mà bề ngoài không dễ thấy. Đằng sau « manh áo rách » là một tấm lòng vàng ». Nó được thể hiện qua tấm lòng của lão đối với con trai, đối với « cậu Vàng », qua việc gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo và nhất là qua cái chết thảm khốc mà lão đã lựa chọn cho chính mình.

a. Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành và nhân hậu vô cùng

* Cái tình của lão đối với « cậu Vàng » thật là hiếm có, đặc biệt và Nam Cao đã ghi lại tỏng những dòng chữ xúc động.

+ Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi đối với cuộc sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. + Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giầu (…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.

+ Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Đoạn lão nói chuyện với cậu Vàng về việc « định giết cậu để cưới vợ cho con trai rồi lại không giết nữa, để nuôi » đã bộc lộ sâu sắc tình cảm của lão Hạc đối với con chó thân yêu.

=> Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu. Nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã toả sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

+ Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương thiện” ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc… Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy.

* Tấm lòng người cha ở lão Hạc đối với anh con trai mới thực cảm dộng, làm nên tâm sự chính của nhân vật và mạch truyện chủ yếu của tác phẩm. Nó liên quan đến cái tình của lão đối với cậu vàng, đến việc lão gửi gắm nhờ gửi ông giáo, và giải thích rõ cái chết thảm khốc của lão ở cuối truyện. Đó là tấm lòng của người cha thương con, suốt cả cuộc đời lo lắng cho con và sẵn sàng hi sinh tất cả- kể cả tính mạng – cho đứa con thân yêu của mình. Nam Cao đã thấu hiểu cái tình cha con, thiêng liêng, sâu sắc đó ở người lão nông nghèo khổ này và đã diễn tả thật cảm động trên từng trang viết của tác phẩm.

+ Đầu tiên là việc anh con trai tính chuyện bán vườn để lo cưới vợ nhưng nghe lời bố, lại thôi. Thấy con buồn, lão Hạc « thương con lắm, nhưng biết làm sao được ?... » Đó là tình thương đầy bất lực của một người cha nghèo.

+ Sau đó, anh con trai « sinh phẫn chí », bỏ làng, lìa cha, kí giấy đi làm dồn điền cao su. Đứa con trai độc nhất của lão đã bị cái nghèo cướp nốt, lão vô cùng đau đớn. Nỗi đau mất con khiến lão « chỉ còn biết khóc chứ biết làm thế nào nữa ? Bởi « nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Lão Hạc kể lại chuyện khóc con, giống như lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của người cha hoàn toàn bất lực khi thấy con trai tuột ra khỏi tay mình để trở thành người của người ta.

+ Trong nỗi đau ấy, khi chỉ còn sống cô đơn, thủi thủi một mình thì lão Hạc đã biết chọn một cách sống cho con, vì con. Đó là cách sống không tính đến bản thân mình, khiến cho tình yêu thương và lòng nhân hậu của lão đã hoá thành một nhân cách làm người, nhân cách làm cha. Ta thấy trong từng nếp nghĩ của lão bao giờ cũng thấm đẫm đức hy sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai dặn bố : « bòn vườn đất với làm thuê làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn ». Nhưng lão đã tự xóa đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh vườn ấy : « cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước ta không bán là ta có ý giữ cho nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu ! ». Cho nên, lão làm thuê làm mướn để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm, thế nào đến lúc con lão trở về cũng có được một trăm đồng bạc. Lão tính tiền ấy lão sẽ thêm vào cho con cưới vợ, nếu con đã đủ tiền cưới vợ thì cho nó để có chút vốn mà làm ăn. Thương con mà vị tha, hi sinh như thế thì đó chính là lòng thương con mộc mạc, cụ thể mà cao cả biết bao của những người lao động nghèo, ngay cả khi họ phải sống khốn quẫn nhất trong xã hội cũ. Đến cả chuyện buộc phải bán chó, thì không phải chỉ vì không nuôi nổi nó, mà cái chính vẫn là vì con : « bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó ».

+ Nhưng cái chết mới là đỉnh cao của đức hy sinh, lòng vị tha-mà ở đây chính là tình thương yêu sâu sắc của lão Hạc đối với đứa con trai.

- Hoàn cảnh ngày càng cùng cực đã đẩy lão tới một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát : tiếp tục kéo dài sự sống tàn để trở thành kẻ báo hại cho con hay là chết đi để trọn đạo làm người, trọn đạo làm cha. Và lão đã chọn cái chết, không phải cho xong đời mình, mà chết cho con, vì con.

+Lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết từ lúc quyết định bán con chó, bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của đời mình ; từ khi gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo ; và cả những lúc ăn sung luộc, ăn củ ráy... để cuối cùng lão quyết định xin Binh Tư bả chó !... Có nỗi đau bán chó, có sự chu đáo và cẩn trọng trong việc gửi gắm nhờ vả ông gia,s có sự nhịn ăn mấy ngày liền thì mới có việc xin bả chó để tự kết liễu đời mình. Có nghĩa là lão đã chuẩn bị chu đáo mọi việc cho con (và cả cho mình nữa) để sắn sàng đi vào một cái chết thật dữ dội và bi thảm. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn !

=> Lão Hạc là một nông dân không được học hành, không có chữ nghĩa, càng không biết nhiều lí luận về tình phụ tử. Nhưng cái chết dữ dội của lão là bằng chứng cảm động về cái tình phụ tử nguyên sơ, mộc mạc, nhưng thăm thẳm, thiêng liêng biết chừng nào.

b. Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giầu lòng tự trọng.

- Lão Hạc đã tìm đến cái chết mặc dù trong tay vẫn còn mấy chục bạc (không kể vẫn còn mảnh vườn đáng giá mà không ít kẻ nhòm ngó)

- Bất đắc dĩ phải bán con chó ; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt « thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó ».

- Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai như một lời nguyền đinh ninh : « Cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng ». Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng hàng xóm. Lão thà nhịn đói chứ không tiêu xu nào vào món tiền mà lão cậy ông giáo cầm giúp đó.

- Với lòng tự trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành dụm bằng nhịn ăn, nhịn tiêu của lão, để nhờ ông giáo đưa ra nói với bà con hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Khi đã đem gửi hết đồng tiền cuối cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má..., nhưng lại kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo mà chắc lão hiểu là rất thân tình.

- Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ « làm nghề ăn trộm » ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng. Lão Hạc dù nghèo đói vẫn quyết sống bằng bàn tay lao động của mình trong khi ở xã hội đó có nhiều người đã bị ngã quỵ trước bản năng (cái đói và miếng ăn) như Chí Phèo, Binh Tư... Lang Rận... Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, ra đi vẫn giữ được tâm hồn thanh thản, nhân cách trong sạch, lão Hạc đã trở thành một vị thánh. Là một ông già nông dân cùng khổ, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có thức thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người của câu tục ngữ : « đói cho sạch, rách cho thơm », « thà thác trong còn hơn sống đục ». Đó cũng là một nét nhân cách đáng trọng của người lao động nghèo.

=> Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn ; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

3. Nhân vật «Tôi »- người kể chuyện (cũng chính là tác giả, tuy vậy không nên đồng nhất hoàn toàn với nhân vật về nguyên mẫu).

- Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lai bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội cũ.

- Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng « ông giáo » đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 « nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể ». Hai tiếng « ông giáo » từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng : « cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ !... « Vâng, ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng »... « Tôi cắn rơm, cắn cổ lạy ông giáo »....

- Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lý tưởng đẹp, với bao mộng tưởng. Ông đã từng lặn lội vào tận Sài Gòn, « hòn ngọc Viễn Đông » thời ấy để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va li « đựng toàn những sách » được người thanh niên ấy rất nâng niu », cái kỉ niệm « đầy những say mê đẹp và cao vọng » ấy, hơn sáu chục năm còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.

- Con người « nhiều chữ nghĩa » ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bứng lên trong lòng ông « như một rạng đông » thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, « trong trẻo, biết yêu và biết ghét »

- Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông giáo mãi, « ông giáo khổ trường tư ». Vận hạn xẩy ra luôn như ông nghĩ : « Đời người ta không chỉ khổ một lần ». Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền : « dù có phải chết cũng không bán ». Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. « Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu ? » Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng : biết sống, và dám hi sinh vì cuộc sống !

- Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và và chuyện đứa con trai « phẫn cí » không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên... Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang « lúc tắt lửa tối đèn có nhau ». Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không bao giờ quên mẩu đối thoại này :

- Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo :

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng ?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?

Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo :

- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng : bây giờ cụ ngồi xuống phải này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc : ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

- Vâng ! Ông giáo dậy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng ».

- Ông giáo đã thương lão Hạc « như thể thương thân ». Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để « ngấm ngầm giúp » khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn khoai, ăn rau, ăn củ ráy... trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói ; cái nghĩa cử « lá lành đùm lá rách » ấy mới thật cao đẹp biết bao !

- Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi chết « gọi là của lão có tí chút.. », gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai. Tình tiết ấy nói lên lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc « chọn mặt gửi vàng ». Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội một bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào đôi của chị nhà quê (Đồng hào có ma)... ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện.

- Trước cái chết dữ dội của Lão Hạc, cái chết « đau đớn và bất lình lình », chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng : « Lão Hạc ơi ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn ; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào... »

- Cùng chung với ông giáo Thứ trong « sống mòn », Điền trong « Trăng sáng », nhân vật « tôi » trong « mua nhà », hình ảnh ông giáo trong truyện « lão Hạc » đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nân vật- nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư- trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.

- Trong truyện « Lão Hạc », ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho « bức tranh quê » ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.

3. Cách nhìn người của nhà văn Nam Cao.

Nam Cao đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người : «Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương (...) Cái bản tính tốt củ người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp mất »

- Suy nghĩ của nhân vật «tôi» trên đây chính là một điểm quan trọng trong ý thức sáng tác của nhà văn Nam Cao. Đó chính là vấn đề mà sau này Nam Cao gọi là « Đôi mắt » ; phải xác định « đôi mắt » đúng đắn trong cách nhìn về quần chúng nghèo khổ. Trong « Lão Hạc », nhà văn cho rằng đối với người nông dân lao động thì phải « cố mà tìm hiểu họ » thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi « gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi » ấy chỉ là « những người đáng thương » và có « bản tính tốt », có điều, « cái bản tính tốt » ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống « che lấp mất ». Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông, và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt, phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. Có thể nói, chẳng những trong « Lão Hạc » mà trong cả « Chí Phèo », « Lang Rận », « một bữa no », « Tư cách mõ »... và hầu hết truyện dài của Nam Cao, nhà văn đều đặt ra vấn đề « đôi mắt ». Ông chính là luật sư đứng ra bênh vực cho một Chí Phèo, một anh Cu Lộ, một Lang Rận, một bà cái Tí, khẳng định rằng họ đều có tình cản rất « đáng thương » và đều « bản tính tốt », nhưng chính cuộc đời quá khắc nghiệt đã đẩy họ vào con đường lưu manh hoặc làm những việc xấu xa... Sau cách mạng, trong truyện ngắn « Đôi mắt » (1948), Nam Cao đã trực diện đặt ra vấn đề cần xác định « đôi mắt » đúng đắn để thấy được bản chất cách mạng của quần chúng nông dân đang là chủ lực của cuộc kháng chiến chống Pháp khi đó.

Cho nên, có thể nói, vấn đề « đôi mắt » là một đặc điểm quan trọng trong quan điểm sáng tác của Nam Cao, trở thành ý thức nghệ thuật thường trực trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu nặng với nhân dân.

B. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện

« Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay nhất của cây bút truyện ngắn bậc thầy Nam Cao. Tài nghệ bậc thầy đó thể hiện ở nhiều khía cạnh và có những điểm nổi bật sau :

- Xây dựng nhân vật :

+ Không được miêu tả thật kĩ về ngoại hình, cũng không có nhiều hành động, song được tập trung soi sáng từ bên trong.

+ Tác giả đã đi sâu vào những tâm tư, những lo tính của lão Hạc chung quanh việc bán « cậu Vàng » và việc lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết, chính từ đó mà số phận đau thương, tính cách độc đáo của nhân vật hiện ra thật rõ nét. Nhân vật lão Hạc chân thực, sinh động, có bề dầy xã hội và đồng thời có cá tính độc đáo, chủ yếu được nhà văn khắc hoạ bằng miêu tả tâm lý. Chẳng hạn, qua cản lão Hạc trò chuyện với « cậu Vàng », có thể thấy rõ cảnh sống cô đơn của lão, chất người trung hậu ( thể hiện qua thái độ âu yếm, chiều chuộng đối với cậu Vàng) và tình thương sâu nặng đối với đứa con trai đang ở xa. Hoặc những chi tiết thể hiện phản ứng tâm lí của lão Hạc xung quanh việc mà lão cho rằng đã « lừa cậu Vàng » : đau đớn, chua xót, hối hận, đã cho thấy rất rõ tâm hồn, tính cách ông lão nông dân nhân hậu, đáng thương ấy.

- Cách dựng truyện, bút pháp trần thuật linh hoạt, mới mẻ. Tác giả đi thằng vào giữa truyện ( cảnh lão Hạc nói chuyện với « tôi » về việc sẽ phải bán « cậu Vàng ») rồi mới nhẩn nhà đi ngược thời gian, kể về cảnh ngộ nhân vật, từ chuyện « con chó là của cháu nó mua đấy » chuyển sang chuyện anh con trai đã bỏ đi phu, để lại lão Hạc sống cô đơn và giờ đây đang lâm cảnh cùng đường... Cách dẫn chuyện rất thoải mái, tự nhiên, có vẻ lỏng lẻo song kì thật thật chặt chẽ, tập trung, khắc hoạ nhân vật và thể hiện chủ đề.

- Truyện rất mực chân thực, đồng thời thấm đượm cảm xúc trữ tình. Qua nhân vật « Tôi », người kể chuyện, tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Chất trữ tình thể hiện ở giọng kể, ở những câu cảm thán nhiều khi không nén được cảm xúc, tác giả đã gọi tên nhân vật lên để trò chuyện, than thở : ( Lão Hạc ơi ! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão khong muốn bán con chó vàng của lão ! Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều hơn ai hết.. ! », « Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng nhắm mắt...) Chất trữ tình còn thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của « tôi », như chung quanh việc « Tôi » phải bán mấy quyển sách : « ôi những quyển sách rất nâng niu(...) kỷ niệm một thời hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng » Và thể hiện rõ nhất là ở những đoạn văn trữ tình ngoại đề đậm màu sắc triết lý : « Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta.... » Những câu văn triết lý đó không hề có giọng sách vở, trìu tượng mà là những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt.

=> Vừa tỉnh táo, chân thực, vừa trữ tình thắm thiết và đậm đà ý vị triết lí, đó chính là đặc điểm bút pháp văn xuôi Nam Cao được thể hiện rõ nét trong « Lão Hạc »

III- Kết luận

Tác phẩm « Lão Hạc » đã làm cho em vô cùng xúc động. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đã sống nghèo khổ, cơ cực và cùng quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người.

DÀN Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC

I - Mở bài

- Nam Cao là nhà văn nhân đạo. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

- Truyện ngắn « Lão Hạc » không chỉ miêu tả xúc động tình cảnh khốn cùng và số phận bi đát của người nông dân mà còn là một câu chuyện xúc động về một nhân cách cao quý.

- Cũng như bao cố nông cùng khổ khác, Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ bất hạnh nhưng lại một con người có trái tim nhân hậu, lương thiện và có một tâm hồn, nhân cách cao cả.

II-Thân bài 

1. Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh

- Vợ mất sớm, một thân một mình gà trống nuôi con

- Sống bằng nghề cầy thuê, cuốc mướn

- Đứa con trai duy nhất vì nghèo mà phẫn chí bỏ đi

- Sống cô đơn, tội nghiệp, già cả, ốm đau

- Nghèo đói, sức cùng, lực kiệt-> Tìm đến cái chết để giải thoát

- Cái chết dữ dội, đau đớn, khổ sở, vật vã

=> Cuộc đời lão Hạc là số phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng không lối thoát. Cái chết của lão Hạc là lời tố cáo, lên án xã hội thối nát => Giá trị hiện thực sâu sắc.

2. Là người sống rất nhân hậu

- Đối với mọi người : Sống tốt, chân thành

- Đối với con chó 

+ Quý nó quá mức

+ Chăm sóc nó chu đáo

+ Đau xót khi phải bán nó

- Đối với con trai

+ Nỗi đau bất lực của người cha vì nghèo mà không lo được hạnh phúc cho con

+ Khi con đi, tuyệt vọng, đau khổ như mất con, luôn mong con về

+ Chọn cách sống cho con, vì con, luôn để dành tiền cho con.

+ Tìm đến cái chết để giữ tài sản cho con.

3. Là người lương thiện và giầu lòng tự trọng

- Thà nhịn đói chứ không tiêu vào tiền của con

- Kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo, người rất thân tình với ông

- Không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình ( gửi ông giáo tiền lo ma chay cho mình)

- Chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá

III- Kết luận

- Hình ảnh lão Hạc gây ấn tượng đậm nét và cứ ám ảnh vương vấn không dứt trong lòng người đọc

- Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau triền miên, bất tận

- Bên trong cái vẻ bề ngoài gần như lẩm cẩm, gàn dở là một nhân cách vô cùng cao quý

- Người đọc xót xa trước cái chết của lão Hạc bao nhiêu thì càng trân trọng và vững tin ở nhân cách bấy nhiêu.

* Dặn dò: ôn tập chuẩn bị buổi sau kiểm tra chuyên đề

* Rút kinh nghiêm:

...............................................................................................................................

Ngày tháng năm

Chia sẻ với bạn bè của bạn:

Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời
Có bạn đọc cho rằng đằng sau cái chết đầy ám ảnh của lão Hạc là một nhân cách sáng ngời


Page 2


Chuyên đề : Truyện và kí Việt Nam 1930-1945

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Khái quát trào lưu văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945

- Hiện thực đời sống con người và xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8.

- Những phẩm chất cao đẹp của người nông dân trong xh cũ.

- Trào lưu hiện thực gồm các nhà văn hướng ngòi bút vào việc phơi bày hiện thực bất công, thối nát của xã hội và đi sâu phản ánh thực trạng thống khổ của tầng lớp quần chúng bị áp bức, bóc lột đương thời. Nói chung các sáng tác của trào lưu văn học này mang giá trị hiện thực sau sắc và thấm đượm tinh thần nhân đạo.

- Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở thể loại văn xuôi với các tên tuổi lớn như: Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao…

- Liên hệ mở rộng một số tác giả có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện thực như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Giá trị hiện thực và nhân đạo trong các tác phẩm truyện kí VN 1930-1945.

2. Kỹ năng

- Biết trình bày suy nghĩ về nhân vật, về giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

-Rèn kĩ năng viết đoạn văn trình bày suy nghĩ, đánh giá của mình về nội dung, ý nghĩa của văn bản.

- Rèn kĩ năng tổng hợp, khái quát vấn để văn học.

-Rèn luyện các kĩ năng xác định đề, xây dựng dàn ý, dựng đoạn, hành văn, khái quát, liên hệ, nâng cao

- Rèn kĩ năng luyện đề tổng hợp.

3. Các dạng bài

- Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về một nét tính cách của nhân vật.

- Chứng minh làm sáng tỏ một nhận xét, đánh giá về nhân vật hoặc một lớp nhân vậtcó nét chung.

- Làm sáng tỏ giá trị hiện thực và nhân đạo của các văn bản.

- Nhân xét, đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của các truyện kí.

4. Các văn bản:

- Tôi đi học: Thanh Tinh

- Trong lòng mẹ: Nguyên Hồng

- Tức nước vỡ bờ: Ngô Tất Tố

- Lão Hạc: Nam Cao

5. Thời lượng: 5 buổi


B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập, đọc tài liệu

C. Tiến trình

VĂN BẢN: TỨC NƯỚC VỠ BỜ

( Trích " Tắt đèn" )- Ngô Tất Tố

I- Tác giả

- Ngô Tất Tố (1893- 1954) sinh tại Lộc Hà, huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh- Hà Nội)

- Thuở nhỏ học chữ Nho nổi tiếng thông minh, đỗ đầu kì thi khảo hạch vùng kinh Bắc, được ái mộ, gọi là “đầu xứ Tố”. Khi nền Hán học suy tàn : “ông nghè, ông cống cũng nằm co”(Tú Xương), Ngô Tất Tố tự học chữ Quốc ngữ và học tiếng Pháp. Ông trở thành một nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật và khảo cứu nổi tiếng.

+ Về hoạt động báo chí, ông được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” (lời Vũ Trọng Phụng), có mặt trên nhiều tờ báo trong cả nước với hàng chục bút danh, với một khối lượng bài báo đồ sộ, đề cập nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị, văn hoá, nghệ thuật. Đó là một nhà báo có lập trường dân chủ tiến bộ, có lối viết sắc sảo, điêu luyện giàu tính chiến đấu, nhiều bài là những tiểu phẩm châm biếm có giá trị văn học cao

+ Về sáng tác văn học, ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng. Là cây bút phóng sự, là nhà tiểu thuyết nổi tiếng. Gọi NTT là “nhà văn của nông dân” bởi ông chuyên viết về nông thôn và đặc biệt rất thành công ở đề tài này.

VD: Các phóng sự : Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940) là các tập hồ sơ lên án những hủ tục “quái gở”, “man rợ” đang đè nặng lên cuộc sống người nông dân ở nhiều vùng nông thôn khi đó. Tiểu thuyết “Tắt đèn” là “thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy (Lời Vũ Trọng Phụng trong bài “báo thời vụ”). Tiểu thuyết “Lều chõng” (1939) tái hiện tỉ mỉ sinh động cảnh hà trường và thi cử thời phong kiến. Nhưng khác với những tác phẩm đương thời cùng đề tài, “lều chõng” đã vạch trần tính chất nhồi sọ và sự trói buộc khắc nghiệt bóp chết óc sáng tạo của chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến. Tác phẩm ít nhiều có ý nghĩa chống lại phong trào phục cổ do thực dân đề xướng lúc bấy giờ.

- Sau cách mạng tháng Tám, NTT sống và hoạt động văn hóa văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc, ông qua đời trước mấy ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

II- Tóm tắt tác phẩm “Tắt đèn”

- Câu chuyện trong “Tắt đèn” diễn ra trong một vụ đốc sưu, đốc thuế ở một làng quê- láng Đông xá dưới thời Pháp thuộc. Cổng làng bị đóng chặt. Bọn hào lý và lũ tay chân với roi song, dây thừng, tay thước nghênh ngang đi lại ngoài đường thét trói kẻ thiếu sư. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và nổi lên suốt đêm ngày.

- Sau hai cái tang liên tiếp(tang mẹ chồng và tang chú Hợi), gia đình chị Dậu tuy vợ chồng đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn, áo không đủ mặc, đến nay đã lên đến “bậc nhất nhì trong hạng cùng đinh”. Anh Dậu lại bị trận ốm kéo dài mấy tháng trời không có tiến nộp sưu, anh Dậu đã bị bọn cường hào “bắt trói” như trói chó để giết thịt. Chị Dậu tất tả chạy ngược chạy xuôi, phải dứt ruột bán đứa con gái đầu lòng và ổ chó cho vợ chồng Nghị Quế để trang trải “món nợ nhà nước”. Lí trưởng làng Đông Xá bắt anh Dậu phải nộp suất sưu cho chú Hợi đã chết từ năm ngoái vì “chết cũng không trốn được nợ nhà nước”. Bị ốm, bị trói, bị đánh …. Anh Dậu bị ngất đi, rũ như xác chết được khiêng trả về nhà. Sáng sớm hôm sau anh Dậu còn đang ốm rất nặng chưa kịp húp tí cháo thì tay chân bọn hào lí lại ập đến. Chúng lồng lên chửi mắng, bịch vào ngực và tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Chị Dậu van lạy chúng tha trói chồng mình. Nhưng tên Cai Lệ đã gầm lên, rồi nhảy thốc vào trói anh Dậu khi anh Dậu đã bị lăn ra chết ngất. Chị Dậu nghiến hai hàm răng thách thức, rồi xông vào đánh ngã nhào tên Cai Lệ và tên hầu cận lý trưởng, những kẻ đã “hút nhiều xái cũ”.

- Chị Dậu bị bắt giải lên huyện. Tri Phủ Tư Ân thấy Thị Đào có nước da đen dòn, đôi mắt sắc sảo đã giở trò bỉ ổi. Chị Dậu đã “ném tọt” cả nắm giấy bạc vào mặt con quỷ dâm ô, rồi vùng chạy. Món nợ nhà nước vẫn còn đó, chị Dậu phải lên tỉnh đi ở vú. Một đêm tối trời, cụ cố thượng đã ngoài 80 tuổi mò vào buồng chị Dậu. Chị Dậu vùng chạy thoát ra ngoài trong khi “trời tối đen như mực”

III- Giới thiệu “Tắt đèn”.

1. Về nội dung tư tưởng

a. “Tắt đèn” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực: Tố cáo và lên án chế độ sưu thuế dã man của thực dân Pháp đã bần cùng hóa nhân dân. “Tắt đèn” là một bức tranh xã hội chân thực, một bản án đanh thép kết tội chế độ thực dân nửa phong kiến.

b. “Tắt đèn” giầu giá trị nhân đạo

- Tình vợ chồng, tình mẹ con, tình xóm nghĩa làng giữa những con người cùng khổ, số phận những người phụ nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao xót thương, nhức nhối và đau lòng.

- “Tắt đèn” đã xây dựng nhân vật chị Dậu, một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân Việt Nam. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp : cần cù, tần tảo, giầu tình thương, nhẫn nhục và dũng cảm chống cường hào, áp bức. Chị Dậu là hiện thân của người vợ, người mẹ vừa sắc sảo, vừa đôn hậu, vừa trong sạch.

2. Về nghệ thuật:

- Kết cấu chặt chẽ, tập trung. Cái tình tiết, chi tiết đan cài chặt chẽ, đầy ấn tượng làm nổi bật chủ đề. Nhân vật chị Dậu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm

- Tính xung đột, tính bi kịch cuốn hút, hấp dẫn

- Khắc hoạ thành công nhân vật: các hạng người từ người dân cày nghèo khổ đến dịa chủ, từ bọn cường hào đến quan lại đều có nét riêng rất chân thực, sống động.

- Ngôn ngữ từ miêu tả đến tự sự, rồi đến ngôn ngữ nhân vật đều nhuần nhuyễn đậm đà.

=> Tóm lại, đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét : “Tắt đèn” là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác.

IV. Tìm hiểu đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

1. Giới thiệu đoạn trích:

Trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, chí ít người đọc cũng nhớ chị Dậu, người phụ nữ rất mực dịu dàng và biết chịu đựng nhẫn nhục, đã ba lần vùng lên chống trả quyết liệt sự áp bức của bọn thống trị để bảo vệ nhân phẩm của mình và bảo vệ chồng con. Trong đó thì tiểu biểu nhất là cảnh “tức nước vỡ bờ” mà nhà văn viết thành một chương truyện đầy ấn tượng khó phai, chương thứ 18 của tiểu thuyết “Tắt đèn” nổi tiếng của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930- 1945.

2. Tiêu đề “Tức nước vỡ bờ” thâu tóm được :

- Các phần nội dung liên quan trong văn bản: chị Dậu bị áp bức cũng quẫn, buộc phải phản ứng chống lại Cai lệ và người nhà lí trưởng.

- Thể hiện đúng tư tưởng của văn bản : có áp bức, có đấu tranh

- Từ tên gọi của văn bản, có thể xác định nhân vật trung tâm của đoạn trích này là chị Dậu.

3. Bố cục: Chuyện tức nước vỡ bờ của chị Dậu diễn ra ở hai sự việc chính:

- Phần 1: Từ đầu đến chỗ “ngon miệng hay không”: Chị Dậu ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa vụ sưu thuế

- Phần 2: Từ “anh Dậu uốn vai đến hết”: Chị Dậu khôn ngoan và can đảm đương đầu với bọn tay sai phong kiến như Cai Lệ và người nhà Lý trưởng.

Câu hỏi: Theo em, hình ảnh chị Dậu được khắc hoạ rõ nét nhất ở sự việc nào? vì sao em khẳng định như thế?

- Sự việc chị Dậu đương đầu với Cai Lệ và người nhà lí trưởng. Vì khi đó tính cách ngoan cường của chị Dậu được bộc lộ. Trong hoàn cảnh bị áp bức cùng cực, tinh thần phản kháng của chị Dậu mới có dịp bộc lộ rõ ràng.

4. Phân tích:

a. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện mối xung đột cao độ giữa kẻ áp bức và người bị áp bức.

- Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, gia đình chị Dậu bị dồn đến bước đường cùng trong cơn khốn quẫn nhất: phải bán con, bán đàn chó mới đẻ mới đủ suất tiền sưu cho anh Dậu để cứu chồng đang ốm yếu bị đánh đập ngoài đình. Nhưng nguy cơ anh Dậu lại bị bắt nữa vì chưa có tiền nộp sưu cho người em ruột đã chết từ năm ngoái.

- Nhờ hàng xóm giúp, chị Dậu ra sức cứu sống chồng nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song tay thước và dây thừng, tính mạng của anh Dậu bị đe doạ nghiêm trọng. Anh chưa kịp húp ít cháo cho đỡ xót ruột như mong muốn của người vợ thương chồng thì bọn đầu trâu mặt ngựa đã ào vào như một cơn lốc dữ khiến anh lăn đùng ra không nói được câu gì.

=> Như vậy, tình huống vừa mới mở ra mà xung đột đã nổi lên ngay, báo trước kịch tính rất cao đề dẫn đến cảnh “tức nước vỡ bờ” như là một quy luật không thể nào tránh khỏi.

b.Bộ mặt tàn ác bất nhân của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng.

Trong phần hai của văn bản này xuất hiện các nhân vật đối lập với chị Dậu. Trong đó nổi bật là tên cai lệ. Cai lệ là viên cai chỉ huy một tốp lính lệ. Hắn cùng với người nhà lí trưởng kéo đến nhà chị Dậu để tróc thuế sưu, thứ thuế nộp bằng tiền mà người đàn ông là dân thường từ 18 đến 60 tuổi (gọi là dân đinh) hằng năm phải nộp cho nhà nước phong kiến thực dân; sưu là công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước đó. Gia đình chị Dậu phải đóng suất thuế sưu cho người em chồng đã mất từ năm ngoái cho thấy thực trạng xã hội thời đó thật bất công, tàn nhẫn và không có luật lệ.

- Theo dõi nhân vật cai lệ, ta thấy ngòi bút hiện thực NTT đã khắc họa hình ảnh tên cai lệ bằng những chi tiết điển hình thật sắc sảo.

+ Vừa vào nhà, cai lệ đã lập tức ra oai “gõ đầu roi xuống đất”, hách dịch gọi anh Dậu là “thằng kia”, “mày” và xưng “ông”, “cha mày”. “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu mau!”

+ Cai Lệ trợn ngược hai mắt, hắn quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”

+ Vẫn giọng hầm hè: “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!....”

+ Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu : “tha này! tha này!.. Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.”

=> Ngòi bút của NTT thật sắc sảo, tinh tế khi ông không dùng một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ tên cai lệ trong cảnh này. Bởi vì lũ đầu trâu mặt ngựa xem việc đánh người, trói người như là việc tự nhiên hàng ngày, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn thì làm gì chúng còn biết suy nghĩ? Nhà văn đã kết hợp các chi tiết điển hình về bộ dạng, lời nói, hành động để khắc hoạ nhân vật. Từ đó ta thấy tên cai lệ đã bộc lộ tính cách hống hách, thô bạo, không còn nhân tính. Từ hình ảnh tên cai lệ này, ta thấy bản chất xã hội thực dân phong kiến là một xã hội đầy rẫy bất công tàn ác, một xã hội có thể gieo hoạ xuống người dân lương thiện bất kì lúc nào, một xã hội tồn tại trên cơ sỏ của các lí lẽ và hành động bạo ngược.

c. Hình ảnh đẹp đẽ của người nông dân lao động nghèo khổ.

Truyện “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã tạo dựng được hình ảnh chân thực về người phụ nữ nông dân bị áp bức cùng quẫn trong xã hội phong kiến nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của người lao đông, đó là chị Dậu.

* Trước hết là tấm lòng của người vợ đối với người chồng đang đau ốm được diễn tả chân thật và xúc động từ lời nói đến hành động.

- Chị Dậu chăm sóc anh Dậu trong hoàn cảnh : Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, nhà nghèo, phải bán chó, bán con mà vẫn không lo đủ tiền sưu. Còn anh Dậu thì bị tra tấn, đánh đập và bị ném về nhà như một cái xác rũ rượi…

=> Trước hoàn cảnh khốn khó, chị Dậu đã chịu đựng rất dẻo dai, không gục ngã trước hoàn cảnh.

- Trong cơn nguy biến chị đã tìm mọi cách cứu chữa cho chồng: Cháo chín, chị Dậu mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội. Chị rón rén bưng một bát đến chỗ chồng nằm: Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng ăn có ngon miệng không.

=> Đó là những cử chỉ yêu thương đằm thắm, dịu dàng của một người vợ yêu chồng. Tình cảm ấy như hơi ấm dịu dàng thức tỉnh sự sống cho anh Dậu. Tác giả miêu tả thật tỉ mỉ, kĩ lưỡng từng hành động cử chỉ, từng dấu hiệu chuyển biến của anh Dậu : “anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng”… Dường như mỗi cử chỉ, hành động của anh Dạu đều có ánh mắt thấp thỏm, lo lắng của chị Dậu dõi theo da diết. Cứ tưởng rằng đây là một phút giây ngắn ngủi trong cả cuộc đời đau khổ của chị Dậu để chị có thể vui sướng tràn trề khi anh Dậu hoàn toàn sống lại. Nhưng dường như chị Dậu sinh ra là để khổ đau và bất hạnh nên dù chị có khao khát một giây phút hạnh phúc ngắn ngủi nhưng nào có được. Bọn Cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào như cơn lốc dữ dập tắt ngọn lửa sống đang nhen nhóm trong anh Dậu. Nỗi cay đắng trong chị Dậu không biết lớn đến mức nào. Nhưng giờ đây chị sẽ phải xử sự ra sao để cứu được chồng thoát khỏi đòn roi.

* Theo dõi nhân vật chị Dậu trong phần thứ hai của văn bản “tức nước vỡ bờ”, ta thấy chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng.

- Ban đầu chị nhẫn nhục chịu đựng:

+ Chị Dậu cố van xin thiết tha bằng giọng run run cầu khẩn: “Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất”

=> Cách cư xử và xưng hô của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục chịu đựng. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, người nông dân thấp cổ bé họng, biết cái tình thế khó khăn, ngặt nghèo của gia đình mình (anh Dậu là kẻ có tội thiếu suất sưu của người em đã chết, lại đang ốm nặng). Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói hành hạ anh.

- Khi tên cai lệ chạy sầm sập đến trói anh Dậu, tính mạng người chồng bị đe doạ, chị Dậu “xám mặt” vội vàng chạy đến đỡ lấy tay hắn, nhưng vẫn cố van xin thảm thiết: “Cháu van ông ! Nhà cháu vừa mới tỉnh được mọt lúc, ông tha cho”. (“Xám mặt”tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Mặc dù vậy, lời nói của chị vẫn rất nhũn nhặn, chị đã nhẫn nhục hạ mình xuống- chứng tỏ sức chịu đựng của chị rất lớn. Tất cả chỉ là để cứu chồng qua cơn hoạn nạn.

- Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt.

+ Khi tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên như một con chó điên “bịch vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát đánh bốp vò mặt chị thậm chí nhảy vào chỗ anh Dậu”…. tức là hắn hành động một cách dã man thì mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn. Chị Dậu đã kiên quyết cự lại. Sự cự lại của chị Dậu cũng có một quá trình gồm hai bước.

. Thoạt đầu, chị cự lại bằng lí lẽ : “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. -> Lời nói đanh thép như một lời cảnh cáo. Thực ra chị không viện đến pháp luật mà chỉ nói cái lí đương nhiên, cái đạo lí tối thiểu của con người. Lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô ngang hàng nhìn vào mặt đối thủ. Với thái độ quyết liệt ấy, một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để.

. Đến khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời còn tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: Chị Dậu nghiến hai hàm răng “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Một cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân thể hiện tư thế “đứng trên đầu thù” sẵn sàng đè bẹp đối phương. Rồi chị “túm cổ cai lệ ấn dúi ra cửa, lẳng người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm”. Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận. Với chị, nhà tù thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ nên trước sự can ngăn của chồng, chị trả lời: “thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.

Câu hỏi: Em thích nhất chi tiết nào ? Vì sao?

=> Chi tiết chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ. Vừa ra tay chị đã nhanh chóng biến tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu đựng được nữa. Đó còn là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến. Hành động dã man của tên cai lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên quá mức. Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu hiện lên khoẻ khoắn, quyết liệt bao nhiêu thì hình ảnh bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười bấy nhiêu. Và chúng ta khi đọc đến những dòng này cũng sung sướng, hả hê như Ngô Tất Tố. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội “có áp bức có đấu tranh”, “con giun xéo mãi cũng quằn”, chị Dậu bị áp bức dã man đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm.

- Kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ

Câu hỏi: Nhận xét về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật chị Dậu trong đoạn . Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó?

với lời nói và hành động.

- Tư sự kết hợp miêu tả và biểu cảm

- Từ nhũn nhặn, tha thiết van xin đến cứng cỏi thách thức, quyết liệt

- Dùng phép tương phản tính cách chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng.

=> Tác dụng:tạo được nhân vật chị Dậu giống thật, chân thực, sinh động, có sức truyền cảm. Tính cách chị Dậu hiện lên nhất quán với diễn biến tâm lí thật sinh động. Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, đầy vị tha, giầu tình yêu thương, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng nhưng hoàn toàn không yếu đuối, chỉ biết sợ hãi mà trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng.

- Từ hình ảnh của chị Dậu ta liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng tháng Tám: tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời. Nhưng họ sẽ đứng lên phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ.

- Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc chưa có kết quả (chỉ một lúc sau, cả nhà chị bị trói giải ra đình trình quan) tức là chị vẫn bế tắc nhưng có thể tin rằng khi có ánh sáng cách mạng rọi tới, chị sẽ là người đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh. Chính với ý nghĩa ấy mà Nguyễn Tuân viết: “tôi nhớ như có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật ở một cuộc cướp chính quyền huyện kì tổng khởi nghĩa.

=> Như vậy, từ hình ảnh “cái cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” và từ hình ảnh người phụ nữ trong thơ xưa đến hình ảnh chị Dậu trong “Tắt đèn”, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí.

5. Nội dung và nghệ thuật đặc sắc của văn bản “Tức nước vỡ bờ”

- Với ngòi bút hiện thực sinh động, Ngô Tất Tố đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ. Nhà văn còn ca ngợi một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ nông dân nghèo khổ: giàu tình thương yêu và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

- Đây là một văn bản tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện nổi bật xung đột. Khắc hoạ nhân vật bằng kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ, lời nói và hành động. Thể hiện chính xác quá trình tâm lí nhân vật. Có thái độ rõ ràng đối với nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật rất đặc sắc.

6. Câu hỏi luyện tập

1. Em hiểu về như thế nào về nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoạn trích? Theo em đặt tên như vậy có thoả đáng không?

- Kinh nghiệm của dân gian được đúc kết trong câu tục ngữ đó đã bắt gặp sự khám phá chân lí đời sống của cây bút hiện thực NTT, được ông thể hiện thật sinh động, đầy sức thuyết phục.

- Đoạn trích chẳng những làm toát lên cái lô gic hiện thực “tức nước vỡ bờ”, “có áp bức, có đấu tranh” mà còn toát lên cái chân lí: con đường sống của quần chúng bị áp bức chỉ có thể là con đường đấu tranh để tự giải phóng, không có con đường nào khác. Vì vậy mà tuy tác giả “Tắt đèn” khi đó chưa giác ngộ cách mạng, tác phẩm kết thúc rất bế tắc, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nói rằng: Ngô TẤt Tố với “tắt đèn” đã xui người nông dân nổi loạn. NTT chưa nhận thức được chân lí cách mạng nên chưa chỉ ra được con đường đấu tranh tất yếu của quần chúng bị áp bức, nhưng với cảm quan hiện thực mạnh mẽ, nhà văn đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ bờ” và sức mạnh to lớn khôn lường của sự “vỡ bờ” đó. Và không quá lời nếu nói rằng cảnh “tức nước vỡ bờ” trong đoạn trích đã dự báo cơn bão táp quần chúng nông dân nổi dậy sau này.

2. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Với tác phẩm Tắt đèn, NTT đã xui người nông dân nổi loạn. Nên hiểu như thế nào về nhận định này?

Gợi ý:


- Chế độ phong kiến còn áp bức, bóc lột tàn bạo không còn chỗ cho người lương thiện như chị Dậu được sống

- Những người nông dân như chị Dậu muốn sống được, không có cách nào khác phải vùng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột.

- Đó là một nhận xét chính xác.

3. Từ đó, có thể nhận ra thái độ nào của nhà văn NTT đối với thực trạng xã hội và đối với phẩm chất của người nông dân trong xã hội cũ?

- Lên án xã hội thống trị áp bức vô nhân đạo

- Cảm thông với cuộc sống cùng khổ của người nông dân nghèo

- Cổ vũ tinh thần phản kháng của họ

- Lòng tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ.

4. Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu để làm rõ câu chủ đề sau:

- Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. Thật vậy, khi bị đẩy tới đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ thật bất khuất. Khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời, còn “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: “chị Dậu nghiến hai hàm răng: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” Chị chẳng những không còn xưng hô “cháu - ông”, mà cũng không phải “tôi – ông” như kẻ ngang hàng, mà lần này, chị xưng “bà”, gọi tên cai lệ bằng “mày”! Đó là cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân, thể hiện sự căm giận và khinh bỉ cao độ, đồng thời khẳng định tư thế “đứng trên đầu thù”, sẵn sàng đè bẹp đối phương. Lần này chị Dậu đã không đấu lí mà quyết ra tay đấu lực với chúng. Cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai đã cho ta thấy sức mạnh ghê gớm và tư thế ngang hàng của chị Dậu, đối lập với hình ảnh, bộ dạng thảm hại hết sức hài hước của hai tên tay sai bị chị “ra đòn”. Với tên cai lệ “lẻo khoẻo” vì nghiện ngập, chị chỉ cần một động tác “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, hắn đã “ngã chỏng quèo trên mặt đất! Đến tên người nhà lí trưởng, cuộc đọ sức có dai dẳng hơn một chút (hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đền buông gậy ra, áp vào vật nhau), nhưng cũng không lâu, kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm! Vừa ra tay, chị Dậu đã nhanh chóng biến hai tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Lúc mới xông vào, chúng hùng hổ, dữ tợn bao nhiêu thì giờ đây, chúng hài hước, thảm hại bấy nhiêu. Đoạn văn đặc biệt sống động và toát lên một không khí hào hứng rất thú vị “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm.

5. Hãy viết một số đoạn văn chứng minh ý kiến của nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan : “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên Cai Lệ là một đoạn “tuyệt khéo”. Sau đó hãy phân tích các phương tiện chuyển đoạn văn được sử dụng.

Gợi ý:

Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn “tuyệt khéo”, đó là lời bình luận của nhà văn Vũ Ngọc Phan về tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.

“ Tắt đèn” có nhiều điểm rất hay, rất khéo; có nhiều trang làm xúc động lòng người. Trong đó có cảnh “tức nước vỡ bờ”, một trang văn “tuyệt khéo”, giàu kịch tính như một màn bi hài kịch. Có tiếng khóc, tiếng rên. Có tiếng chửi, có tiếng van xin, có lời thách thức. Có cảnh đánh nhau giữa người đàn bà lực điền và tên cai lệ.

Anh Dậu vừa mới tỉnh được một lát thì tên cai lệ, tên hầu cận lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng “sầm sập” kéo tới. Lũ sai nha sát khí đằng đằng. Chỉ một tiếng thét “thằng kia”! thế mà tên cai lệ đã làm cho anh Dậu vừa kề miệng vào bát cháo đã “lăn đùng ra chết ngất!” Hắn chửi chị Dậu thậm tệ, khi chị thiết tha xin khất sưu. Hắn “trợn ngược hai mắt” quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất! Hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để trói kẻ thiếu sưu. Hắn dã man “bịch” vào ngực chị Dậu, tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Hắn lồng lên như một con thú dữ. Ngôn ngữ, điệu bộ, hành động của tên cai lệ được đặc tả “tuyệt khéo” đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của một tên sai nha mất hết cả tính người.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 3


Còn có gì tuyệt khéo nữa? Cảnh đánh nhau giữa chị Dậu và tên cai lệ diễn ra dữ dội và hết sức bất ngờ. Người đàn bà con mọn chỉ có hai bàn tay không. Trong lúc đó, tên cai lệ, tên hầu cận lý trưởng nào roi song, nào dây thừng tay thước. Bị “bịch” vào ngực, bị tát đánh “bốp” vào mặt, người chồng ốm đau sắp bị trói, chị Dậu đã phản ứng lại dữ dội. Sau cái “nghiến hai hàm răng” thách thức, chị Dậu đã “túm lấy cổ” và ấn dúi tên cai lệ, làm cho hắn “ngã chỏng quèo” trên mặt đất. Thật hài hước, kẻ “hút nhiều xái cũ” tuy đã bị đánh ngã nhào, nhưng miệng hắn “vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Sau đó, chị Dậu còn “vật nhau” với tên hầu cận lí trưởng. Chị đã “túm tóc” và “lẳng cho một cái”, làm cho hắn “ngã nhào ra thềm”. Người đọc vô cùng hả hê trước sức mạnh phản kháng của chị Dậu. Người đàn bà con mọn đã hạ nhục, đã đánh ngã nhào bọn đầu trâu mặt ngựa, tay chân lũ cường hào gian ác, tanh hôi.

Cảnh “tức nước vỡ bờ” còn có gì “tuyệt khéo”nữa? Những lời đối thoại thật khéo. Ngòi bút của Ngô Tất Tố “tuyệt khéo” khi nói về cách đối đáp, ứng xử, tinh thần, thái độ, hành động của chị Dậu. Lúc đầu chị nín nhịn nhẫn nhục van xin: “nhà cháu đã túng lại phải… Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…”; không nạn ! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”

Sau đó, chị Dậu đã hoàn toàn thay đổi. Chị trở nên táo bạo và quyết liệt. Chồng sắp bị trói, chị bị tên cai lệ chửi và bịch vào ngực mấy cái. Chị cự lại: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Cai lệ “tát đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Như lửa đổ thêm dầu, chị đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Và chị đã đã đánh ngã nhào hai tên chó má! Dưới ngòi bút “tuyệt khéo” của ông Đầu xứ Tố, ta thấy “trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu (Nguyễn Tuân).

Thật vậy, Ngô Tất Tố viết “tuyệt khéo”. Sự việc ở nông thôn ngày xưa rất thực, rất sống. Trang văn thấm đầy tình nhân đạo. Ông đã chỉ ra cái hiện tượng “con giun xéo mãi cũng quằn”. Ông đã nêu lên một quy luật hiển nhiên: “có áp bức, có đấu tranh”. Chị Dậu là một người vợ, người mẹ đảm đang, giàu tình thương và rất cứng cỏi. Cái “tuyệt khéo” của Ngô Tất Tố là đã dựng nên bức chân dung chị Dậu.

=> Các chữ in đậm là phương tiện chuyển đoạn. Người viết đã chứng minh cái “tuyệt khéo” trong cảnh “tức nước vỡ bờ”. Các đoạn văn được nối kết khá chặt chẽ.

6. Đề tập làm văn: Hãy tưởng tượng : em nhập vai chị Dậu kể lại chuyện đánh tên Cai lệ.

Xế trưa hôm ấy, lí trưởng làng Đông Xá bắt tôi giải ra đình. Chúng bắt tôi khai về chuyện chống đối chính quyền, để lập cung giải huyện. Có đủ mặt quan viên. có cả lí cựu nữa. Nhiều người dân kéo đến, đứng lố nhố phía ngoài đình.

- Thị Đào, sao mày dám đánh người nhà của quan! Tội mày to lắm. Tù mọt gông! Mày hãy kể lại việc làm ngỗ ngược của mày, để làng lập cung.

- Lí đương vừa nói vừa đập tay xuống chiếu. Mấy tên tay chân chạy lăng xăng. Tôi chẳng sợ.

- Các ông nên hỏi hai thằng khốn nạn ấy chứ! Nhưng các ông muốn lập cung chứ gì? Ừ thì tôi nói. Chồng tôi bị ông lí đánh trói thập tử nhất sinh. Sợ xảy ra án mạng, ông lí đã sai tay chân gánh chồng tôi về nhà trả cho mẹ con tôi. Mẹ con tôi, bà con hàng xóm chạy chữa mãi, chồng tôi mới hoàn hồn.

- Thị Đào, mày dài dòng lắm! Nói ngay vào sự việc! – Lí đương ngắt lời tôi và nạt bằng giọng lè nhè.

- “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, có phải không nào? Chồng tôi vừa kề miệng vào bát cháo thì tên cai lệ xồng xộc kéo tới, hắn thét trói. Chồng tôi chết ngất lăn đùng ra! Tôi van xin. Tôi đâu phải là kẻ quá quắt. Nhưng hắn lá đứa bất nhân đã chửi tôi thậm tệ. Hắn gào lên: “Tha này! Tha này!”. Hắn bịch vào ngực tôi mấy bịch. Hắn sấn đến trói chồng tôi. Phải cứu chồng tôi chứ. Tôi nghiêm sắc mặt, nói với hắn: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Sự đời mềm nắn, rắn buông! Ai ngờ, hắn lấn tới áp chế. Hắn tát đánh bốp vào mặt tôi. Hắn như con chó dại lồng lên, hắn nhảy vào trói chồng tôi. Máu trong người tôi sôi lên. Tôi nghiến hai hàm răng. Tôi chỉ tay vào mặt hắn: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Tôi còn sợ gì nữa. Cái đồ nghiện oặt ấy, tôi coi như rơm như rác. Tôi túm lấy cổ hắn, tôi ấn dúi hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Còn cái thằng hầu cận ông lí, không tự biết thân lại còn giơ gậy đánh tôi. Hắn bị tôi túm tóc, lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm. Hai thằng khốn nạn ấy lồm ngồm bò dậy, chạy thục mạng về đình. Chúng đã bỏ lại ở nhà tôi roi song, tay thước, dây thừng… Đáng lẽ tôi phải đánh cho hai tên ấy một trận nhừ tử. Nhưng đánh chó còn ngó đến chúa nhà. Tôi nể ông Lí đấy!..

Xung quanh đình có tiếng cười rúc rích.

Lí Cựu ngồi trên chiếu, xoay mình vuốt râu, tủm tỉm cười.

Lí đương cất tiếng: “con thị Đào này ghê gớm lắm! Bướng bỉnh lắm! Phải giải ngay lên quan phủ để trừng trị!..

7.Phân tích đặc điểm nhân vật chị Dậu trong đoạn trích  « Tức nước vỡ bờ » của Ngô Tất Tố

I - Mở bài :

- Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực, xuất sắc viết rất thành công và chân thực về hình tượng người nông dân trước CMT8.

- Với một nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và trái tim yêu thương con người tha thiết, Đoạn trích « tức nước vỡ bờ » đã cho ta thấy thêm một vẻ đẹp bất ngờ trong tính cách của chị Dậu, đó là sự vùng lên chống trả quyết liệt ách áp bức của giai cấp thống trị mà sức mạnh chính là lòng căm hờn, uất hận và tình yêu thương chồng con vô bờ bến

II- Thân bài :

1. Chị Dậu - một người nhẫn nhục, chịu đựng

a. Thái độ của chị Dậu khi bọn tay sai ập vào

- Mọi cố gắng chăm sóc chồng của chị Dậu đều uổng phí ( Anh Dậu vừa kề bát cháo đến miệng, nghe tiếng thét của Cai Lệ thì sợ quá lăn đùng ra phản)

- Thái độ của bọn tay sai : hách dịch, hành động thì hung hãn, lời nói thì thô lỗ

- Trong hoàn cảnh ấy, thái độ của chị Dậu

+ Run run ( chị sợ thì ít mà lo cho chồng thì nhiều)

+ Chị cầu khẩn bằng giọng thiết tha  « nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại »

+ Cách xưng hô : gọi « ông » và xưng « cháu »

b. Nhận xét : Cách cư xử của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục, chịu đựng của chị. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, biết cái khó khăn ngặt nghèo của gia đình mình. Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong cho chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói, hành hạ anh)

2. Chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt.

a. Phân tích lời nói bộc lộ tính cách của nhân vật chị Dậu

- Khi tên Cai Lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu thì :

+ Chị xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống, đỡ lấy tay hắn và tiếp tục van xin : « ông tha cho nhà cháu »

« Xám mặt »- > Tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Thái độ của chị thì bất bình nhưng lời nói của chị vẫn nhũn nhặn => Chứng tỏ sức chịu đựng của chị

- Khi tên Cai Lệ bịch vào ngực chị và đánh trói anh Dậu :

+ Chị cự lại bằng lời nói : « chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ » -> Lời nói đanh thép như một lời cảnh cáo

+ Cách xưng hô : ngang hàng « ông- tôi »=> thể hiện sự uất ức củ chị

+ Thái độ : quyết liệt : một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để

- Khi Cai Lệ tát chị Dậu và tiếp tục nhẩy vào cạnh anh Dậu

+ Chị nghiến hai hàm răng=> Thể hiện sự uất ức cao độ không thể kìm nén

+ Ngang nhiên thách thức : « mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem ! »

+ Túm cổ Cai Lệ, ấn dúi ra cửa

+ Lẳng người nhà Lý trưởng ra thềm

=> Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ.

b. Nhận xét, đánh giá, bình luận

* Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn

- Uất hận vì bị dồn nén đến mức không thể chịu nổi nữa

- Là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến

- Hành dộng dã man của tên Cai Lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên đến quá mức...

* Từ hình ảnh chị Dậu liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng

- Tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời

- Họ sẽ phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ

- Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc nên chưa có kết quả

* Liên hệ quy luật xã hội

- Ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh

* Thái độ của nhà văn : Những trang viết với sự hả hê, nhà văn đứng về phía những người cùng khổ đồng tình với họ, lên án, tố cáo sự dã man của bọn tay sai, phong kiến.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật :

- Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế

- Tính cách nhân vật chị Dậu hiện lên thật nhất quán.

III- Kết luận

Tóm lại chưa mấy nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố thấy được sức sống tiềm tàng, tinh thần kiên cường bất khuất của những người nông dân bị chà đạp tưởng đâu chỉ biết an phận, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Đoạn trích đã cho thấy sự tìm tòi khám phá và tiến bộ trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Vì thế Ngô Tất Tố đã thành công đặc biệt trong việc thể hiện chân thực vẻ đẹp và sức mạnh tâm hồn của người phụ nữ nông dân. Với hình tượng chị Dậu, lần đầu tiên trong VHVN có một điển hình chân thực, toàn vẹn, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân lao động.

* Dặn dò:Ôn tập văn bản" Lão Hạc"

* Rút kinh nghiệm:..................................................................................................

Ngày tháng năm

Ngày soạn:22/9

Ngày dạy:

Chuyên đề : Truyện và kí Việt Nam 1930-1945

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Khái quát trào lưu văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945

- Hiện thực đời sống con người và xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8.

- Những phẩm chất cao đẹp của người nông dân trong xh cũ.

- Trào lưu hiện thực gồm các nhà văn hướng ngòi bút vào việc phơi bày hiện thực bất công, thối nát của xã hội và đi sâu phản ánh thực trạng thống khổ của tầng lớp quần chúng bị áp bức, bóc lột đương thời. Nói chung các sáng tác của trào lưu văn học này mang giá trị hiện thực sau sắc và thấm đượm tinh thần nhân đạo.

- Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở thể loại văn xuôi với các tên tuổi lớn như: Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao…

- Liên hệ mở rộng một số tác giả có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện thực như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Giá trị hiện thực và nhân đạo trong các tác phẩm truyện kí VN 1930-1945.

2. Kỹ năng

- Biết trình bày suy nghĩ về nhân vật, về giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

-Rèn kĩ năng viết đoạn văn trình bày suy nghĩ, đánh giá của mình về nội dung, ý nghĩa của văn bản.

- Rèn kĩ năng tổng hợp, khái quát vấn để văn học.

-Rèn luyện các kĩ năng xác định đề, xây dựng dàn ý, dựng đoạn, hành văn, khái quát, liên hệ, nâng cao

- Rèn kĩ năng luyện đề tổng hợp.

3. Các dạng bài

- Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về một nét tính cách của nhân vật.

- Chứng minh làm sáng tỏ một nhận xét, đánh giá về nhân vật hoặc một lớp nhân vậtcó nét chung.

- Làm sáng tỏ giá trị hiện thực và nhân đạo của các văn bản.

- Nhân xét, đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của các truyện kí.

4. Các văn bản:

- Tôi đi học: Thanh Tinh

- Trong lòng mẹ: Nguyên Hồng

- Tức nước vỡ bờ: Ngô Tất Tố

- Lão Hạc: Nam Cao

5. Thời lượng: 5 buổi


B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập, đọc tài liệu

C. Tiến trình

VĂN BẢN: LÃO HẠC

Nam Cao


Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao

I. Cuộc đời


II. Sự nghiệp văn học Mười năm cầm bút, Nam Cao để lại cho đời một khối lượng sáng tác khá đồ sộ - “Toàn tập Nam Cao” gồm 1400 trang được hoàn thiện năm 1999.

1. Quan điểm nghệ thuật

Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng các trang văn lãng mạn. Lúc này, quan điểm sáng tác lãng mạn ảnh hưởng đến Nam Cao khá rõ. Nhưng rồi, tác giả nhận ra: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với đời sống lầm than, nhà văn lãng mạn thoát li không ưa sự thật; âm điệu ảo não, thất tình tràn đầy các trang sách của họ. Sau bao trăn trở, khi nhận ra: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh. Trong thời kì này, “Trăng sáng” (1943) được xem là một tuyên ngôn nghệ thuật. Truyện ngắn trên đánh dấu bước trưởng thành của Nam Cao về quan điểm sáng tác. Nó thể hiện cuộc đấu tranh day dứt của nhà văn Điền trước hai lối viết, hai cách sống (mơ mộng hay thực tế; lãng mạn hay hiện thực ...). Qua Điền, Nam Cao thiết tha khẳng đinh: “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng kêu đau khổ kia toát ra từ những kiếp lầm than”. Vì thế, văn nhân không được “trốn tránh” sự thật, mà “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Sau “Trăng sáng”, Nam Cao là nhà văn hiện thực – người thư kí trung thành của thời đại. Với quan niệm “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”, văn chương sẽ không có giá trị, ông nghĩ: viết thì “rất cần sự thực”. Từ những việc nhỏ nhoi, xoàng xĩnh, người sáng tác phải nêu được những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Tác phẩm văn học có giá trị phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa). Trước Cách mạng, Nam Cao đã coi trọng đôi mắt tình thương và khẳng định: nhà văn phải là nhà nhân đạo. Qua “Trăng sáng”, “Đời thừa”,... ông muốn văn học phản ánh cuộc đời của tầng lớp sống dưới đáy xã hội. Từ bi kịch của Hộ, Nam Cao khuyên nhà văn tạm thời hi sinh nghệ thuật đề giữ lối sống nhân đạo. Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Đành rằng, làm nghề gì cũng phải sáng tạo, nhưng yêu cầu này đối với các tác gia nghệ thuật khắt khe hơn nhiều. Trong cuộc sống, sáng tạo là làm ra những sản phẩm tinh thần, vật chất chưa từng có; nhà văn phải biết tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”... Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả -cẩu thả trong nghề văn chẳng những “bất lương” mà còn “đê tiện”. Nam Cao đã thực hiện ba quan điểm trên trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu (trước chưa có, sau chưa thấy) mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành quỷ giữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.  Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác theo quan điểm hiện thực phê phán. Tuy vậy, nhiều trang viết của ông đã hé lộ nhân tố mới (Chí Phèo thức tỉnh, giết bá Kiến). Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chông Pháp, ông nêu quyết tâm: “sống đã rồi hãy viết”. “Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên truyền viên nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh (Đôi mắt; Ở rừng). Ông vui vẻ nhận ra “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Quan điểm tiến bộ trên đây giúp Nam Cao thành nhà văn cách mạng, nghệ sĩ chân chính của thời đại.

2. Các đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng

Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa (Chuyện người hàng xóm), và tiểu thuyết Sống mòn. Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh hai đề tài: người tri thức nghèo và nông dân bần cùng. Ở đề tài thứ nhất, ấn tượng hơn cả là: - Những truyện không muốn viết (1942) - Trăng sáng (1943) - Đời thừa (1943) - Quên điều độ (1943) -Sống mòn (tiểu thuyết - 1944). Qua các trang viết trên, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người tri thức nghèo trong xã hội cũ. Đó là những “giáo khổ trường tư”, nhà văn túng quẫn, viên chức nhỏ - nghèo... Qua họ, ông nêu lên nhiều triết lí sâu sắc, có ý nghĩa xã hội to lớn. Trí thức trong sáng tác của Nam là những người có tài năng, tâm huyết, biết tự trọng và ôm ấp hoài bão lơn lao (xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý) nhưng không thực hiện được vì nạn áo cơm ghì sát đất. Hộ thiết tha viết tác phẩm ăn giải Nô-ben; Thứ mong muốn được đóng góp công sức làm đổi thay nền giáo dục để xã hội công bằng. Vậy mà cả hai đều bị dồn vào tình trạng “chết mòn”, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đề tài này, Nam Cao phê phán xã hội cũ giết chết tài năng, tàn phá tâm hồn nghệ sĩ. Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh, khắc phục mặt hạn chế, vươn lên giữ lối sống đẹp. Ở đề tài thứ hai, Nam Cao viết chừng hai mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là: - Chí Phèo (1941) - Trẻ con không được ăn thịt chó (1942). - Lão Hạc (1943) - Một bữa no (1943) - Một đám cưới (1944)  Trong đó,”Chí Phèo” xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề tài này, Nam Cao khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác , bần cùng trong khoảng thời gian 1940 -1945. Ông đặc biệt quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ bé họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành họ càng bị chà đạp phũ phàng. Viết về nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không “bôi nhọ” nông dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất cao cả của những người bị xã hội dập vùi. Đó là hai đề tài quen thuộc, nhưng vì biết khơi những nguồn chưa ai khơi, Nam Cao vẫn tạo được sự hấp dẫn. Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam Cao luôn luôn thể hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên mẫu từ quê hương, bản thân. Sáng tác của ông chứa đựng nội dung triết học sâu sắc. Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với “đôi mắt” mới. 

3. Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao

Nam Cao có biệt tài phân tích và diễn tả những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất trong tâm hồn con người. Nhờ vậy, ông khắc họa được những điển hình độc đáo. Am hiểu nhân vật, Nam Cao tạo nên nhiều đoạn đối thoại và độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. Truyện ngắn Nam Cao mang tính triết lý sâu sắc mà không khô khan. Tinh lọc qua trái tim chất chứa đau đớn, dằn vặt, ... câu chữ của Nam Cao kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình.  Nam Cao biết linh hoạt thay đổi giọng điệu. Ông có ý thức sử dụng hai giọng chủ yếu: - Giọng tự sự lạnh lùng, mỉa mai. Ở đây, tác giả thường dùng đại từ có sắc thái dửng dưng, khinh bạc (hắn, y, thị ... ) - Giọng trữ tình tha thiết với những thán từ: Chao ôi ! Hỡi ôi ! Ơi ! Hai giọng điệu đối lập ấy đan xen hòa hợp tạo nên phong vị riêng cho các trang viết Nam Cao. Nói về truyện ngắn, phải khẳng định: Nam Cao có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi. Đến Nam Cao, truyện ngắn nước nhà mới thực sự hoàn thiện một quá trình hiện đại. Nam Cao xứng đáng là tác gia lớn; ông đã để lại nhiều kiệt tác. Cuộc đời, trang viết Nam Cao là một tấm gương sáng về nhiều mặt cho văn nghệ sĩ muôn đời.

4. Phong cách nghệ thuật

Phong cách nghệ thuật của nhà văn là những đặc điểm nội dung, hình thức riêng bào trùm toàn bộ sáng tác của họ. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút có phong cách độc đáo. Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và đặc biệt hứng thú với việc khám phá “con người trong con người” (sau vẻ bề ngoài của Chí Phèo, thị Nở, lang Rận... còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm hiểu mới phát hiện được) Ông quan niệm “bản tính cốt yếu của sự sống là cảm giác và tư tưởng” (Sống mòn). Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc, linh diệu thì sự sống càng cao. Vì thế, Nam Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của hành động. Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm. Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung tâm chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những quá trình tâm lý phức tạp (quỷ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới giữa thiện - ác, hiền - dữ, người - vật… Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm, Nam Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động. Mặt khác, trong kết cấu - ông thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Về đề tài, ngòi bút Nam Cao cũng quan tâm đến “Những chuyện không muốn viết” - chuyện nhỏ nhặt, thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người, cuộc sống và nghệ thuật chân chính. Kể chuyện bằng ngôi thứ nhất hay thứ ba, Nam Cao vẫn là nhà văn có giọng điệu riêng: - Triết lí, mỉa mai, chua chát; - Dửng dưng, lạnh lùng mà tràn đầy thương cảm, đằm thắm, thiết tha…

*.Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao

- Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Trí. Ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

- Trước năm 1945, ông dạy học tư và viết văn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.

- Sau cách mạng tháng Tám, ông chân thành, tận tuỵ sáng tác phục vụ kháng chiến : làm phóng viên mặt trận, rồi làm công tác văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1951, ông đi công tác vào vùng sau lưng địch, hi sinh trong tư thế một nhà văn- chiến sĩ.

- Nam Cao được nhà nước truy tặng « Giải thưởng Hồ Chí Minh » về văn học nghệ thuật (năm 1996).

- Nam Cao là tác giả của cuốn tiểu thuyết « Sống mòn » và khoảng 60 truyện ngắn tiêu biểu nhất là các truyện « Chí Phèo », « Lão Hạc », « Mua nhà », « Đời thừa », « Đôi mắt »....

- Nam Cao có tài kể chuyện, khắc họa nhân vật bằng độc thoại với bao trang đời éo le, đầy bi kịch. Người nông dân nghèo, người trí thức nghèo là hai đề tài in đậm trong truyện của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao biểu hiện « một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết » (Nguyễn Đăng Mạnh).

*.Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn « Lão Hạc »

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, « Lão Hạc » là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể truyện.

A. Giá trị nội dung

1 Tình cảnh cùng khổ và số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

a.Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị vây bủa trong sự nghèo đói. Đã nghèo, lại góa vợ, lão Hạc lầm vào cảnh một thân gà trống nuôi con.

- Không có ruộng cầy, toàn bộ gia tài của lão chỉ là một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu ». Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão « bòn mót ». Cho nên lão phải làm thuê làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn.

=> Đó là tất cả cuộc đời lão đã khiến lão thấm thía cái kiếp nghèo tủi nhục của mình, mà có lần lão đã chua xót thốt lên rằng : « nó chỉ nhỉnh hơn cái kiếp của một con chó »

b. Mất con

- Chính cái nghèo đã kiến cho lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc không thành của người con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn cái đạo làm cha. Anh con trai vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chỉ bỏ đi đồn điền cao su tận Nam Kì biền biệt 5,6 năm chưa về. Thế là cái nghèo lại cướp nốt đứa con trai của lão. Lão vô cùng đau xót về điều này, kể lại chuyện với ông giáo mà nước mắt rân rấn : « Thẻ của nó người ta giữ. Hình của nó người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Câu nói của lão nhói lên một nỗi đau, bởi nó đã khái quát cả một cảnh đời cùng khổ một số phận thảm thương của người nông dân trong chế độ cũ.

c.Bán chó :

- Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi, trơ trợ một mình trong nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Chỉ có con chó là bầu bạn sớm tối, con chó thành « cậu Vàng », thành một người trong nhà lão. « Con chó là của cháu nó mua đấy chứ ». Lão vẫn không quên con chó là kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con trai. Có một mối dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, con chó và đứa con trai vắng mặt. Cho nên, có bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão yêu quý «cậu vàng » như con, như cháu tưởng như không thể nào có thể rời xa nó, tưởng như cuộc đời lão không thể thiếu nó.

-Vậy mà, tình cảnh đói nghèo khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày, không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, hay một chén thuốc ! Tình cảnh ấy thật đáng thương ! Tiếp theo một trận bão to, cây cối, hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà congái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Lão Hạc thành ra thất nghiêp.Thóc cao, gạo kém, sức cùng, lực kiệt, lão Hạc đành phải bán con chó mà lão rất yêu quý. Bán con chó là bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của lão. Lão đã đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán con chó.

- Và khi buộc lòng phải bán nó lão vô cùng đau đớn. Bán nó xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ « tệ lắm », đã già mà còn đánh lừa một con chó ». Kể lại chuyện bán chó với ông giáo mà « Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước ». Lão tự nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn nhất trong cuộc đời lão, khiến cho « mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoeo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.. »

=> Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão khi thì « rân rấn », lúc « ầng ậng », cả khi « cười cũng như mếu ». Nước mắt ấy dường như đã cạn kiệt trong cuộc đời khổ đau, tủi cực của lão. Cho nên khi khóc, « mặt lão đột nhiên co rúm lại ». Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra ». Nhiều người cho rằng đây là cái tài miêu tả cuả Nam Cao, nhưng trước hết đó là cái tình của nhà văn đối với kiếp người tủi cực trong chế độ cũ. Không có một sự cảm thông sâu sắc, không có một tình xót thương chân thành, không thể vẽ lên một nỗi đau hằn sâu trên khuôn mặt lão Hạc như vậy. Một nét vẽ mà như cô đúc cả một cảnh đời, một kiếp người trong xã hội cũ.

d.Cái chết

- Nhưng thê thảm nhất vẫn là cái chết của lão Hạc sau những ngày ăn khoai, ăn củ chuối, sung luộc, rau má, củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc... để rồi cuối cùng lão đã ăn bả chó mà chết. Dĩ nhiên, lão lựa chọn cái chết ấy là vì đứa con trai nhưng suy cho cùng thì chính tình cảnh khốn quẫn, sự đói khổ đã đẩy lão đến bước đường cùng phải chết.

- Đó là một cái chết thật là dữ dội và cũng vô cùng bi thảm :  « Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên... Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.

=> Như vậy, nghèo khổ đã đẻ nặng lên cuộc đời làm thuê làm mướn khiến cho lão sức cùng lực kiệt ; nghèo khổ lại cướp nốt đứa con trai của lão ; cướp nốt cả « cậu vàng » thân yêu, niềm an ủi cuối cùng của lão ; và nghèo khổ lại đẩy lão đến cái chết đau đớn và thảm khốc như chưa từng thấy. Cái chết ấy đã kết thúc một cảnh đời tủi cực và một số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc sống cùng khốn và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân lao động trong xã hội tăm tối đương thời. Không chỉ là nỗi đau, cái chết ấy còn là một lời tố cáo sâu sắc và mạnh mẽ cái chế độ tàn ác, bất nhân đã gây nên những cảnh đời thê thảm như lão Hạc. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng một mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết.... và lão Hạc đã quyên sinh bằng bả chó. Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo : « Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ? Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.

* Số phận anh con trai lão- nhân vật không xuất hiện, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ của lão Hạc- cũng thật đáng thương : chỉ vì quá nghèo mà cô gái anh yêu thương trở thành vợ kẻ khác ; anh phẫn chí ra đi nuôi mộng « cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm mới về », không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm ». Nhưng, thật tội nghiệp, cái nơi mà anh ta tìm đến với hi vọng làm giầu lại là đồn điền cao su Nam Kì, một địa ngục trần gian, thân phận phu cao su chỉ là thân phận nô lệ. Còn lão Hạc thì cứ mong con mỏi mắt suốt tận ngày cuối đời...




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 4


2. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc.

Chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta lại thấy bừng sáng lên một vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc. Lão Hạc sống lủi thủi, thầm lặng, bề ngoài lão có vẻ như lẩm cẩm, gàn dở ; vợ ông giáo cũng chẳng ưa gì lão : « cho lão chết ! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ ? Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ ! » Chính ông giáo cũng có lúc từng nghĩ là lão « quá nhiều tự ái », còn Binh Từ thì « bĩu môi nhận xét : Lão làm bộ đấy ! thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu ! » Nhưng kì thực lão Hạc có một nhân cách hết sức cao quý mà bề ngoài không dễ thấy. Đằng sau « manh áo rách » là một tấm lòng vàng ». Nó được thể hiện qua tấm lòng của lão đối với con trai, đối với « cậu Vàng », qua việc gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo và nhất là qua cái chết thảm khốc mà lão đã lựa chọn cho chính mình.

a. Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành và nhân hậu vô cùng

* Cái tình của lão đối với « cậu Vàng » thật là hiếm có, đặc biệt và Nam Cao đã ghi lại tỏng những dòng chữ xúc động.

+ Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi đối với cuộc sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. + Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giầu (…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.

+ Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Đoạn lão nói chuyện với cậu Vàng về việc « định giết cậu để cưới vợ cho con trai rồi lại không giết nữa, để nuôi » đã bộc lộ sâu sắc tình cảm của lão Hạc đối với con chó thân yêu.

=> Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu. Nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã toả sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

+ Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương thiện” ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc… Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy.

* Tấm lòng người cha ở lão Hạc đối với anh con trai mới thực cảm dộng, làm nên tâm sự chính của nhân vật và mạch truyện chủ yếu của tác phẩm. Nó liên quan đến cái tình của lão đối với cậu vàng, đến việc lão gửi gắm nhờ gửi ông giáo, và giải thích rõ cái chết thảm khốc của lão ở cuối truyện. Đó là tấm lòng của người cha thương con, suốt cả cuộc đời lo lắng cho con và sẵn sàng hi sinh tất cả- kể cả tính mạng – cho đứa con thân yêu của mình. Nam Cao đã thấu hiểu cái tình cha con, thiêng liêng, sâu sắc đó ở người lão nông nghèo khổ này và đã diễn tả thật cảm động trên từng trang viết của tác phẩm.

+ Đầu tiên là việc anh con trai tính chuyện bán vườn để lo cưới vợ nhưng nghe lời bố, lại thôi. Thấy con buồn, lão Hạc « thương con lắm, nhưng biết làm sao được ?... » Đó là tình thương đầy bất lực của một người cha nghèo.

+ Sau đó, anh con trai « sinh phẫn chí », bỏ làng, lìa cha, kí giấy đi làm dồn điền cao su. Đứa con trai độc nhất của lão đã bị cái nghèo cướp nốt, lão vô cùng đau đớn. Nỗi đau mất con khiến lão « chỉ còn biết khóc chứ biết làm thế nào nữa ? Bởi « nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Lão Hạc kể lại chuyện khóc con, giống như lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của người cha hoàn toàn bất lực khi thấy con trai tuột ra khỏi tay mình để trở thành người của người ta.

+ Trong nỗi đau ấy, khi chỉ còn sống cô đơn, thủi thủi một mình thì lão Hạc đã biết chọn một cách sống cho con, vì con. Đó là cách sống không tính đến bản thân mình, khiến cho tình yêu thương và lòng nhân hậu của lão đã hoá thành một nhân cách làm người, nhân cách làm cha. Ta thấy trong từng nếp nghĩ của lão bao giờ cũng thấm đẫm đức hy sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai dặn bố : « bòn vườn đất với làm thuê làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn ». Nhưng lão đã tự xóa đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh vườn ấy : « cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước ta không bán là ta có ý giữ cho nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu ! ». Cho nên, lão làm thuê làm mướn để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm, thế nào đến lúc con lão trở về cũng có được một trăm đồng bạc. Lão tính tiền ấy lão sẽ thêm vào cho con cưới vợ, nếu con đã đủ tiền cưới vợ thì cho nó để có chút vốn mà làm ăn. Thương con mà vị tha, hi sinh như thế thì đó chính là lòng thương con mộc mạc, cụ thể mà cao cả biết bao của những người lao động nghèo, ngay cả khi họ phải sống khốn quẫn nhất trong xã hội cũ. Đến cả chuyện buộc phải bán chó, thì không phải chỉ vì không nuôi nổi nó, mà cái chính vẫn là vì con : « bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó ».

+ Nhưng cái chết mới là đỉnh cao của đức hy sinh, lòng vị tha-mà ở đây chính là tình thương yêu sâu sắc của lão Hạc đối với đứa con trai.

- Hoàn cảnh ngày càng cùng cực đã đẩy lão tới một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát : tiếp tục kéo dài sự sống tàn để trở thành kẻ báo hại cho con hay là chết đi để trọn đạo làm người, trọn đạo làm cha. Và lão đã chọn cái chết, không phải cho xong đời mình, mà chết cho con, vì con.

+Lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết từ lúc quyết định bán con chó, bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của đời mình ; từ khi gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo ; và cả những lúc ăn sung luộc, ăn củ ráy... để cuối cùng lão quyết định xin Binh Tư bả chó !... Có nỗi đau bán chó, có sự chu đáo và cẩn trọng trong việc gửi gắm nhờ vả ông gia,s có sự nhịn ăn mấy ngày liền thì mới có việc xin bả chó để tự kết liễu đời mình. Có nghĩa là lão đã chuẩn bị chu đáo mọi việc cho con (và cả cho mình nữa) để sắn sàng đi vào một cái chết thật dữ dội và bi thảm. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn !

=> Lão Hạc là một nông dân không được học hành, không có chữ nghĩa, càng không biết nhiều lí luận về tình phụ tử. Nhưng cái chết dữ dội của lão là bằng chứng cảm động về cái tình phụ tử nguyên sơ, mộc mạc, nhưng thăm thẳm, thiêng liêng biết chừng nào.

b. Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giầu lòng tự trọng.

- Lão Hạc đã tìm đến cái chết mặc dù trong tay vẫn còn mấy chục bạc (không kể vẫn còn mảnh vườn đáng giá mà không ít kẻ nhòm ngó)

- Bất đắc dĩ phải bán con chó ; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt « thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó ».

- Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai như một lời nguyền đinh ninh : « Cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng ». Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng hàng xóm. Lão thà nhịn đói chứ không tiêu xu nào vào món tiền mà lão cậy ông giáo cầm giúp đó.

- Với lòng tự trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành dụm bằng nhịn ăn, nhịn tiêu của lão, để nhờ ông giáo đưa ra nói với bà con hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Khi đã đem gửi hết đồng tiền cuối cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má..., nhưng lại kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo mà chắc lão hiểu là rất thân tình.

- Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ « làm nghề ăn trộm » ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng. Lão Hạc dù nghèo đói vẫn quyết sống bằng bàn tay lao động của mình trong khi ở xã hội đó có nhiều người đã bị ngã quỵ trước bản năng (cái đói và miếng ăn) như Chí Phèo, Binh Tư... Lang Rận... Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, ra đi vẫn giữ được tâm hồn thanh thản, nhân cách trong sạch, lão Hạc đã trở thành một vị thánh. Là một ông già nông dân cùng khổ, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có thức thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người của câu tục ngữ : « đói cho sạch, rách cho thơm », « thà thác trong còn hơn sống đục ». Đó cũng là một nét nhân cách đáng trọng của người lao động nghèo.

=> Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn ; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

3. Nhân vật «Tôi »- người kể chuyện (cũng chính là tác giả, tuy vậy không nên đồng nhất hoàn toàn với nhân vật về nguyên mẫu).

- Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lai bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội cũ.

- Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng « ông giáo » đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 « nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể ». Hai tiếng « ông giáo » từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng : « cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ !... « Vâng, ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng »... « Tôi cắn rơm, cắn cổ lạy ông giáo »....

- Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lý tưởng đẹp, với bao mộng tưởng. Ông đã từng lặn lội vào tận Sài Gòn, « hòn ngọc Viễn Đông » thời ấy để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va li « đựng toàn những sách » được người thanh niên ấy rất nâng niu », cái kỉ niệm « đầy những say mê đẹp và cao vọng » ấy, hơn sáu chục năm còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.

- Con người « nhiều chữ nghĩa » ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bứng lên trong lòng ông « như một rạng đông » thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, « trong trẻo, biết yêu và biết ghét »

- Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông giáo mãi, « ông giáo khổ trường tư ». Vận hạn xẩy ra luôn như ông nghĩ : « Đời người ta không chỉ khổ một lần ». Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền : « dù có phải chết cũng không bán ». Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. « Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu ? » Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng : biết sống, và dám hi sinh vì cuộc sống !

- Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và và chuyện đứa con trai « phẫn cí » không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên... Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang « lúc tắt lửa tối đèn có nhau ». Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không bao giờ quên mẩu đối thoại này :

- Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo :

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng ?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?

Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo :

- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng : bây giờ cụ ngồi xuống phải này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc : ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

- Vâng ! Ông giáo dậy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng ».

- Ông giáo đã thương lão Hạc « như thể thương thân ». Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để « ngấm ngầm giúp » khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn khoai, ăn rau, ăn củ ráy... trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói ; cái nghĩa cử « lá lành đùm lá rách » ấy mới thật cao đẹp biết bao !

- Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi chết « gọi là của lão có tí chút.. », gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai. Tình tiết ấy nói lên lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc « chọn mặt gửi vàng ». Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội một bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào đôi của chị nhà quê (Đồng hào có ma)... ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện.

- Trước cái chết dữ dội của Lão Hạc, cái chết « đau đớn và bất lình lình », chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng : « Lão Hạc ơi ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn ; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào... »

- Cùng chung với ông giáo Thứ trong « sống mòn », Điền trong « Trăng sáng », nhân vật « tôi » trong « mua nhà », hình ảnh ông giáo trong truyện « lão Hạc » đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nân vật- nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư- trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.

- Trong truyện « Lão Hạc », ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho « bức tranh quê » ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.

3. Cách nhìn người của nhà văn Nam Cao.

Nam Cao đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người : «Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương (...) Cái bản tính tốt củ người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp mất »

- Suy nghĩ của nhân vật «tôi» trên đây chính là một điểm quan trọng trong ý thức sáng tác của nhà văn Nam Cao. Đó chính là vấn đề mà sau này Nam Cao gọi là « Đôi mắt » ; phải xác định « đôi mắt » đúng đắn trong cách nhìn về quần chúng nghèo khổ. Trong « Lão Hạc », nhà văn cho rằng đối với người nông dân lao động thì phải « cố mà tìm hiểu họ » thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi « gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi » ấy chỉ là « những người đáng thương » và có « bản tính tốt », có điều, « cái bản tính tốt » ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống « che lấp mất ». Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông, và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt, phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. Có thể nói, chẳng những trong « Lão Hạc » mà trong cả « Chí Phèo », « Lang Rận », « một bữa no », « Tư cách mõ »... và hầu hết truyện dài của Nam Cao, nhà văn đều đặt ra vấn đề « đôi mắt ». Ông chính là luật sư đứng ra bênh vực cho một Chí Phèo, một anh Cu Lộ, một Lang Rận, một bà cái Tí, khẳng định rằng họ đều có tình cản rất « đáng thương » và đều « bản tính tốt », nhưng chính cuộc đời quá khắc nghiệt đã đẩy họ vào con đường lưu manh hoặc làm những việc xấu xa... Sau cách mạng, trong truyện ngắn « Đôi mắt » (1948), Nam Cao đã trực diện đặt ra vấn đề cần xác định « đôi mắt » đúng đắn để thấy được bản chất cách mạng của quần chúng nông dân đang là chủ lực của cuộc kháng chiến chống Pháp khi đó.

Cho nên, có thể nói, vấn đề « đôi mắt » là một đặc điểm quan trọng trong quan điểm sáng tác của Nam Cao, trở thành ý thức nghệ thuật thường trực trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu nặng với nhân dân.

B. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện

« Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay nhất của cây bút truyện ngắn bậc thầy Nam Cao. Tài nghệ bậc thầy đó thể hiện ở nhiều khía cạnh và có những điểm nổi bật sau :

- Xây dựng nhân vật :

+ Không được miêu tả thật kĩ về ngoại hình, cũng không có nhiều hành động, song được tập trung soi sáng từ bên trong.

+ Tác giả đã đi sâu vào những tâm tư, những lo tính của lão Hạc chung quanh việc bán « cậu Vàng » và việc lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết, chính từ đó mà số phận đau thương, tính cách độc đáo của nhân vật hiện ra thật rõ nét. Nhân vật lão Hạc chân thực, sinh động, có bề dầy xã hội và đồng thời có cá tính độc đáo, chủ yếu được nhà văn khắc hoạ bằng miêu tả tâm lý. Chẳng hạn, qua cản lão Hạc trò chuyện với « cậu Vàng », có thể thấy rõ cảnh sống cô đơn của lão, chất người trung hậu ( thể hiện qua thái độ âu yếm, chiều chuộng đối với cậu Vàng) và tình thương sâu nặng đối với đứa con trai đang ở xa. Hoặc những chi tiết thể hiện phản ứng tâm lí của lão Hạc xung quanh việc mà lão cho rằng đã « lừa cậu Vàng » : đau đớn, chua xót, hối hận, đã cho thấy rất rõ tâm hồn, tính cách ông lão nông dân nhân hậu, đáng thương ấy.

- Cách dựng truyện, bút pháp trần thuật linh hoạt, mới mẻ. Tác giả đi thằng vào giữa truyện ( cảnh lão Hạc nói chuyện với « tôi » về việc sẽ phải bán « cậu Vàng ») rồi mới nhẩn nhà đi ngược thời gian, kể về cảnh ngộ nhân vật, từ chuyện « con chó là của cháu nó mua đấy » chuyển sang chuyện anh con trai đã bỏ đi phu, để lại lão Hạc sống cô đơn và giờ đây đang lâm cảnh cùng đường... Cách dẫn chuyện rất thoải mái, tự nhiên, có vẻ lỏng lẻo song kì thật thật chặt chẽ, tập trung, khắc hoạ nhân vật và thể hiện chủ đề.

- Truyện rất mực chân thực, đồng thời thấm đượm cảm xúc trữ tình. Qua nhân vật « Tôi », người kể chuyện, tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Chất trữ tình thể hiện ở giọng kể, ở những câu cảm thán nhiều khi không nén được cảm xúc, tác giả đã gọi tên nhân vật lên để trò chuyện, than thở : ( Lão Hạc ơi ! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão khong muốn bán con chó vàng của lão ! Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều hơn ai hết.. ! », « Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng nhắm mắt...) Chất trữ tình còn thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của « tôi », như chung quanh việc « Tôi » phải bán mấy quyển sách : « ôi những quyển sách rất nâng niu(...) kỷ niệm một thời hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng » Và thể hiện rõ nhất là ở những đoạn văn trữ tình ngoại đề đậm màu sắc triết lý : « Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta.... » Những câu văn triết lý đó không hề có giọng sách vở, trìu tượng mà là những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt.

=> Vừa tỉnh táo, chân thực, vừa trữ tình thắm thiết và đậm đà ý vị triết lí, đó chính là đặc điểm bút pháp văn xuôi Nam Cao được thể hiện rõ nét trong « Lão Hạc »

III- Kết luận

Tác phẩm « Lão Hạc » đã làm cho em vô cùng xúc động. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đã sống nghèo khổ, cơ cực và cùng quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người.

DÀN Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC

I - Mở bài

- Nam Cao là nhà văn nhân đạo. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

- Truyện ngắn « Lão Hạc » không chỉ miêu tả xúc động tình cảnh khốn cùng và số phận bi đát của người nông dân mà còn là một câu chuyện xúc động về một nhân cách cao quý.

- Cũng như bao cố nông cùng khổ khác, Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ bất hạnh nhưng lại một con người có trái tim nhân hậu, lương thiện và có một tâm hồn, nhân cách cao cả.

II-Thân bài 

1. Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh

- Vợ mất sớm, một thân một mình gà trống nuôi con

- Sống bằng nghề cầy thuê, cuốc mướn

- Đứa con trai duy nhất vì nghèo mà phẫn chí bỏ đi

- Sống cô đơn, tội nghiệp, già cả, ốm đau

- Nghèo đói, sức cùng, lực kiệt-> Tìm đến cái chết để giải thoát

- Cái chết dữ dội, đau đớn, khổ sở, vật vã

=> Cuộc đời lão Hạc là số phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng không lối thoát. Cái chết của lão Hạc là lời tố cáo, lên án xã hội thối nát => Giá trị hiện thực sâu sắc.

2. Là người sống rất nhân hậu

- Đối với mọi người : Sống tốt, chân thành

- Đối với con chó 

+ Quý nó quá mức

+ Chăm sóc nó chu đáo

+ Đau xót khi phải bán nó

- Đối với con trai

+ Nỗi đau bất lực của người cha vì nghèo mà không lo được hạnh phúc cho con

+ Khi con đi, tuyệt vọng, đau khổ như mất con, luôn mong con về

+ Chọn cách sống cho con, vì con, luôn để dành tiền cho con.

+ Tìm đến cái chết để giữ tài sản cho con.

3. Là người lương thiện và giầu lòng tự trọng

- Thà nhịn đói chứ không tiêu vào tiền của con

- Kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo, người rất thân tình với ông

- Không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình ( gửi ông giáo tiền lo ma chay cho mình)

- Chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá

III- Kết luận

- Hình ảnh lão Hạc gây ấn tượng đậm nét và cứ ám ảnh vương vấn không dứt trong lòng người đọc

- Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau triền miên, bất tận

- Bên trong cái vẻ bề ngoài gần như lẩm cẩm, gàn dở là một nhân cách vô cùng cao quý

- Người đọc xót xa trước cái chết của lão Hạc bao nhiêu thì càng trân trọng và vững tin ở nhân cách bấy nhiêu.

* Dặn dò: ôn tập chuẩn bị buổi sau kiểm tra chuyên đề

* Rút kinh nghiêm:

...............................................................................................................................

Ngày tháng năm

Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 5


--------------------------------------------------------------------

Ngày soạn: 29/9

Ngày dạy:

Kiểm tra chuyên đề "Truyện, kí Việt Nam 1930-1945"


A. Mục tiêu

- Kiểm tra lại toàn bộ kiến thức đã học trong chuyên đề. Từ đó giáo viên có phương pháp dạy phù hợp.

- Rèn kĩ năng làm bài tổng hợp cho học sinh.

- Học sinh có ý học bài và làm bài

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn đề bài

Học sinh: ôn tập

C. Tiến trình

Đề bài:

Câu 1:( 7.0 điểm)

Qua các văn bản Tôi đi học, Trong lòng mẹ, Tức nước vỡ bờ, em hiểu được những gì về phẩm chất của người mẹ, người vợ, người phụ nữ Việt Nam.

Câu 2:( 13.0 điểm)

Nhận xét về người nông dân trong văn học trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý kiến cho rằng:

“Người nông dân tuy nghèo khổ, lam lũ, ít học nhưng không ít tấm lòng”

Bằng hiểu biết của em về nhân vật chị Dậu trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố, lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên Lão Hạc của Nam Cao, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Đáp án- Biểu điểm

Câu 1

( 7điểm



Hình thức: Là một đoạn văn

Trình bày sạch đẹp, diễn đạt lưu loát


1,0



Câu 1: Qua những nhân vật người vợ, người mẹ trong các tác phẩm Tôi đi học, Trong lòng mẹ, Tức nước vỡ bờ, chúng ta thấy sáng ngời những phẩm chất cao quý của người mẹ- người phụ nữ Việt Nam. Đó là:

- Tình cảm thắm thiết, sâu nặng đối với chồng con dù trong những hoàn cảnh đâu đớn tủi cực, gay cấn nhất.

- Học không chỉ bộc lộ bản chất dịu hiền, đảm đang mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, đức hi sinh quên mình chống lại bọn bạo tàn để bảo vệ gia đình.

6,00


Câu 2 (13,0)

* Yêu cầu về kĩ năng:

- Bài làm phải hoàn chỉnh, bố cục rõ ràng, luận điểm đầy đủ, chính xác.

- Biết vận dụng cách làm bài văn nghị luận kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự.

- Lời văn chuẩn xác, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.


2,0



* Yêu cầu về kiến thức: Cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:

* Lão Hạc, chị Dậu là người nông dân nghèo khổ, lam lũ, ít học.

Cảnh ngộ hai nhân vật bi thảm:


5,5

- Lão Hạc:

+) Vợ chết, hai cha con sống ăn rau cháo qua ngày.

+) Nhà nghèo, không có tiền cưới vợ cho con trai, con phẫn uất đi đồn điền cao su.

+) Nghèo khổ, không biết chữ nên con trai viết thư lão nhờ ông giáo đọc, làm văn tự lão cũng nhờ ông giáo viết cho.

+) Nghèo khổ, sau trận ốm kéo dài, lại mưa bão, không kiếm ra tiền để nuôi thân, nuôi con chó Vàng – kỉ vật con trai lão để lại, lão dằn lòng quyết định bán con chó.

+) Lão sống đã khổ, chết cũng khổ.

- Chị Dậu.

+) Gia đình nghèo khổ, được xếp vào hạng cùng đinh nhất làng.

+) Không có tiền nộp sưu cho gia đình, lại phải chịu tiền sưu cho em chú chết từ một năm trước nên gia đình càng cùng cực.

+) Anh Dậu bị đánh thập tử nhất sinh, chị Dậu bán đàn chó con, dằn lòng bán cái Tí – đứa con dứt ruột đẻ ra.

- Học sinh lấy dẫn chứng phân tích, chứng minh.



* Giàu lòng thương yêu gia đình và lòng nhân hậu

- Lão Hạc:

+) Cả đời yêu thương con thầm lặng, vợ chết ở vậy nuôi con, dành dụm tiền cưới vợ cho con không đủ con bỏ đi đồn điền cao su lão day dứt, buồn khổ.

HS lấy dẫn chứng, chứng minh.

+) Yêu thương con nên lão nâng niu, trân trọng kỉ vật mà con trai lão để lại – con chó lão gọi là cậu Vàng. Bán con chó lão day dứt, dằn vặt, đau đớn cho thấy lòng nhân hậu.

+) Yêu thương con, muốn giữ lại phẩm giá của một người nông dân chất phác, hiền lành nên lão chọn cái chết chứ không động tới mảnh vườn của con trai, không làm điều sai trái như Binh Tư để kiếm miếng ăn.

- Chị Dậu:

+) Yêu thương chồng con nên chạy đôn đáo, vất vả để kiếm tiền nộp sưu.

+) Chồng bị đánh, chị chạy vạy vay mượn nấu cháo, động viên anh Dậu ăn, chăm sóc để chồng khỏe lại.

+) Nhún nhường, van xin cai lệ, lý trưởng bằng đủ lời lẽ để khất sưu nhưng không được, nhìn chồng tiếp tục bị đánh chị đã vùng lên chống trả theo quy luật “có đàn áp, có đấu tranh”.

Qua cuộc đời khốn khổ và phẩm chất cao quý của lão Hạc và chị Dậu nhà văn thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân.

Nghệ thuật: Kể, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.


5,5


* Dặn dò:

Ôn tập chuẩn bị buổi sau học chuyên đề: Từ vựng

* Rút kinh nghiệm:

.................................................................................................................................... Ngày tháng năm

Ngày soạn: 7/10/2015

Ngày dạy: 14/10/2015

Chuyên đề: Từ vựng

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm:

- Hiểu và nhận biết các trường từ vựng trong văn bản.

- Hiểu và nhận biết các từ tượng hình và từ tượng thanh và giá trị của chúng trong văn bản.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Vận dụng kiến thức về trường từ vựng để sử dụng cách chuyển trường từ vựng nhằm tăng tính nghệ thuật cho ngôn từ.

- Sử dụng từ tượng hình và tượng thanh trong việc thể hiện nội dung đoạn thơ hoặc trong khắc họa ngoại hình, tính cách nhân vật.

2. Kỹ năng

- Biết phân tích tác dụng của việc sử dụng trường từ vựng trong đoạn trích thơ, trích văn.

- Biết cách sử dụng các từ cùng trường từ vựng để nâng cao hiệu quả diễn đạt.

- Biết cách sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.

- Biết viết đoạn văn có sử dụng từ tượng hình và tượng thanh để nâng cao hiệu quả diễn đạt.

3. Các dạng bài

- Phát hiện việc sử dụng và tác dụng của các trường từ vựng, từ tượng thanh, từ tượng hình trong đoạn văn, đoạn thơ.

- Viết đoạn văn có sử dụng trường từ vựng và từ tượng thanh, từ tượng hình.

4. Thời lượng dạy: 2 buổi

5. Tài liệu tham khảo:

- Sách Ngữ văn 8 nâng cao ( Nhà xuất bản Giáo dục)

- Ôn tập Ngữ văn 8

- Tư liệu Ngữ văn 8

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập, đọc tài liệu

C. Tiến trình

I. Trường từ vựng

1.Trường từ vựng là gì?

- Là tập hợp những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa. Ở đây nét chung về nghĩa được hiểu là dùng chung cho một phạm vi sự vật nào đó.

2. Một trường từ vựng có thể chia thành các trường từ vựng nhỏ hơn

3. Trường từ vựng không phải là phân loại từ giống như phân loại từ về mặt cấu tạo( từ đơn, từ ghép, từ láy) nên một từ có thể tham gia vào nhiều trường từ vựng khác nhau.

4. Khi sử dụng, người ta có thể chuyển trường từ vựng cho từ ngữ để tăng hiệu quả diễn đạt:

Trong làng tôi không thiếu gì các loài cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn - chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu

( Ai-ma-tốp)

=>Các từ in đậm chuyển từ trường từ vựng người sang trường từ vựng cây để nhân hóa.

II. Bài tập:

Bài tập 1: Tìm những từ thuộc trường từ vựng " mặt" trong câu: " Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má."

Gợi ý: Trường từ vựng"mặt": gương mặt, đôi mắt, nước da, gò má.

Bài 2: Tìm các trường từ vựng" phong cảnh đất nước" trong đoạn thơ sau:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những canhs đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người không bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

( Nguyễn Đình Thi, Đất nước)

Gợi ý: Trường từ vựng phong cảnh đất nước: trời xanh, núi rừng, cánh đồng, dòng sông, ngả đường.

Bài 3: Nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết:

“… Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm;

Mực đọng trong nghiên sầu...”

(Ông đồ)

?Xác định các trường từ vựng có trong đoạn thơ ?

Gợi ý: Các trường từ vựng:

- Vật dụng: giấy, mực, nghiên

- Tình cảm: buồn, sầu

- Màu sắc: đỏ, thắm

Bài 4: Trong đoạn thơ sau, tác giả đã chuyển các từ in đậm từ trường từ vựng nào sang trường từ vựng nào?

“Ruộng rẫy là chiến trường,

Cuốc cày là vũ khí,

Nhà nông là chiến sĩ,

Hậu phương thi đua với tiền phương.”

(Hồ Chí Minh)

Gợi ý:Chuyển trường từ vựng:

- Ruộng rẫy (nông nghiệp)  Chiến trường (quân sự)

- Cuốc cày (nông nghiệp)  Vũ khí (quân sự)

- Nhà nông (nông nghiệp)  Chiến sĩ (quân sự)

 Tác giả chuyển từ trường “quân sự” sang trường “nông nghiệp”.

Bài 5: Vận dụng các kiến thức đã học về trường từ vựng để phân tích cái hay trong cách dùng từ ở bài thơ sau:

Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh như cũng ánh theo hồng

Em đi lửa cháy trong bao mắt

Anh đứng thành tro,em biết không?

(Vũ Quần Phương – Áo đỏ)

Gợi ý:

Tác giả sử dụng 2 trường từ vựng:

+Trường từ vựng về màu sắc : đỏ - hồng – ánh

+Trường từ vựng chỉ về lửa : lửa cháy to.

Các từ trong hai trường từ vựng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên vẻ đẹp của đoạn thơ. Màu áo đỏ của cô gái thắp lên trong mắt chàng trai ( nhiều người khác) ngọn lửa. Ngọn lửa đó lan tỏa tronh người anh, làm anh say đắm, ngất ngây, và lan tỏa cả không gian, làm không gian cũng biến sắc (cây xanh cũng ánh hồng).

Xây dựng hình ảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc .Nó miêu tả một tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng,đắm say…( ngoài ra bài thơ còn sử dụng một số phép đối.

Bài 6: Cho đoạn văn sau:

a, Sau giây phút hoàn hồn, con chim quay đầu lại, giương đôi mắt đen tròn, trong veo như hai hạt cườm nhỏ lặng nhìn Vinh tha thiết. Những âm thanh trầm bổng, ríu ran hòa quyện trong nhau vừa quen thân vừa kì lạ. Con chim gật đầu chào Vinh rồi như một tia chớp, tung cánh vụt về phía rừng xa thẳm.

( Châu Loan)

b, Thiên nga thật là một loài chim biết tự khoe vì vẻ đẹp và các động tác múa của mình. Nếu như bầy chim công múa rất dẻo, uyển chuyển, nhịp nhàng, xứng đáng là nghệ sĩ của rừng xanh, thì thiên nga còn được coi là những giọng nữ cao tuyệt diệu, ngoài các động tác múa khỏe khoắn của nó.[...]

Chúng vừa múa vừa hát. Cặp chân vàng run rẩy tạo nên những đường nét khỏe khoắn. Đôi cánh xòe trên mặt cỏ xanh xoay tròn, nom giống như một bông hoa ê-puy đẹp tuyệt vời, đến chim anh vũ bay qua cũng phải nghiêng đầu tìm chỗ đậu để thưởng thức.

( Thiên Lương)

- Tìm các trường từ vựng thuộc trường từ vựng chỉ Người.

- Các trường từ vựng dùng như vậy thuộc phép tu từ nào?

Gợi ý:

- Các từ thuộc trường từ vựng Người:

a,hoàn hồn, quay đầu, giương đôi mắt, lặng nhìn thiết tha, gật đầu chào

b, khoe, vẻ đẹp, động tác múa, múa rất dèo, uyển chuyển, nhịp nhàng, xứng đáng là nghệ sĩ, giọng nữ cao tuyệt diệu, múa khỏe khoắn,vừa múa vừa hát, cặp chân vàng, đường nét khỏe khoắn, nghiêng đầu.

- Sử dụng phép tu từ nhân hóa.

Bài 7:Cách dùng các từ ngữ thuộc một trường từ vựng để miêu tả các sự vật, hiện tượng thuộc trường từ vựng khác( như ở bài tập 6) được gọi là hiện tượng chuyển trường từ vựng của từ ngữ. Hãy sưu tầm trong văn thơ các đoạn có hiện tượng chuyển trường từ vựng như vậy. Phân tích giá trị diễn đạt của hiện tượng này.

- Học sinh tìm và phân tích

* Dặn dò:

Chuẩn bị buổi sau học bài " Từ tượng thanh, từ tượng hình"

* Rút kinh nghiệm:

....................................................................................................................................


Ngày tháng năm

Ngày soạn:13/10/2015

Ngày dạy: 21/10/2015

Chuyên đề: Từ vựng (tiếp)

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm:

- Hiểu và nhận biết các trường từ vựng trong văn bản.

- Hiểu và nhận biết các từ tượng hình và từ tượng thanh và giá trị của chúng trong văn bản.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Vận dụng kiến thức về trường từ vựng để sử dụng cách chuyển trường từ vựng nhằm tăng tính nghệ thuật cho ngôn từ.

- Sử dụng từ tượng hình và tượng thanh trong việc thể hiện nội dung đoạn thơ hoặc trong khắc họa ngoại hình, tính cách nhân vật.

2. Kỹ năng

- Biết phân tích tác dụng của việc sử dụng trường từ vựng trong đoạn trích thơ, trích văn.

- Biết cách sử dụng các từ cùng trường từ vựng để nâng cao hiệu quả diễn đạt.

- Biết cách sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.

- Biết viết đoạn văn có sử dụng từ tượng hình và tượng thanh để nâng cao hiệu quả diễn đạt.

3. Các dạng bài

- Phát hiện việc sử dụng và tác dụng của các trường từ vựng, từ tượng thanh, từ tượng hình trong đoạn văn, đoạn thơ.

- Viết đoạn văn có sử dụng trường từ vựng và từ tượng thanh, từ tượng hình.

4. Thời lượng dạy: 2 buổi

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập, đọc tài liệu

II. Từ tượng hình, từ tượng thanh

1. Thế nào là từ tượng hình, từ tượng thanh?

- Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái của sự vật.

- Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người.

2. Công dụng

Từ tượng hình, từ tượng thanh gợi được hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động, có giá trị biểu cảm cao; thường được dùng trong văn miêu tả và tự sự.

Vd: Cười là một động từ chỉ hoạt động của con người.Nhưng cười cũng có nhiều kiểu và nhiều dáng vẻ, âm sắc và tâm trạng khác nhau. Cười ha ha và cười hô hố không chỉ khác nhau về âm sắc mà còn khác nhau về tâm trạng , về sắc thái biểu cảm.

- Ha ha là từ gợi tả tiếng cười to, tỏ ý tán thưởng hoặc sảng khoái

- Hô hố là từ mô phỏng tiếng cười to và thô lỗ, gây cảm giác khó chịu cho người khác.

Bài tập:

Câu 1: Tìm từ tượng hình, tư tượng thanh trong những câu sau"

a, Thằng Dần vục đâu vừa thổi vừa húp soàn soạt. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm.

b,Vừa nói hắn vừa bịch vào ngực luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn để trói anh Dậu

c, Cai lệ lại tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.

d, Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng cai nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.

Câu 2:

Cho đoạn văn:

Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”.

(Trích Lão Hạc, Nam Cao)

a. Tìm câu ghép trong đoạn văn trên. Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong câu đó.

b. Chỉ rõ từ tượng hình, từ tượng thanh và phân tích giá trị biểu hiện (tác dụng) của các từ tượng hình, tượng thanh trong đoạn văn đó

Gợi ý:

a/ - Câu ghép: Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít.

- Quan hệ ý nghĩa giữa 2 vế câu: quan hệ bổ sung hoặc đồng thời

b/ - Từ tượng hình: móm mém

- Từ tượng thanh: hu hu

- Giá trị biểu hiện (tác dụng): Gợi tả hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động có giá trị biểu cảm cao.

Câu 3.Xác định từ tượng hình, từ tượng thanh và phân tích nghệ thuật sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của tác giả Bà Huyện Thanh Quan.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời non nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Từ tượng hình: Lom khom, lác đác (Tả dáng người, cảnh vật khi hoàng hôn xuống

Từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia (gợi tiếng chim kêu thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà của nhân vật trữ tình

Cách biểu hiện thời gian độc đáo của Bà Huyện Thanh Quan

Câu 4: Cho các câu sau:

- Chị Dậu run run:[...]

- Chị Dậu vẫn thiết tha[...]

- Chị Dậu nghiến hai hàm răng[...].

Tìm các từ ngữ miêu tả cách nói năng của chị Dậu từ đó chỉ ra sự thay đổi trạng thái tâm lí của chị.

Gợi ý: chú ý các từ run run,thiết tha,nghiến hai hàm răng

Câu 5. Chộn một đề tài và viết một đoạn văn ngắn có sử dụng các từ tượng hình, từ tượng thanh.

Ngày soạn:

Ngày dạy

Chuyên đề: Văn học nước ngoài

A. Mục tiêu

1. Kiến thức cần đạt:

- Củng cố lại nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học nước ngoài.

- Làm một số đề bài nâng cao xoay quanh các nhân vật tình huống truyện và các nghệ thuật đặc sắc.

2. Kĩ năng cần đạt:

- Nhớ truyện, biết viết thành thạo các bài cảm thụ.

3. Các dạng bài

- Phát biểu cảm nghĩ, giới thiệu tác giả, nội dung & nghệ thuật đặc sắc của một tác phẩm, phân tích tác phẩm…

4. Thời lượng: 2 buôie

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh ; ôn tập

C. Tiến trình

. Cụm văn bản nước ngoài


    • Cô bé bán diêm – An- déc xen
    • Đánh nhau với cối xay gió – Xéc van tét
    • Chiếc lá cuối cùng – O Hen – ri
    • Hai cây phong – Ai ma tốp
    • Đi bộ ngao du – Rút xô
    • Ông Giuốc Đanh mặc lễ phục – Mô li e

Văn bản : Cô bé bán diêm

1. Nghệ thuật:

- Miêu tả rõ nét cảnh ngộ và nỗi khổ cực cua em bé bằng những chi tiết, hình ảnh đối lập.

- Sắp xếp trình tự sự việc nhằm khắc họa tâm lí em bé trong cảnh ngộ bất hạnh.

- Sáng tạo trong cách kể chuyện.

2. Nội dung:

- Số phận của em bé bán diêm:

+ Gia cảnh đáng thương

+ Em phải chịu cảnh ngộ đói rét, không nhà, không người yêu thương ngay cả trong đêm giao thừa

- Lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh:

+ Đồng cảm với khao khát hạnh phúc của em bé( qua những mộng tưởng của em bé về chiếc lò sưởi ấm áp, bữa ăn ngon, cảnh đầm ấm với người bà đã khuất,...

+Cách kết thúc chuyện thể hiện nỗi day dứt, nỗi xót xa của nhà văn đối với em bé bất hạnh.

Bài tập:

Câu 1. Qua phần đầu, chúng ta được biết về gia cảnh của em bé bán diêm và thời gian, không gian xảy ra câu chuyện. Những hình ảnh tương phản đối lập được nhà văn sử dụng nhằm khắc họa nỗi khổ cực của cô bé.

- Hoàn cảnh của em bé bán diêm:

+ Gia đình mới sa sút (bà chết, gia sản tiêu tan, dời khỏi chỗ ở đẹp đẽ, ấm cúng ngày trước…)

+ Ở với cha trên gác sát mái nhà, gió lùa rét buốt.

- Hình ảnh cô bé bán diêm thật tội nghiệp

+ Đầu trần, chân đất (đỏ ửng lên rồi tím bầm lại vì lạnh)

+ Quần áo cũ kĩ, tạp dề đựng đầy diêm đi bán, tay còn cầm thêm một bao nữa.

+ Bụng đói.

+ Lo âu vì không bán được diêm, không xin được tiền không dám về vì sợ bố đánh. - Bối cảnh:

+ Ngồi trước góc tường tối tăm giữa phố

+ Co ro trong đêm giao thừa gió rét căm căm (tuyết phủ trắng xóa cả phố xá, gió bất thổi vun vút…)

- Nhiều sự tương phản đã diễn ra xung quanh em bé và trong lòng em bé:

+ Quá khứ -  hiện tại (yên vui sum họp – sa sút chia lìa)

+ Phố xá tưng bừng tấp nập – em bé lang thang cô đơn nghèo khó.

+ Mộng tượng huy hoàng – thực tế tối tăm khắc nghiệt Sự tương phản làm nổi bật hình ảnh và cảnh ngộ em bé: bị bỏ rơi trong bần cũng, bất hạnh nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về điều thiện, cái đẹp.

Câu 2. Chứng minh những mộng tưởng của em bé qua các lần đánh diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí. Trong số các mộng tưởng ấy có các điều gắn với thực tế, có điều thuần túy chỉ là mộng tưởng. Qua các lần đánh diêm, các mộng tưởng đã lần lượt hiện ra, rất hợp lí, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí của em bé:

- Từ khao khát được sưởi ấm đến được ăn no và ngon.

- Đến vui vầy xung quanh cây Nô-en.

- Đến hồi tưởng về những lần đón giao thừa ngày trước khi bà nội còn sống.

- Đến cảnh hai bà cháu cầm tay nhau bay lên trời. Những cảnh đầu là những cảnh gần với sự thật, lúc em bé đang bị đẩy vào cảnh đói rét, không được như mọi người đón năm mới. Những cảnh sau, nhất là cảnh cuối cùng, là những ảo ảnh do em tưởng tượng nên, không có thực.

Viết đoạn văn ngắn (khoảng mươi dòng) triển khai luận điểm: Trong truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen, thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau và được diễn ra lần lượt theo một trình tự hợp lí.

- Về mặt hình thức: đáp ứng yêu cầu của đề (có độ dài khoảng mươi dòng; diễn đạt trôi chảy, văn phong trong sáng có tính thuyết phục).

- Về mặt nội dung: thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm; tổ chức lập luận theo một trình tự hợp lý để làm nổi bật luận điểm. Cụ thể:

+ Các mộng tưởng của cô bé bán diêm có gắn với thực tế như: lò sưởi, bàn ăn, cây thông No-en

+ Diễn ra theo một trình tự hợp lý: rét – lò sưởi; đói – bàn ăn; không khí đón giao thừa – cây thông No-en; nhớ đến cảnh đầm ấm – hình ảnh của bà.

Câu 3. Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết nói riêng. Cô bé bán diêm đã qua đời tron giấc mộng (má hồng, môi mỉm cười), em đã chết thảm thương trước sự lạnh lùng của cảnh vật xung quanh và của mọi người qua đường. Những cái chết ấy không gây ấn tượng nặng nề. Trước hết là do không khí vui tươi của ngày đầu năm, của cuộc sống đang phát triển tự nhiên theo quy luật. Sau là do hình ảnh ấm áp, tươi tắn của em bé đã chết, nhất là những cái kì diệu mà tác giả đã gợi ra từ sự ra đi của em bé. Cái chết của em bé không hẳn là cái chết bình thường mà nó giống nha một sự giải thoát, một sự dạo chơi về nơi thiên đường.


Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa. Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy và nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”

– Em đã đi vào bầu ánh sáng vĩ đại, vào sống trong một thế giới của ánh sáng, tình thương, nơi ấy có người bà hiền hậu thân thương, có những lò sưởi ấm, những bữa ăn thịnh soạn, những cây thông trang hoàng rực rỡ, được sống trong sự bao dung chở che và lòng độ lượng nhân từ vô hạn của Chúa. Em đã vĩnh viễn thoát khỏi những đọa đày trên mặt đất đau thương, vĩnh viễn thoát khỏi những cơn đói hành hạ, thoát khỏi cái rét cắt da cắt thịt, khỏi nỗi cô đơn, bất hạnh. Em ra đi thanh thản và mãn nguyện “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Chắc hẳn gương mặt ấy sẽ còn ám ảnh độc giả bao thế hệ: cô bé ra đi trong niềm vui, sự bao dung, tha thứ. Cô mỉm cười từ giã tất cả, tha thứ tất cả: những lời chửi mắng thậm tệ, những trận đòn roi, những sự lạnh lùng vô cảm của con người…. Cô bé ra đi tựa như một thiên thần, sau khi chịu đựng những đọa đày thế gian đã được trở về với Chúa, về nước thiên đàng. Ở phương diện đó, kết thúc câu chuyện là một cái kết có hậu, ấm áp và đầy tính nhân văn. Andersen đã không dùng đôi cánh tưởng tượng để thoát li mà cúi sát xuống hiện thực khốc liệt của cuộc sống, để cảm thông và yêu thương những số phận bất hạnh, để nhận ra và trân trọng những ước mơ trong sáng, thánh thiện của con người.

– Nhưng không hẳn là một cái kết hoàn toàn có hậu. Truyện của Andersen khép lại nhưng lòng người đọc vẫn không nguôi băn khoăn, trăn trở, day dứt suy nghĩ về con người, cuộc đời, về tình người, tình đời. Nhà văn không né tránh hiện thực nghiệt ngã. Cô bé có tâm hồn trong sáng, thánh thiện ấy đã chết, chết trong chính đêm giao thừa, trong cái đói, cái rét hành hạ. Một năm mới sang hứa hẹn những khởi đầu mới nhưng cô bé đã kết thúc cuộc hành trình của mình tại chính ngưỡng cửa của năm mới. Chẳng có cơ hội, chẳng có tương lai nào cho em. Trước khi chết vì đói, vì rét, em đã chết vì chính sự lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn, ích kỉ của con người. Em không dám về nhà vì sợ những lời chửi mắng, đánh đập của bố, em trơ trọi, bơ vơ, tuyệt vọng chống chọi với cái giá rét trước ánh mắt vô cảm, thờ ơ của những người qua đường, em cô đơn, buồn tủi khi mọi người vui vẻ, hân hoan đón chào năm mới, em nằm đó trong những lời đàm tiếu vô tâm của mọi người. Em từ giã cõi đời, giã từ cuộc sống vì không ai thương em, không ai che chở, bảo vệ em. Cái chết của em mãi để lại nỗi xót thương, niềm day dứt như một câu hỏi ám ảnh trong lòng mỗi người: làm sao để không bao giờ trên mặt đất này còn có những trẻ em bất hạnh như cô bé bán diêm ?

Truyện nhẹ nhàng, dung dị nhưng đặt ra những vấn đề vô cùng sâu sắc, thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp qua tấm lòng yêu thương, trân trọng con người của nhà văn. Cái kết truyện như một câu hỏi đầy day dứt, như một lời đề nghị nhà văn gửi tới độc giả nhiều thế hệ, ở mọi phương trời về cách sống, về thái độ, tình cảm đối với những người xung quanh, nhất là những mảnh đời bất hạnh.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 6


Câu 4:Viết đoạn văn có độ dài từ 20 đến 25 dòng trình bày ý kiến của em về câu hỏi sau:

Có thật cần đến đoạn kết truyện như của tác giả An-đéc-xen (đoạn trích “Cô bé bán diêm”) không? Nếu kết thúc ở câu “Họ đã về chầu thượng đế” thì có làm giảm cái hay của truyện không? Vì sao?

1.Yêu cầu về kĩ năng:

Hiểu đề bài, trình bày bằng một đoạn văn chặt chẽ rõ ràng, lập luận chắc chắn, có sức thuyết phục. Diễn đạt lưu loát, có cảm xúc.

2.Yêu cầu về nội dung:

Học sinh có thể trình bày bằng những trình tự khác nhau, nhưng phải thể hiện được sự suy ngẫm cơ bản sau đây:

-Với tấm lòng nhân ái của nhà văn, thì đoạn kết truyện được coi là rất cần thiết. Nếu kết thúc ở câu “Họ đã về chầu thượng đế” thì ý nghĩa của truyện sẽ bị giảm đi

- Người đọc không thấy được sự đối lập giữa một bên là hình ảnh cô bé bán diêm ngây thơ, hồn nhiên đẹp đẽ như tiên đồng ngọc nữ với một bên gió lạnh của ngày đầu năm. Và người đọc cũng không thấy được sự đối lập giữa một bên là thái độ lạnh lùng thờ ơ của mọi người khi chứng kiến cảnh thương tâm này (cô bé rất cô đơn: mồ côi bố nghiệt ngã, vô tình)

- Đoạn kết của truyện đã phơi bày cả một xã hội vô tình, lạnh lùng trước cái chết của một đứa trẻ nghèo mô côi

-Đoạn kết truyện còn cho thấy cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của tác giả viết lại câu chuyện thương tâm này khiến người đọc bớt đi cảm giác bi thương để đưa tiễn cô bé lên trời với niềm vui, hy vọng chợt bùng, lóe sáng sau những lần đánh diêm

- Cái hay của đoạn kết: người đọc chứng kiến cả xã hội Đan Mạch đương thời tàn nhẫn thiếu tính thương từ đó lên án, cho thấy tấm lòng nhân ái của nhà văn

Cho đoạn trích sau:

Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.

(Cô bé bán diêm – An-đéc-xen, Ngữ văn 8, T1)

a) Việc sử dụng các câu hỏi trong đoạn trích trên có ý nghĩa gì?

b) Tìm các từ cùng thuộc một trường từ vựng trong đoạn trích trên? Tác dụng của trường từ vựng đó.

Gợi ý:



Ý nghĩa của việc sử dụng các câu hỏi trong đoạn trích tác phẩm Cô bé bán diêm

- Các câu hỏi được sử dụng: Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?; Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ?

- Ý nghĩa:

+ Đây là câu hỏi mà nhân vật cô bé bán diêm tự đặt ra cho mình như một hình thức tự giãi bày, tự bộc lộ cảm xúc, tâm trạng.

+ Thể hiện ước muốn, khao khát đốt lên ngọn lửa, tạo ra hơi ấm xua tan đi giá lạnh, rét buốt đêm đông.



Các từ cùng thuộc trường từ vựng và tác dụng của trường từ vựng đó trong đoạn trích tác phẩm Cô bé bán diêm

- Các từ cùng một trường: ngọn lửa, xanh lam, trắng, rực hồng, sáng chói chỉ màu sắc và ánh sáng của ngọn lửa.

- Tác dụng:

+ Miêu tả ngọn lửa của que diêm cháy lung linh, huyền ảo qua cái nhìn đầy mơ mộng của cô bé bán diêm.

+ Thể hiện ước mơ về một ngọn lửa ấm áp, một thế giới đầy ánh sáng, một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc của cô bé nghèo đang sống trong hoàn cảnh bi đát.



Văn bản: Đánh nhau với cối xay gió

1. Nghệ thuật :

- Phép tương phản trong xây dung nhân vật

- Có giọng điệu phê phán hài hước

2.Nội dung

- Hình tượng nhân vật ĐôKi-hô-tê: có khát vọng và lí tưởng cao đẹp nhưng hoang tưởng, ngỡ những chiếc cối xay gió là những kẻ thù khổng lồ dị dạng và đánh nháu với chúng rồi thảm bại.

- Hình tượng Xan-chô: tỉnh táo nhưng thực dụng

- Mối quan hệ đối lập , bổ sung cho nhau giữa hai hình tượng Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan- xa.

* Ý nghĩa: Kể câu chuyện về sự thất bại của Đôn Ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió, nhà văn chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, hão huyền, phê phán thói thực dụng thiển cận của con người trong đời sống xã hội.

* Củng cố, dặn dò

- Về ôn tập tiếp phần Văn học nước ngoài

* Rút kinh nghiệm:

...................................................................................................................................

Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề: Văn học nước ngoài

A. Mục tiêu

1. Kiến thức cần đạt:

- Củng cố lại nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học nước ngoài.

- Làm một số đề bài nâng cao xoay quanh các nhân vật tình huống truyện và các nghệ thuật đặc sắc.

2. Kĩ năng cần đạt:

- Nhớ truyện, biết viết thành thạo các bài cảm thụ.

3. Các dạng bài

- Phát biểu cảm nghĩ, giới thiệu tác giả, nội dung & nghệ thuật đặc sắc của một tác phẩm, phân tích tác phẩm…

4. Thời lượng: 2 buôie

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh ; ôn tập

C. Tiến trình

* Bài tập:

1,Từ cặp nhân vật bất hủ: Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa trong câu chuyện “Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc-van- tét (Ngữ văn 8, tập I), em hãy viết bài văn nghị luận hãy trình bày những suy nghĩ, quan điểm sống của mình trong xã hội hôm nay.

- Lối sống hào hiệp nhưng thiếu thực tế( giống ĐônKi-hô-tê)

- Lối sống thực dụng tầm thường, vì lợi ích cá nhân(Xan-chô Pan-xa): lối sống này có ở một bộ phận không nhỏ trong xã hội

- Kết hợp hai con người Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa trong câu chuyện thành một người toàn ven

2, Vì sao thế giới mộng tưởng của cô bé bán diêm được bắt đầu bằng hình ảnh lò sưởi và kết thúc bằng hình ảnh người bà nhân từ?

Vì em đang phải chịu rét khủng khiếp của đêm giao thừa với gó và tuyết lạnh, hơn nữa phải chịu cả cái rét của sự thiếu vắng tình thương- hình ảnh bà xuất hiện=>tô đậm những bất hạnh của em bé trong thế giới hiện thực.

3, Theo em, kết thúc truyện " Cô bé bán diêm" có phải là kết thúc có hậu không?Vì sao?

Không, vì truyện cổ tích thường kết thúc có hậu, nhân vật tìm được hạnh phúc ngay trong hiện thực còn cô bé tìm thấy hạnh phúc trong mộng tưởng và chết trong cô đơn, giá lạnh, trong một thế giới mà chẳng ai biết về cô=> nỗi xót xa làm day dứt người đọc.

Văn bản: Chiếc lá cuối cùng

I. Những kiến thức cần nhớ:

- Truyện Chiếc lá cuối cùng là một chiến đấu để giành lại sự sống cho Giôn xi bằng tình yêu thương của Xiu và cụ Bơmen

- Quan niệm nhân văn của OHen-ri về một kiệt tác nghệ thuật qua hình ảnh chiếc lá cuối cùng.

- Nghệ thuật: Kết cấu đảo ngược tình huống hai lần, kết thúc truyện bất ngờ và nhiều dự vị

II. Luyện tập:

1, Giôn-xi đã nói khi ngắm nhìn chiếc lá mà cụ Bơ-men vẽ: " Muốn chết là một tội"nhưng cụ Bơ-men đã đánh đổi sinh mạng của mình để vẽ nên chiếc lá này. Điều tưởng như mâu thuẫn này đã gây cho em suy nghĩ gì?

- Học sinh có thể có nhiều lí giải nhưng nhìn chung có thể trả lời bằng gợi ý: Cụ Bơ-men lựa chọn cái chết vì người khác, cái chết ấy gieo mầm cho sự sống, nó hồi sinh ý thức sống cho Giôn-xi..

2, Bí mật về chiếc lá cuối cùng chỉ đượ tiết lộ ở phần kết của câu chuyện. Hãy chỉ ra ý nghĩa nghệ thuật của cách kết thúc truyện này?

- Tạo ra sự bất ngờ cho người đọc, khiến cho truyện trở nên hấp dẫn đến những dòng cuối cùng

- Giúp ta chứng kiến sự lo lắng, quan tâm đến xót xa của Xiu giành cho Giôn-xi

- Khiến ta nghĩ tới một triết lý thật đẹp và giàu tính nhân văn: cuộc sống còn ẩn chứa bao điều đẹp đẽ mà ta chưa biết đến

3, Vì sao chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác?

4, Chi tiết nào trong truyện khiến em xúc động nhất ? Vì sao?

Văn bản: Hai cây phong

I. Kiến thức cơ bản:

- Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm- có vai trò dẫn nhập, tạo không khí cho tác phẩm. Đồng thời, qua việc giới thiệu hai cây phong do thầy Đuy-sen trồng tác giả đã khéo léo gợi ra nhân vật chính cũng như chủ đề của tác phẩm

- Văn bản miêu tả vẻ đẹp rất sinh động của hai cây phong từ cảm nhận đầy rung động và nghệ sĩ của người kể chuyện- người đã để lại tuổi trẻ của mình bên gốc cây phong

- Nghệ thuật: Cái nhìn hội họa, nghệ thuật nhân hóa, những liên tưởng táo bạo và đầy chất thơ.

II, Luyện tập:

1, Người kể chuyện miêu tả hai cây phong từ thời gian quá khứ hay hiện tại? ý nghĩa nghệ thuật của cách miêu tả này là gì?

- Người kể chuyện miêu tả hai cây phong tư điểm nhìn của thời gian hiện tại: nhiều năm đã trôi qua, cho đến tận ngày nay... đồng thời cũng miêu tả từ điểm nhìn của thời gian quá khứ: thuở ấy, năm học cuối cùng, trước khi b ắt đầu nghỉ hè. Trong cảm nhận của tôi hình ảnh hai cây phong vẫn đẹp và nguyên vẹn bất chấp mọi thay đổi, nó vẫn mãi thuộc về một thế giới đẹp đẽ, nó trở thành một phần đẹp nhất trong cuộc đời người họa sĩ.

2,Những đặc điểm gì của hai cây phong khiến người kể chuyện luôn nhớ và mong ước được trở về bên nó để lắng nghe tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất?

- Đây là câu hỏi mở, ngay cả người kể chuyện cũng cảm thấy không biết lí giả ra sao , song về cơ bản, hai cây phong hiện lên qua hai vẻ đẹp chính: chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu; hai cây phong trên đồi cao, khi bọn trẻ trèo lên đó, một thế giới đẹp đẽ vô ngần...=> hai cây phong chính là hiện thân cho những gì đẹp đẽ nhất của tuổi thơ; bí ẩn, tràn đầy rung động tinh tế, khát khao...

3, Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc xong truyện hai cây phong

Dựa trên những ý sau:

* Về nghệ thuật:

- Lựa chọn ngôi kể, người kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo

- Miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc

- Có nhiều liên tưởng, tưởng tượng hết sức phong phú,...

* Về nội dung:

- Tình yêu quê hương da diết

- Lòng xúc động đặc biệt vì 2 cây phong gắn liền với hình ảnh người thày giáo cũ, người đã vun trồng mơ ước, hi vọng cho học sinh

* Dặn dò:

Chuẩn bị chuyên đề: Các biện pháp tu từ

* Rút kinh nghiệm:

.................................................................................................................................

Ngày tháng năm

-----------------------------------------------------------------------------------

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề : Các biện pháp tu từ

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm:

- Hiểu, nhận biết và phân tích được giá trị của các biện pháp tu từ đã học từ 6 đến 8.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Nắm được những biện pháp tu từ cụ thể và vận dụng trong quá trình học tập.

2. Kỹ năng

- Biết vận dụng các biện pháp tu từ đã học vào nói và viết.

B. Chuẩn bị

Giáo viên: Soạn giáo án

Học sinh: Ôn tập

C. Thời lượng: 3 buổi

D. Tiến trình

* Củng cố lí thuyết: So sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ,điệp ngữ, chơi chữ

Các biện pháp tu từ từ vựng: So sánh,ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, điệp ngữ, chơi chữ, nói quá, nói giảm - nói tránh.

1. So sánh:Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Trẻ em như búp trên cành

2. Nhân hoá: Là cách dùng những từ ngữ vốn dùng để miêu tả hành động của con người để miêu tả vật, dùng loại từ gọi người để gọi sự vật không phải là người làm cho sự vật, sự việc hiện lên sống động, gần gũi với con người.

VD: Chú mèo đen nhà em rất đáng yêu.

3. Ẩn dụ: Là cách dùng sự vật, hiện tượng này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng khác dựa vào nét tương đồng (giống nhau) nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

4. Hoán dụ: Là cách dùng sự vật này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng khác dựa vào nét liên tưởng gần gũi nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên ngoài).

5. Điệp ngữ: là từ ngữ (hoặc cả một câu) được lặp lại nhiều lần trong khi nói và viết nhằm nhấn mạnh, bộc lộ cảm xúc...

VD: Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

6. Chơi chữ: là cách lợi dụng đặc sắc về âm, nghĩa nhằm tạo sắc thái dí dỏm hài hước.

VD: Mênh mông muôn mẫu màu mưa

Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ

*Bài tập:

Bài 1:

Phân biệt ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học và ẩn dụ, hoán dụ tu từ học?

Gợi ý:Trả lời:

- Ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học là phép chuyển nghĩa tạo nên nghĩa mới thực sự của từ, các nghĩa này được ghi trong từ điển.

- Ẩn dụ, hoán dụ tu từ học là các ẩn dụ, hoán dụ tạo ra ý nghĩa lâm thời (nghĩa ngữ cảnh) không tạo ra ý nghĩa mới cho từ. Đây là cách diễn đạt bằng hình ảnh, hình tượng mang tính biểu cảm cho câu nói; Không phải là phương thức chuyển nghĩa tạo nên sự phát triển nghĩa của từ ngữ.

Bài 2. Trong câu ca dao :

Nhớ ai bồi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than a) Từ bồi hổi bồi hồi là từ gì? b) Gải nghĩa từ bồi hổi bồi hồi c) Phân tích cái hay của câu thơ do phép so sánh đem lại.

Gợi ý:
a) Đây là từ láy chỉ mức độ cao.

b) Giải nghĩa : trạng thái có những cảm xúc, ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong cơ thể con người. c) Trạng thái mơ hồ, trừu tượng chỉ được bộc lộ bằng cách đưa ra hình ảnh cụ thể: đứng đống lửa, ngồi đống than để người khác hiểu được cái mình muốn nói một cách dễ dàng. Hình ảnh so sánh có tính chất phóng đại nên rất gợi cảm.

Bài 3:

Phân tích nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ sau:

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)

* Gợi ý:

- Nghĩa đen: Bánh trôi nước về màu sắc và hình dáng

- Nghĩa bóng : Hình ảnh về vẻ đẹp người phụ nữ có làn da trắng và thân hình đầy đặn .

Khi phân tích ta làm như sau : Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh cái bánh nhà thơ đã gợi cho người đọc hình dung được một hình ảnh khác thật sâu săc kín đáo đó là hình ảnh ... (nghĩa bóng) - từ đó gợi cảm xúc cho người đọc về người phụ nữ xưa ...

Bài 4:

Tìm và phân tích các hoán dụ trong các ví dụ sau:

a. Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

(Ca dao)


b. Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

(Nguyễn Du)

c. Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá...

(Chể Lan Viên)

Gợi ý:

* a. “ áo rách” là hoán dụ lấy quần áo (áo rách) để thay cho con người (người nghèo khổ).

“áo gấm” cũng là hoán dụ lấy quần áo (áo gấm) để thay cho con người( người giàu sang, quyền quí).

vật trong gia đình em, trong đó có vận dụng

một vài phép tu từ đã học.

* Dặn dò: Ôn tập phép tu từ nói quá

* Rút kinh nghiệm:

..............................................................................................................................


Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề : Các biện pháp tu từ

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm:

- Hiểu, nhận biết và phân tích được giá trị của các biện pháp tu từ đã học từ 6 đến 8.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Nắm được những biện pháp tu từ cụ thể và vận dụng trong quá trình học tập.

2. Kỹ năng

- Biết vận dụng các biện pháp tu từ đã học vào nói và viết.

B. Chuẩn bị

Giáo viên: Soạn giáo án

Học sinh: Ôn tập

C. Thời lượng: 3 buổi

* Củng cố lí thuyết: Phép tu từ nói quá

- Khái niệm nói quá

- Nói quá được sử dụng nhiều trong ca dao tục ngữ, trong văn thơ châm biếm, hài hước và cả trong văn thơ trữ tình. Biện pháp nói quá được sử dụng nhiều trong thành ngữ trở thành những khuôn mẫu cố định

-Biện pháp để nhận thức phép tu từ nói quá là đối chiếu nội dung lời nói với thực tế. Trong nhận thức về nói quá, điều quan trọng là phải hiểu được cái ý nghĩa hàm ẩn của lời nói. Nói " Đêm tháng năm.." là ngụ ý hiện tượng thời gian đêm tháng năm rất ngắn. Nói " Ngày tháng mười.." là ngụ ý thời gian ngày tháng mười rất ngắn. Cũng vậy, nói" Mồ hôi thánh thót..." là ngụ ý lao động của người nông dân hết sức vất vả

- Tác dụng của nói quá:

-Biện pháp nói quá thường được dùng kèm với biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ

VD: - rẻ như bèo; đen như cột nhà cháy

- Bàn tay ta làm nên tất cả

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm

- Phân biệt nói quá với nói khoác: Nói quá và nói khoác đều là phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng nhưng khác nhau ở mục đích. Nói quá là biện pháp tu từ nhằm mục đích nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.Còn nói khoác nhằm cho người nghe tin vào những điều không có thực. Nói khoác là hành động có tác động tiêu cực.

VD: Có sức người sỏi đá cũng thành cơm( nói quá)

- Tôi có thể biến hòn đá kia thành một bát cơm nóng và một khúc cá kho thơm phức( nói khoác)

Bàitập:

Bài 1: Tìm biện pháp nói quá trong các câu sau:

a, Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hồn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi. (Nguyên Hồng)

b, Nếu người quay lại ấy là người khác thì thật là một trò cười tức bụng cho lũ bạn tôi, chúng nó khua guốc inh ỏi và nô đùa ầm ĩ trên hè. Và cái lầm đó không những làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc.

( Nguyên Hồng)

c, Tôi nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi. Tôi quý chúng có lẽ còn hơn những ngón tay tôi. ( Nam Cao)

d,

Số cô chẳng giàu thì nghèo 


Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà 

Số cô có mẹ có cha 


Mẹ cô đàn bà,cha cô đàn ông 
Số cô có vợ có chồng 
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. ( Ca dao)

e, Cậu cai nón dấu lông gà,


Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai

Ba năm được một chuyên sai,


Áo ngắn đi mượn, quấn dài đi thuê (Ca dao)

Bài 2:Phân tích tác dụng của phép tu từ nói quá trong câu ca dao sau:

Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Gợi ý: Phép tu từ nói quá cho thấy sức mạnh của sự hòa thuận giữa vợ và chồng có thể làm được việc tưởng chừng như không thể làm được ( tát biển đông cũng cạn)

Bài 3: Tìm hiểu giá trị biểu hiện của biện pháp nói quá trong các câu sau:

a. Gươm mài đá, đá núi cũng phải mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông.

Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi

=> Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân Đại Việt (K/n Lam Sơn).

b. Ta đi tới trên đường ta bước tiếp

Rắn như thép, vững như đồng

Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp.

Ta đi tới – Tố Hữu

=> Đội quân ta hùng mạnh, kết thành một khối vững chắc, không gì lay chuyển được.

Bài 4: Tìm 5 thành ngữ có sử dụng phép nói quá. Đặt câu với mỗi thành ngữ đó.

Bài 5: Tìm một đoạn thơ hoặc ca dao có dùng phép nói quá. Nêu tác dụng của phép nói quá trong đoạn thơ hoặc ca dao vừa tìm.

*Dặn dò : Tìm hiểu phép tu từ nói giảm nói tránh

* Rút kinh nghiệm:

................................................................................................................................


Ngày tháng năm

---------------------------------------------------------------


Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề : Các biện pháp tu từ

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm:

- Hiểu, nhận biết và phân tích được giá trị của các biện pháp tu từ đã học từ 6 đến 8.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Nắm được những biện pháp tu từ cụ thể và vận dụng trong quá trình học tập.

2. Kỹ năng

- Biết vận dụng các biện pháp tu từ đã học vào nói và viết.

B. Chuẩn bị

Giáo viên: Soạn giáo án

Học sinh: Ôn tập

C. Thời lượng: 3 buổi

* Củng cố lí thuyết: Phép tu từ nói giảm nói tránh


1. Khái niệm: Là biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.

VD: Cháu bé đó bớt đi ngoài chưa?

2. Một số cách nói giảm nói tránh thường gặp.

a. Sử dụng các từ đồng nghĩa Hán việt

- Chết: từ trần, tạ thế…

- Chôn: mai táng, an táng,…

b. Sử dụng cách nói vòng

Anh còn kém lắm => Bài thơ của anh chưa được hay lắm.

c. Phủ định từ trái nghĩa.

VD: Xấu: chưa đẹp, chưa tốt.

d. Nói trống

VD: Ông ấy chỉ nay mai thôi.


  1. Nói giảm nói tránh chủ yếu được dùng trong lời nói hàng ngày, VB chính luận, VB nghệ thuật...

Bài tập:

Bài 1: Tìm biện pháp nói giảm nói tránh trong các câu sau và cho biết ý nghĩa của nó.

a. Chỉ đến lúc thân tàn lực kiệt, trả xác cho đời, Thị Kính mới được minh oan và được trở về cõi Phật.

b. Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội mình.

c. Bỗng lòe chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi!

d. Trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao!

Bài 2: Có thể thay từ chết trong các câu sau bằng cách nói như ở bài tập 1 được không? Vì sao?

a. Trong những năm qua số người mắc bệnh truyền nhiễm và chết vì các bệnh truyền nhiễm giảm dần.

-> VB khoa học.

b. Sau trận bão, cây cối trong vườn chết hết cả.

-> Đồ vật.

c. Quân triều đình đã đốt rừng để giết chết người thủ lĩnh nghĩa quân đó, khởi nghĩa bị dập tắt.

-> Giết chết (đâm chết, bắn chết…) có tính ổn định chặt chẽ, thêm vào đó, cũng có khả năng kết hợp khác với từ chết đứng riêng.

Bài 3: Đặt 3 câu nói giảm nói tránh bằng cách phủ định từ trái nghĩa.

VD: Em nấu ăn chưa được ngon lắm.

Bài 4: Thay các từ ngữ gạch chân bằng các từ ngữ đồng nghĩa để thể hiện cách nói giảm, nói tránh:

a. Anh cứ chuẩn bị đi, bà cụ có thể chết trong nay mai thôi.

b. Ông ấy muốn anh đi khỏi nơi này.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 7


c. Bố tôi làm người gác cổng cho nhà máy.

d. Cậu ấy bị bệnh điếc tai, mù mắt.

đ. Mẹ tôi làm nghề nấu ăn.

e. Ông giám đốc chỉ có một người đầy tớ.

( * đi; lánh mặt khỏi đây một chút; bảo vệ; khiếm thính, khiếm thị; cấp dưỡng; người giúp việc).

Bài 5: Tìm biện pháp nói giảm nói tránh trong các trường hợp sau.

a. Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta. (Nguyễn Khuyến)

- Thôi đã thôi rồi: Giảm nhẹ sự mất mát, trống vắng không phương bù đắp.

b. Kiếp hồng nhan có mong manh

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. (Nguyễn Du)

- Gãy cành thiên hương: Cuộc đời, số phận nàng kiều bị vùi dập, sắc đẹp tàn phai, bị dày vò.

Bài 6: Tìm các câu có vận dụng cách nói giảm, nói tránh trong giao tiếp mà em thường gặp.

( VD: Chị Lan dạo này có vẻ thưa đi làm.

Trông cô ấy có vẻ không hiền lắm.)

Bài 7: Viết một đoạn văn ngắn có sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh


* Dặn dò:ôn tập phần văn thuyết minh

* Rút kinh nghiệm:


Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:


Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Hiểu thế nào là văn bản thuyết minh.

- Nắm được các phương pháp thuyết minh.

-Bố cục của bài văn thuyết minh

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Nhận biết được vai trò yếu tố thuyết minh trong các loại văn bản khác.

- Phân biệt được văn thuyết minh với văn miêu tả.

2. Kỹ năng

- Viết được văn bản thuyết minh về các đối tượng khác nhau.Trong văn bản thuyết minh ấy có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự.

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập

C. Thời lượng: 4 buổi

I. Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh

1.Thuyết minh là gì?

- Thuyết minh nghĩa là nói rõ, giải thích, giới thiệu

- Thuyết minh còn có nghĩa là hướng dẫn cách dùng

2. Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp tri thức về các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, trong xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.

VD: -Giới thiệu về một nhân vật lịch sử

- Giới thiệu một miền quê, một vùng địa lý

- Giới thiệu một đặc sản, một món ăn

- Giới thiệu một vị thuốc

- Giới thiệu một loài hoa, loài chim, loài thú…

3. Văn bản thuyết minh có tính chất khách quan, thực dụng, là loại văn bản có khả năng cung cấp tri thức xác thực, hữu ích cho con người.

4. Một văn bản thuyết minh hay, có giá trị là một văn bản trình bày rõ ràng hấp dẫn những đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh.

5. Văn bản thuyết minh sử dụng ngôn ngữ chính xác, cô đọng, chặt chẽ, sinh động.

Bài tập 1: Hai văn bản sau có phải là văn bản thuyết minh không? Hãy đặt tên cho các văn bản ấy?

Văn bản 1: Ở nước ta, tiền giấy được phát hành lần đầu tiên dưới thời nhà Hò (1400 – 1407) nhưng chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn. Sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, ngân hàng Đông Dương ra đời năm 1875 và tiền giấy bắt đầu được phát hành ở Nam Kì và Hải Phòng vào khoảng những năm 1891 – 1892. Sau khi nước VNDCH ra đời, ngày 31-1 -1946, Chính Phủ đã kí nghị định phát hành tiền giấy VN và đến ngày 30- 11 – 1946 tờ giấy bạc đầu tiên của nước VNDCH ra đời. Ngày 5-6-1951, Ngân hàng quốc gia VN được thành lập và phát hành loại tiền giấy mới. Từ đó đến nay, nước ta đã trải qua hai lần đổi tiền (1959 và 1985) và một lần thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc theo loại tiền mới (1978)

Văn bản 2: Cá đuối thường sống ở vùng biển nhiệt đới. Thân hình chúng nom dẹt và mỏng, do hai vây ngực rộng và phẳng ở hai bên, gắn liền với thân. Khi cá bơi, các vây ngực mềm này chuyển động lên xuống trong nước trông rất đẹp. Cá đuối màu xanh sẫm, nhưng cũng có loài đuối lưng có những đốm màu trắng nom rất nổi bật. Chiếc đuôi dài giúp cá đuối giữ thăng bằng dưới nước. Tuy nhiên, đuôi cá đuối có nọc độc, có thể châm đốt gây nguy hiểm cho người và các động vật khác. Cá đuối thích sống thành từng đàn. Người ta có khi nhìn thấy bầy cá đuối ba đến bốn con bơi cạnh nhau. Chúng cũng rất thích nhảy múa nữa. Lúc “cao hứng”, cá đuối còn nhảy vọt lên trên mặt nước, cao đến vài mét. Song, cá đuối cũng biết giấu mình dưới cát để tránh kẻ thù.

Gợi ý: Cả hai văn bản trên đều là văn bản thuyết minh

Văn bản 1: Về tiền giấy Việt Nam

Văn bản 2: Loài cá đuối ở vùng biển nhiệt đới.

II. Tính chất của văn thuyết minh

- Một văn bản thuyết minh hay có giá trị là một văn bản trình bầy rõ ràng, hấp dẫn những đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh.

- Ngôn ngữ diễn đạt trong văn bản thuyết minh phải chính xác, chặt chẽ, cô đọng và sinh động. Cách viết màu mè, dài dòng sẽ gây cho người nghi ngờ, khó chịu, cần hết sức tránh.

VD: (xem trang 95,96,97 sách cảm thụ ngữ văn THCS 8 – Tạ Đức Hiền)

III. Yêu cầu và phương pháp thuyết minh

1. Yêu cầu:

- Trước hết phải hiểu rõ yêu cầu của bài làm là cung cấp tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh

- Phải quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác đối tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bầy các biểu hiện không phải tiêu biểu, không quan trọng.

- Phải sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc

- Cần chú ý thời gian được thuyết minh, đối tượng đọc, nghe bài thuyết minh của mình.

2. Phương pháp

Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như : nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh, đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu, nói vừa phải, tránh đại ngôn…

Tham khảo ví dụ trong sách trên (như mục III)

Bài tập:

Bài 1. Đọc các đoạn văn thuyết minh sau. Cho biết người viết đã phải huy động kiến thức gì và sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?

1. Dơi là động vật ngủ đông. Vì thế ta thường bắt gặp chúng vào mùa hè. “Nhà” của dơi là những nơi tối ẩm như vách đá, hang động, đặc biệt là trong những thân cây lớn đã chết. Ở nơi có dân cư, dơi thường trú trên mái nhà, vách tường ẩm và không có ánh sáng…”

(Theo Thanh Huyền- Báo hoạ mi)

2.Hiện nay, cứ 8 người Mĩ, có một người ở độ tuổi 65 hoặc cao hơn. Tới năm 2005, con số đó là 4 người. Nhóm người ở độ tuổi 75 trở lên ngày càng đông. Điều đó, chứng tỏ: người Mĩ ngày càng sống lâu hơn, có tuổi thọ cao hơn.

(Theo 365 lời khuyên về sức khoẻ)

Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi nuốt phải. Đặc biệt bao bì ni lông mầu đựng thực phẩm làm ô nhiễm thực phẩm…. gây tác hại cho não và là nguyên nhân gây ung thư phổi.

(Theo thông tin về ngày trái đất năm 2005)

Gợi ý:


a. Kiến thức sinh học

2. Kiến thức về sức khoẻ đời sống

3. Kiến thức về môi trường.
Gợi ý:

Văn bản trên là văn bản thuyết minh (có yếu tố tự sự) => một bản tin của báo

Văn bản trên nhắc nhở việc giáo dục thế hệ trẻ- trách nhiệm của gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ.

Bài 3: Hãy sưu tầm các kiến thức cần thiết để chuẩn bị cho đề bài : “thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam”.

(Tham khảo sách “Cảm thụ ngữ văn 8 của Tạ Đức Hiền (tr 109) và sách “Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8 (tr 168)

Bài 4: đọc đoạn văn sau:

Cha ông ta ngày xưa- những người đã thiết kế nên chiếc áo dài- mặc dù thời tiết của nước ta rất nóng, vẫn tạo ra dáng vẻ áo dài sao cho thanh tao, trang nhã, hợp với người thiếu nữ. Chính vì điều đó mà các cụ đã thiết kế ra kiểu áo có cổ cao một phân, hợp với kiểu tóc búi tó của phụ nữ thời xưa, biểu lộ sự kín đáo cảu người con gái… Từ thời xưa, các vua chúa đã để ý đến cách ăn mặc của nhân dân và có lẽ chính vì điều ấy mà chiếc áo dài đã ra đời… Đầu thế kỉ XVII, ở Bắc Ninh, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy đã được ra đời để phù hợp với cách vấn khăn, bộc lộ rõ những nét đẹp của người Việt Nam. Mãi đến tận thế kỉ XX, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy được cải tiến thành chiếc áo năm thân..

a. Đây có phải là đoạn văn thuyết minh không ? Vì sao?

b. Muốn viết được đoạn văn trên, người viết đã phải lấy kiến thức từ đâu?

3. Nếu đúng là văn thuyết minh thì đoạn văn đã sử dụng các phương pháp thuyết minh nào?

a. Đoạn văn trên đúng là đoạn văn thuyết minh

b. Tìm kiến thức mà các nhà khoa học, nghiên cứu đã khẳng định ở trong sách, báo chí, các tài liệu tin cậy…

c. Các phương pháp thuyết minh mà đoạn văn sử dụng: hs tự làm.


IV. Cách làm bài văn thuyết minh

1.Phải tìm hiểu đề bài, nhằm xác định đối tượng sẽ thuyết minh

2. Tiếp theo, người làm bài phải tìm các tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh (có thể đến tận nơi quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác, ghi chép lại) hoặc tìm đọc ở sách báo các kiến thức tin cậy về đối tượng thuyết minh

3. Tiếp theo nữa, sau khi có kiến thức rồi, cần tìm một hướng trình bày theo một trình tự thích hợp với đối tượng cần thuyết minh, sao cho người đọc dễ hiểu

VD: Nếu thuyết minh về chiếc xe đạp có thể đi từ bộ phận quan trọng, đến không quan trọng, đến tác dụng của xe đạp với người sử dụng…

Nếu thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam cần đi theo trình tự từ nguồn gốc, cách làm nón, các kiểu dáng nón, tác dụng khi con người sử dụng…

4. Khi làm văn thuyết minh, chú ý sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. Chú ý “chất văn” phù hợp với văn thuyết minh.

* Dặn dò:

Ôn tập kiến thức về văn bản thuyết minh

* Rút kinh nghiệm:

...................................................................................................................................... Ngày tháng năm

---------------------------------------------------------------------------------

Ngày soạn:

Ngày dạy:


Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH (tiếp)

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Hiểu thế nào là văn bản thuyết minh.

- Nắm được các phương pháp thuyết minh.

-Bố cục của bài văn thuyết minh

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Nhận biết được vai trò yếu tố thuyết minh trong các loại văn bản khác.

- Phân biệt được văn thuyết minh với văn miêu tả.

2. Kỹ năng

- Viết được văn bản thuyết minh về các đối tượng khác nhau.Trong văn bản thuyết minh ấy có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự.

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập

C. Thời lượng: 4 buổi

Thuyết minh một thứ đồ dùng

* GV nêu dàn về thuyết minh một thứ đồ dùng ý chung

a, Mở bài:

Giới thiệu về đồ dùng

Ý nghĩa khái quát

b, Thân bài:

- Xuất xứ ( nếu có)

- Cấu tạo:

+hình dáng , kích thước, màu sắc

+Chất liệu, cấu tạo ( gồm những bộ phận nào?)

- Nguyên lí hoạt động( nếu có)

- Công dung, ý nghĩa

- Giá thành, nơi sản xuất

- Cách sử dụng, bảo quản

c, Kết bài

- Ý nghĩa của đồ dùng

- Suy nghĩ , tình cảm với đồ dùng đó

* Đề bài: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam

Mở bài:


Chiếc áo dài là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, là quốc phục của đất nước.
Chiếc áo dài mang theo một bề dày lịch sử từ khi nó ra đời đến nay.
Thân bài:
1/ Lịch sử chiêc áo dài:
a/ Chiếc áo dài ra đời lần đầu vào thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 -1765). Do sự di cư của hàng vạn người Minh Hương, Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo dài để tạo nét riêng cho người Việt
b/ Chiếc áo dài thay đổi theo từng giai đoạn và lý do khác nhau: Chiếc áo dài đầu tiên là chiếc áo dài giao lãnh. Đó là loại áo giống như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai tà trước không buộc lại, mặc cùng váy thâm đen.
c/ Do việc đồng áng, chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước vốn được thả tự do nay cột lại cho gọn gàng, m ặc cùng váy xắn quai cồng tiện cho việc lao động. Đó là chiếc áo tứ thân dành cho người phụ nữ lao động bình dân. Còn áo tứ thân dành cho ph ụ nữ thuộc tầng lớp quí tộc, quan lại thì lại khác: Ngoài cùng là chi ếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm đào đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc màu thiên lý. Mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao trông rất duyên dáng.

Áo tứ thân không chỉ là một trang phục đẹp mà còn mang theo những ý nghĩa rất đặc biệt: Phía trước có hai tà, phía sau có hai tà (vạt áo) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu (cha mẹ chồng và cha mẹ vợ). Một vạt cụt có tác dụng như một cái yếm, nằm phía bên trong hai vạt lớn, tượng trưng cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lòng. Năm hạt nút nằm cân xứng năm vị trí cố định, giữ cho nếp áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Hai vạt trước buộc lại tượng trưng cho tình chồng vợ quấn quýt.


d/ Khi Pháp xâm lược nước ta, chiếc áo dài lại một lần nữa thay đổi. Chiếc áo tứ thân được thay đổi thành chiếc áo dài. Chiếc áo dài này do một họa sĩ tên Cát Tường (tiếng Pháp là Lemur) sáng tạo nên nó được gọi là áo dài Lemur. Chiếc áo dài Lemur này mang nhiều nét Tây phương không phù hợp với văn hóa Việt Nam nên không được mọi người ủng hộ.
e/ Năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét c ứng c ỏi c ủa áo Lemur, đồng thời đưa các yếu tố dân tộc từ áo từ thân thành kiểu áo dài cổ kính, ôm sát thân, hai vạt trước được tự do tung bay. Chiếc áo dài này hài hòa giữa cũ và mới lại phù hợp với văn hóa Á đông nên rất được ưa chuộng.
h/ Chiếc áo dài ngày nay: Trải qua bao năm tháng, trước sự phát triển của xã hội chiếc áo dài ngày nay dần được thay đổi và hoàn thiện hơn để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ và cuộc sống năng động c ủa người phụ nữ ngày nay.

2/ Cấu tạo:

a/ Các bộ phận:

– Cổ áo cổ điển cao khoảng 4 đến 5 cm, khoét hình chữ V trước c ổ. Kiểu cổ áo này càng làm tôn lên vẻ đẹp của chiếc cổ cao ba ngấn trắng ngần thanh tú của người phụ nữ. Ngay nay, kiểu c ổ áo dài được bi ến tấu khá đa dạng như kiểu trái tim, cổ tròn, cổ chữ U,.

– Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Thân áo dài được may vừa vặn, ôm sát thân của người mặc, ở phần eo được chít ben (hai ben ở thân sau và hai ben ở thân trước) làm nổi bậc chiếc eo thon c ủa người phụ nữ. Cúc áo dài thường là cúc bấm, được cài từ cổ qua vai xuống đến phần eo. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm hai tà, vị trí xẻ tà ở hai bên hông. – Áo dài có hai tà: tà trước và tà sau và bắt buộc dài qua gối. – Tay áo được tính từ vai, may ôm sát cánh tay, dài đến qua khỏi c ổ tay. – Chiếc áo dài được mặc với quần thay cho chiếc váy đen ngày xưa. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Quần áo dài thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là màu trắng. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần áo dài có màu đi tông với màu của áo. b/ Chất liệu vải và màu sắc của chiếc áo dài: Chọn vải để may áo dài ta nên chọn vải mềm và có độ rũ cao. Ch ất liệu vải để may áo dài rất đa dạng: nhung, voan, the, lụa,… màu sắc cũng rất phong phú. Chọn màu sắc để may áo dài tùy thuộc vào tuổi tác và sở thích của người mặc.

3/ Công dụng:

Chiếc áo dài ngày nay không chỉ là trang phục lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn văn hóa dân tộc, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam mà chiếc áo dài đã trở thành trang phục công sở như các ngành nghề: tiếp viên hàng không, nữ giáo viên, nữ nhân viên ngân hàng, h ọc sinh,… Ngoài ra ta có thể diện áo dài để đi dự tiệc, dạo phố vừa kín đáo, duyên dáng nhưng cũng không kém phần thời trang, thanh lịch.

4/ Bảo quản:

Do chất liệu vải mềm mại nên áo dài đòi hỏi phải được bảo quản cẩn thận. Mặc xong nên giặt ngay để tránh ẩm mốc, gi ặt bằng tay, treo bằng móc áo, không phơi trực tiếp dưới ánh nắng để tránh gây bạc màu. Sau đó ủi với nhiệt độ vừa phải, treo vào mắc áo và cất vào tủ. Bảo quản tốt thì áo dài sẽ mặc bền, giữ được dáng áo và mình vải đẹp. Chiếc áo dài may đẹp là đường chỉ phải sắc sảo, ôm sát, vừa vặn với người mặc. Ở Nam bộ, chiếc áo dài được cách điệu thành áo bà ba mặc với quần đen ống rộng cũng rất đẹp. Chiếc áo dài khi mặc thường được được đi kèm với chiếc nón lá đội đầu càng tôn vẻ dịu dàng nữ tính của người phụ nữ Việt Nam.

Kết bài:


Dù hiện nay có nhiều mẫu thời trang ra đời rất đẹp và hiện đại nhưng vẫn không có mẫu trang phục nào thay thế được chiếc áo dài – trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ta: dịu dàng, duyên dáng nhưng cũng rất hợp mốt, hợp thời.

* Dặn dò:

Ôn tập kiến thức về văn bản thuyết minh

* Rút kinh nghiệm:

......................................................................................................................................
Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH (tiếp)

Tiến trình:

1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ: Xen trong giờ học

3. Bài mới

* Thuyết minh về động vật:

Thuyết minh về một loài vật: con chó, con mèo, con trâu…


Dàn ý chung:
Mở bài: Giới thiệu chung về con vật
Thân bài:
1.Nguồn gốc, các giống, loài
2. Các đặc điểm nổi bật về hình dáng bên ngoài
- Hình dáng, chân, tai, mắt, lông…
3. Các đặc điểm nổi bật về tập tính, tính nết
4. Quạn hệ, vai trò, lợi ích, giá trị của con vật đối với đơì sống của con người
Kết bài: Khẳng định vai trò, vị trí của con vật trong đời sống con người; tình cảm của con người với vật nuôi * Bài tập:

* Lập dàn ý : Thuyết minh về con mèo.


A. Mở bài: Giới thiệu chung về con mèo.
B. Thân bài:
- Đặc điểm:
+ Động vật 4 chân, thuộc lớp thú, lông dày, mượt, nhiều màu.
+ Ria mép : dài, là cơ quan xúc giác.
+ Tai: thính, nhạy cảm, nghe được những âm thanh rất nhỏ, khi ngủ thường cài tai vào chân trước vừa để bảo về vừa để nghe thấy mọi âm thanh .
+ Mắt: con ngươi có tính đàn hồi cao, thay đổi theo mức độ ánh sáng, thay đổi 3 lần trong ngày: Ban ngày ánh sáng mạnh , con ngươi mèo thu nhỏ như sợi chỉ; ban đêm, mắt mèo mở to như trăng rằm; sáng sớm hay nhá nhem tối, mắt mèo có hình hạt táo.
+ Xương: mềm.
+ Chân: có móng vuốt dài có thể đàn hồi, bàn chân có đệm thịt dày
+ Đuôi: dài. giữ thăng bằng khi chạy nhảy.
- Tập tính:
+ Thích nằm chỗ ấm áp, sợ rét.
+ Thích liếm lông, vì lông mèo khi gặp nắng thì chyển hóa thành vita min( thức ăn bổ dưỡng cho mèo)
+ Rất thích bắt chuột.
+ Mèo mẹ nuôi con rất khéo, luôn đảm bảo an toàn cho con, dạy con cách leo trèo, bắt chuột.
+ Thích được con người vuốt ve.
- Vai trò: 
+ Có ích trong cuộc sống của con người: bắt chuột để bảo vệ mùa màng, giữ gìn đồ dùng trong nhà khong bị chuột cắn, phá…
+ Nuôi để làm cảnh…
- Chăm sóc, bảo vệ
C. Kết bài: Khẳng định vai trò, lợi ích của loài mèo đối với con người

Thuyết minh về một loài cây, loài hoa

* Thuyết minh về thực vật: loài cây, loài hoa


- Dàn ý chung:
Mở bài: Giới thiệu chung về loài cây, hoa (trực tiếp, gián tiếp) 
Thân bài: 
1. Giới thiệu về nguồn gốc, các giống loài, nơi phân bố 
2. Giới thiệu đặc điểm nổi bật của cây, hoa 
- Hình dáng, màu sắc của thân, lá, nụ, hoa, quả…
3. Cách chăm sóc, uốn tỉa, thu hoạch ( nếu có)
4. Vai trò, tác dụng, giá trị của cây, hoa trong cuộc sống con người 
- Giá trị kinh tế.
- Giá trị tinh thần
( Khi giới thiệu nếu có số liệu càng cụ thể, chính xác thì bài thuyết minh càng rõ ràng)
Kết bài: Khẳng định, nhấn mạnh vị trí, ý nghĩa của cây, hoa đối với đời sống con người.

Đề bài: Quê em có biết bao loài cây, loài hoa. Em hãy giới thiệu về một loại cây( hoa) mà em yêu thích


Hướng dẫn: Lập dàn ý:
A. Mở bài: G/t về cây đào
B. Thân bài: 
- Nguồn gốc: Xuất hiện ở Việt Nam từ lâu. Những địa danh trồng đào nổi tiếng: Nhật Tân, Quảng Bá…
- Các loại: nhiều loại
- Đặc điểm nổi bật: Thân gỗ, cao3- 5 m. Lá hình mũi mác.Nụ tròn, nhỏ. Hoa 5 cánh đơn, cánh kép nhiều tầng màu hồng nhạt hoặc đỏ thắm. Quả hình trái tim, loại quả hạch, cùi dày
- Chăm sóc, uốn tỉa, thu hoạch: tuốt lá trước tết khoảng 60 ngày, tưới nhiều nước 
- Vai trò, tác dụng: Kinh tế, văn hoá, tinh thần, thẩm mĩ gắn với thú chơi đào ngày Tết. Là đề tài của thơ ca, nhạc hoạ.
C. Kết bài: K/đ vị trí của cây đào trong c/s của người Việt

* Dặn dò:

Ôn tập kiến thức về văn bản thuyết minh

* Rút kinh nghiệm:...................................................................................

Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH (tiếp)


Tiến trình:

1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ: Xen trong giờ học

3. Bài mới

Thuyết minh một thể loại văn học.

Dàn ý chung:


Mở bài:
Giới thiệu khái quát về thể loại( vị trí của thể loại trong nền văn học)
Thân bài:
1. Giới thiệu về nguồn gốc, xuất xứ của thể loại.
2. Thuyết minh các đặc điểm của thể loại theo trình tự
VD: Thuyết minh về một thể thơ
+ Số câu, số chữ
+ Về niêm luật
+ Cách hiệp vần
+Về cách ngắt nhịp
+ Về các đặc điểm khác( bố cục…)
Thuyết minh về truyện: Cốt truyện, tình huống, nhân vật, sự việc…
Thuyết minh về văn chính luận: bố cục, luận điểm, phương pháp lập luận,
3. Vai trò, tác dụng của thể loại trong nền văn học dân tộc
Hoặc ưu điểm, hạn chế của thể loại(nếu có)
Những tác phẩm tiêu biểu( nổi tiếng) được làm theo thể loại này
Kết bài:
Đánh giá, nhận xét về thể loại
Khẳng định vị trí của thể loại
c. Thuyết minh về tác giả:
Mở bài: Giơí thiệu khái quát về tác giả
Thân bài:
a. Giới thiệu về tiểu sử ( Cuộc đời)
- Họ, tên thật, bút danh khác, năm sinh, năm mất, quê quán
- Gia đình, trình độ học vấn, cá tính ( nếu có)
- Những yếu tố ảnh hưởng tới sự nghiệp văn chương(ảnh hưởng của gia đình, quê hương…)
2. Sự nghiệp:
- Sự nghiệp chính trị ( Cách mạng) – Nếu có
- Sự nghiệp văn chương:
+ Nội dung và đề tài sáng tác:
Quan điểm nghệ thuật( sáng tác), đặc điểm phong cách)
+ Các chặng đường sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu ở mỗi chặng
3. Vai trò, vị trí, sự đóng góp của tác giả đối với văn học, với xã hội.
Kết bài: Thái độ, đánh giá về tác giả.
Khẳng định vị trí của tác giả trong trong giai đoạn, thời kì văn học, hay trong lòng độc giả. 
* Tthuyết minh về tác phẩm
Mở bài: 
Giới thiệu khái quát về tác phẩm(vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của tác giả; trong văn học)
Thân bài:
1. Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác; hoặc xuất xứ của tác phẩm
2. Tóm tắt nội dung tác phẩm
- Truyện: Tóm tắt cốt truyện
- Thơ: Nội dung chủ yếu
3. Giới thiệu đặc điểm nổi bật của tác phẩm
- Đặc điểm nội dung (Giá trị hiện thực; Giá trị nhân đạo;)

- Đặc điểm nghệ thuật


4. Giá trị, ý nghĩa của tác phẩm đối với tác giả, với văn học, với cuộc sống. Hoặc hạn chế( nếu có)
Kết bài: Nhận xét, đánh giá về tác phẩm.Vị trí của tác phẩm trong nền văn học.
* Bài Tập:

1/ Giới thiệu tác giả Ngô Tất Tố và đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

2/ Giới thiệu nhà văn Nguyên hồng và đoạn trích “Trong lòng mẹ”

    • HS làm bài
    • HS đọc bài;
    • Nhận xét

*Dặn dò:

* Rút kinh nghiệm:.......................................................................................................


Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 8


Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH (tiếp)

Tiến trình:

1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ: Xen trong giờ học

3. Bài mới

Khi làm bài văn TM, cần xác định các ý lớn, mỗi ý viết thành 1 đoạn văn.

Khi viết đoạn văn, cần trình bày rõ ý chủ đề của đoạn, tránh lẫn ý của đoạn văn khác.

Các ý trong đoạn văn cần sắp xếp theo thứ tự cấu tạo của sự vật, thứ tự nhận thức (từ tổng thể đến bộ phận, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần), thứ tự diễn biến sự việc trong thời gian trước sau hay theo thứ tự chính phụ (cái chính nói trước, cái phụ nói sau).

I. Thuyết minh về 1 cách làm:

- Khi giới thiệu 1 phương pháp (1 cách làm) nào, người viết phải tìm hiểu, nắm chắc phương pháp, cách làm đó.

- Khi thuyết minh, cần trình bày rõ điều kiện, cách thức, trình tự,…làm ra sản phẩm và y/c chất lượng đối với sản phẩm đó.

- Lời văn ngắn gọn, rõ ràng.

II. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh:

- Muốn viết bài giới thiệu về 1 danh lam thắng cảnh thì tốt nhất phải đến nơi thăm thú, quan sát hoặc tra cứu sách vở, hỏi han những người hiểu biết về những nơi ấy.

- Bài giới thiệu nên có bố cục đủ 3 phần. Lời giới thiệu ít nhiều có kèm theo miêu tả, bình luận thì sẽ hấp dẫn hơn; tuy nhiên bài giới thiệu phải dựa trên cơ sở kiến thức đáng tin cậy và có phương pháp thích hợp.

- Lời văn cần chính xác và biểu cảm.

III/ Ôn tập chung về VB thuyết minh:


Định nghĩa - Là kiểu VB thông dụng trong mọi lĩnh vực ĐS nhằm cung cấp tri thức về đặc điểm, t/c, nguyên nhân, ý nghĩa ... của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, XH bằng phương thức trình bày, GT.
Y/c - Mọi tri thức đều phải khách quan, xác thực, đáng tin cậy.
Lời văn - Rõ ràng, chặt chẽ, vừa đủ, dễ hiểu, giản dị, hấp dẫn.

Các kiểu

đề văn TM


- TM một đồ vật, động vật, thực vật.

- TM một hiện tượng TN, XH.

- TM một phương pháp (cách làm).

- TM một DLTC.

- TM một thể loại văn học.

- GT một danh nhân (một gương mặt nổi tiếng).

- GT một phong tục, tập quán DT, một lễ hội, Tết.


Các bước

XD VB


- HT, nghiên cứu tích lũy tri thức bằng nhiều biện pháp gián tiếp, trực tiếp để nắm vững và sâu sắc đối tượng.

- Lập dàn ý, bố cục, chọn VD, số liệu.

- Viết bài văn TM, sửa chữa, hoàn chỉnh.

- Trình bày.


Dàn ý chung của VB TM
1. MB: GT khái quát về đối tượng.

2. TB: Lần lượt GT từng mặt, từng phần, từng v/đ, đặc điểm của đối tượng. Nếu là TM một PP thì theo 3 bước:

- Chuẩn bị - Quá trình tiến hành - Kết quả, thành phẩm.

3. KB: Ý nghĩa của đối tượng hoặc bài học thực tế, XH, văn hóa, LS, nhân sinh.


Vtrò,Vtrí, ytố - MT, TS, NL chiếm một tỉ lệ nhỏ và được sử dụng hợp lí. Tất cả nhằm làm nổi bật đối tượng cần TM.

B. Bài tập:

1/ Giới thiệu cách làm một món ăn mà em yêu thích.

2/ Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em?

- Đình Lũng Xuyờn

- Đền Lảnh Giang

- Chùa Long Đọi Sơn

* HS: - Lập dàn ý

- Viết bài; Đọc bài; Nhận xét

4. Củng cố:

- Giáo viên chốt lại kiến thức trọng tâm

5. HDVN:

- Ôn tập kĩ các kiến thức trọng tâm.

- Xem lại & hoàn thiện tiếp các BT.

* Rút kinh nghiệm:

……………………………………………………………………………………

Ngày tháng năm

--------------------------------------------------------------------------------------

Ngày soạn:

Ngày dạy:

KIỂM TRA

Chuyên đề: VĂN THUYẾT MINH (tiếp)

Tiến trình:

1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ:

3. Bài mới

ĐỀ BÀI: Đọc bài ca dao sau rồi thực hiện yêu cầu bên dưới :

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Câu1. ( 1,25 điểm)

Bài ca dao trên đã lược bỏ một số dấu câu cần thiết .Em hãy chép lại bài ca dao, điền các dấu câu bị lược bỏ và cho biết công dụng của các dấu câu đó.

Câu 2. (1,25 điểm)

a.Xét về cấu tạo ngữ pháp, bài ca dao trên gồm mấy câu ?

b. Hãy phân tích ngữ pháp và cho biết đó là câu đơn hay câu ghép ? Nếu là câu ghép, em hãy chỉ rõ quan hệ giữa các vế câu trong câu ghép đó.

Câu 3. ( 2 điểm)

Trình bày cảm nhận của em về bài ca dao trên.

Câu 4. ( 5,5 điểm)

Bài ca dao được viết theo thể thơ nào? Hãy viết bài văn thuyết minh về thể thơ đó.

ĐÁP ÁN:

Câu 1. ( 1,25 diểm)

a. Học sinh điền đúng, đủ các dấu câu cần thiết cho 0,5 điểm

Anh đi, anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương,

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

b. Công dụng các dấu câu :

Dấu câu Công dụng
Dấu phẩy 1
Phân tách các vế trong một câu ghép 0,25 điểm
Dấu phẩy 2,3,4,5
Phân tách các thành phần có cùng chức vụ ngữ pháp trong câu. ( Vị ngữ) 0,25 điểm
Dấu chấm
Kết thúc câu trần thuật 0,25 điểm

Câu 2. ( 1,25 điểm)

a.Xét về cấu tạo ngữ pháp, bài ca dao trên gồm 1 câu. ( 0,25 điểm)

b. Phân tích cấu tạo ngữ pháp : ( 0,5 điểm )

Anh / đi, anh / nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương,

CN1 VN1 CN2 VN2

nhớ ai dãi nắng dầm sương, nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.



  • Câu trên là câu ghép. ( 0,25 điểm)

  • Quan hệ giữa hai vế câu là quan hệ nối tiếp. ( 0,25 điểm)

Câu 3. ( 2 điểm)

a. Yêu cầu về hình thức : HS phải viết thành bài có bố cục Mở – Thân – Kết, diễn đạt rõ ràng, lưu loát. ( 0,5 điểm)

* Lưu ý : Nếu HS không viết thành bài thì không cho điểm này.

b. Yêu cầu về nội dung : Cần chỉ ra và phân tích tác dụng của những dấu hiệu nghệ thuật có trong bài ca dao

* Các dấu hiệu nghệ thuật: ( 0,5 điểm)

- Điệp ngữ “nhớ” nhắc lại 5 lần

- Liệt kê

* Tác dụng : ( 1 điểm) Khắc hoạ nỗi nhớ da diết của người xa quê.

- Anh đi, đi vì việc lớn, vì sự nghiệp chung, cho nên nỗi nhớ đầu tiên anh dành cho quê nhà. Đó là quê hương, chiếc nôi cuộc đời của mỗi con người, nơi ta cất tiếng khóc chào đời, nơi tất cả tuổi thơ ta lớn lên từ đó. Nơi ấy có bát canh rau muống, có món cà dầm tương . Những món ăn hết sức dân dã của quê nhà đã nuôi anh khôn lớn, trưởng thành…Và cái hương vị quê hương ấy đã hoà vào máu thịt, hoà vào hơi thở của anh.

- Có sản phẩm ắt có bàn tay người trồng tỉa, bón chăm, dãi dầu một nắng hai sương. Có lẽ vì thế, từ nỗi nhớ những món ăn dân dã, món ăn được tạo ra từ bàn tay và giọt mồ hôi của mẹ cha, của những người thân thiết anh lại nhớ tới con người quê hương. Ban đầu là nỗi nhớ chung chung.Thế nhưng đến cuối bài ca, nỗi nhớ ấy hướng vào một con người cụ thể hơn : Cô thôn nữ dịu dàng, duyên dáng trong công việc lao động : tát nước.

- Điệp từ “nhớ”, phép liệt kê và thể thơ lục bát nhẹ nhàng đã khắc hoạ nỗi nhớ sâu xa, da diết , dồn dập của người xa quê. Nỗi nhớ nọ bao trùm nỗi nhớ kia, hoá thành những lời dặn dò, những lời tâm sự, giúp người ở nhà giữ vững niềm tin, giúp người đi xa có thêm sức mạnh. Bài ca dao đã gợi tình yêu quê hương đất nước trong trái tim mỗi người.

Câu 4 : ( 5,5 điểm)

A. Bài ca dao được viết theo thể thơ lục bát . ( 0,25 điểm)

B. Bài văn thuyết minh cần đảm bảo những yêu cầu sau

I. Yêu cầu chung :

- Kiểu bài : Thuyết minh ( nhóm bài thuyết minh về một thể loại văn học).

- Đối tượng : thể thơ lục bát

II. Yêu cầu cụ thể :

1. Mở bài : Giới thiệu khái quát về thể thơ lục bát. ( 0,5 điểm)

2. Thân bài : Cần đảm bảo những ý cơ bản sau :

a. Nguồn gốc : (0,5 điểm) Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc, do chính cha ông chúng ta sáng tác. Trước kia, hầu hết các bài ca dao đều được sáng tác bằng thể thơ này.Sau này, lục bát được hoàn thiện dần và đỉnh cao là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với 3254 câu lục bát.

b. Đặc điểm :

* Nhận diện câu chữ : (0,5 điểm) Gọi là lục bát căn cứ vào số tiếng trong mỗi câu. Thơ lục bát tồn tại thành từng cặp : câu trên 6 tiếng được gọi là câu lục, câu dưới 8 tiếng được gọi là câu bát. Thơ LB không hạn định về số câu trong một bài . Như thế, một bài lục bát có thể rất dài nhưng cũng có khi chỉ là một cặp câu LB.

* Cách gieo vần: ( 0,5 điểm)

- Tiếng thứ 6 câu lục vần với tiềng thứ 6 câu bát, tiếng thứ 8 câu bát lại vần với tiếng thứ 6 câu lục tiếp theo. Cứ thế luân phiên nhau cho đến hết bài thơ.

* Luật B-T : ( 0,75 điểm)

- Các tiếng 1,3,5,7 không bắt buộc phải theo luật B-T

- Các tiếng 2,6,8 trong dòng thơ thường là thanh B, còn tiếng thứ 4 là thanh T.

- Luật trầm – bổng : Trong câu bát, nếu tiếng thứ sáu là bổng ( thanh ngang) thì tiếng thứ 8 là trầm (thanh huyền) và ngược lại.

*Đối : ( 0,25 điểm) Đối trong thơ lục bát là tiểu đối ( đối trong một dòng thơ)

* Nhịp điệu : ( 0,25 điểm) Thơ LB chủ yếu ngắt nhịp chẵn : 4/4, 2/2/2, 2/4, 4/2…Tuy nhiên cách ngắt nhịp này cũng rất linh hoạt, có khi ngắt nhịp lẻ 3/3.

* Lục bát biến thể : ( 0,5 điểm)

- Số chữ trong một câu tăng lên hoặc giảm đi ( thường là tăng lên).

- Tiếng cuối là thanh T.

- Xê dịch trong cách hiệp vần tạo nên sự thay đổi luật B-T : Tiếng thứ 4 là thanh B

c. Ưu điểm : ( 0,5 điểm)

- Âm hưởng của lục bát khi thì thiết tha sâu lắng, khi thì dữ dội, dồn dập. Vì thế , thể thơ này có thể diễn tả được mọi cung bậc tình cảm của con người.

- Dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng ngườido đó cũng dễ sáng tác hơn các thể thơ khác

* Lưu ý : Khi thuyết minh, bắt buộc HS phải đưa ra ví dụ minh hoạ. Nếu bài viết không có ví dụ thì không cho quá 1/2 số điểm.

4. Củng cố:

- Giáo viên thu bài

5. HDVN:

- Ôn tập kĩ các kiến thức trọng tâm.

- Xem lại & hoàn thiện tiếp các BT.

* Rút kinh nghiệm:

……………………………………………………………………………………

Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề: Thơ Việt Nam 1900-1945

A. Mục tiêu

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Lịch sử phong trào Thơ Mới:

+ Hoàn cảnh lịch sử phát triển phong trào Thơ mới.

+ Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và Thơ mới.

+ Những thời kì phát triển và suy thoái của phong trào “ Thơ mới”.

-Giới thiệu được tác giả; thuộc lòng các bài thơ vànội dung, nghệ thuật đặc sắc của từng bài được học trong chương trình văn 8 .

Ngoài ra GV cần cung cấp thêm cho HS các bài thơ tiêu biểu khác trong phong trào Thơ mới để HS vận dụng khi làm các đề bài tổng hợp

- Hiểu, cảm nhận được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong những bài thơ của một số nhà yêu nước và tiến bộ và cách mạng Việt Nam 1900-1945.

- Nắm vững hiểu biết về tác giả Tố Hữu và Hồ Chí Minh .

- Nắm vững những hiểu biết về vẻ đẹp tâm hồn và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Biết một số đổi mới về thể loại, đề tài, cảm hứng, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của thơ Việt Nam 1900-1945

2. Kỹ năng

- Rèn kĩ năng cảm thụ văn học.

-Hình thành kĩ năng so sánh đối chiếu trong khi phân tích, cảm nhận thơ.

-Kĩ năng cảm thụ văn chương thông qua ngôn từ và hình ảnh thơ.

- Biết phân tích hiệu quả của những biện pháp nghệ thuật trong việc diễn tả nội dung

- Vận dụng các kiểu văn bản đã học để viết được bài luận văn theo kiểu văn bản Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh, Nghị luận. Vận dụng kết hợp các kiểu văn bản (phương thức biểu đạt) trong một bài văn.

- Vân dụng các kiến thức đã học để giải quyết một yêu cầu nào đó của đề bài.

- Kĩ năng lập ý, sắp xếp ý, kĩ năng xây dựng hệ thống luận điểm, kĩ năng lập luận, trình bày bố cục.

- Kĩ năng viết phần mở bài, kết bài hay, kĩ năng dùng từ ngữ độc đáo gợi cảm, giàu hình ảnh, kĩ năng sử dụng đa dạng các kiểu câu.

- Kỹ năng liên hệ, so sánh, mở rộng trong khi làm bài.

- Kỹ năng cảm thụ một tác phẩm thông qua các ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm

- Kỹ năng xác lập luận điểm , trình bày luận điểm , luận chứng, luận cứ .

- Kỹ năng làm các dạng đề , đặc biệt là đề tổng hợp …

- Cũng như các chủ đề khác GV cần rèn cho HS kỹ năng phân tích , nâng cao , tổng hợp .

3. Các dạng bài:

- Trình bày cảm nhận về những câu thơ đặc sắc băng một đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp. Trong đoạn văn có kết hợp sử dụng các kiến thức Tiếng Việt

- Phân tích hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật trong thơ.

- Thuyết minh về một thể thơ.

- Viết bài nghị luận tổng hợp để làm sáng tỏ những giá trị của các bài thơ mới như: lòng yêu nước thầm kín, sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống; tình yêu quê hương .

- Thuyết minh về tác giả.

- Cảm thụ văn học có lồng ghép so sánh đối chiếu.

- Viết bài nghị luận tổng hợplàm sáng tỏ những phẩm chất đáng quý của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh và Tố Hữu

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập

C. Thời lượng: 6 buổi

C. Tiến trình
Phong trào thơ mới

- Khoảng sau năm 1930, một loạt các thi sĩ trẻ xuất thân Tây học lên án thơ cũ là khuôn sáo, trói buộc. Họ đòi hỏi đổi mới thi ca và sáng tác những bài thơ không hạn định về số câu, chữ -> Thơ mới.

- Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển mạnh mẽ rồi đi vào bế tắc chưa đầy 15 năm. Thơ mới chủ yếu là thơ tự do7 hoặc 8 tiếng. So với thơ cũ, nhất là thơ Đường luật, thì Thơ mới tự do, phóng túng, linh hoạt hơn, không còn bị ràng buôc bởi những quy tắc nghiệt ngã của thi pháp thơ cổ điển.

Hai chữ Thơ mới trở thành tên gọi của một phong trào thơ (còn gọi là thơ lãng mạn), gắn liền với tên tuổi của thế Lữ, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu...



  1. Lịch sử phong trào Thơ mới (1932-1945)

1. Hoàn cảnh lịch sử làm xuất hiện phong trào Thơ mới

- Sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị với những tư tưởng, tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng sự giao lưu văn hóa Đông Tây là nguyên nhân chính làm phong trào Thơ mới ra đời

- Thơ mới lãng mạn xuất hiện từ trước 1930, thi sĩ Tản Đà chính là người dạo khúc nhạc đầu tiên cho cuộc hòa tấu lãng mạn sau này.

Thơ mới là phong trào thơ ca lãng mạn mang ý thức hệ tư sản và quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật

2. Cuộc đấu tranh giữa “thơ cũ” và “Thơ mới”

- Thơ mới chuyển dần từ Nam ra Bắc, lớn tiếng công kích thơ cũ sáo mòn, công thức, hô hào bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ...Thơ mới lần lượt dăng trên các tạp chí ở Hà Nội

năm 1933, Lưu Trọng Lư cho đăng một loạt thơ mới của mình trong tập “ Người sơn nhân”. Ttrong bài Một cuộc cải cách về thơ ca, Lưu Trọng Lư gọi những người làm thơ cũ là “Thợ thơ’. Họ cũng như những người thợ mộc chỉ lo chạm chìm, chạm nổi, trổ rồng, trổ phượng... nào hay khi chạm trổ xong, chưa biết dùng vào việc gì thì rồng phượng đã bay về trời hết.

Lưu Trọng Lư đề nghị các nhà thơ phải mau đem những ý tưởng mới những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, tình cảm cũ.

- Năm1934-1936 hàng loạt tác phẩm ra đời

- Năm 1936, có thể coi thơ mới thắng thế trong cuộc tranh luận về thể loại

- Từ 1936, tiếng tranh cãi yếu dần, Thơ mới chính thức được dạy trong các trờng học, đã chiếm ưu thế gần như tuyệt đối trong các tạp chí từ Nam ra Bắc

3. Các thời kỳ phát triển và suy thoái của Thơ mới

a. Từ 1932- 1939

- Lớp nhà thơ đầu tiên: Thế Lữ, Lu Trọng L, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên....

- Lớp nhà thơ xuất hiện sau: Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Tịnh, Hàn mặc Tử, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Nguyễn Bính,...

b.Từ 1940-1945

Do điều kiện lịch sử, văn chương tự lực văn đoàn cũng như thơ mới sa vào bế tắc, cùng quẫn, xuất hiện nhiều khuynh hướng tiêu cực.

II Một số nhàThơ mới tiêu biểu

1. THẾ LỮ

a. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca

(SGK)

Nhà thơ chọn bút danh Thế Lữ ngoài ý nghĩa để chơi chữ còn ngụ ý tự nhận mình là ngời khách tiên của trần thế, chỉ biết đi tìm cái đẹp:

Tôi là ngời bộ hành phiêu lãng

Đờng trần gian xuôi ngợc để vui chơi...

Tôi chỉ là ngời khách tình si

Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ

b. Đôi nét về hồn thơ Thế Lữ

- Thế Lữ không bàn về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, điềm nhiên bớc những bớc vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xa phải tan rã.

- Thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần cho đến tiết tấu âm thanh.

- Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò giữa hai nguồn thi cảm;: nẻo về quá khứ mơ màng, nẻo tới tương lai và thực tế...Sau một hồi mơ mộng vẩn vơ, thơ Thê Lư như một luồng gió lạ xui người ta biết say sưa với cái xán lạn của cuộc đời thực tế, biết cười cùng hoa nở chim kêu.

- Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế đất nước.

-> Thế Lữ không những là người cắm ngọn cờ thắng lợi cho phong trào Thơ mới mà còn là nhà thơ tiêu biểu nhất cho phong trào Thơ mới thời kì đầu.

c. Tác phẩm Nhớ rừng

- Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm mở đường cho sự thắng lợi của Thơ mới

Nhớ rừng là lời con hổ trong vờn bách thú. Tác giả mượn lời con hổ để nói lên tâm sự u uất của lớp thanh niên thế hệ 1930- đó là những thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, ngột ngạt đương thời. Họ khao khát cái tôi cá nhân được khẳng định và phát triển trong một cuộc đời rộng lớn, tự do. Đó cũng đồng thời là tâm sự chung của người dân mất nước bấy giờ. Vì vậy, Nhớrừng đã có được sự đồng cảm đặc biệt rộng rãi, có tiếng vang lớn. Có thể coi Nhớ rừng như một áng văn thơ yêu nước tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước hợp pháp đầu thế kỷ XX.

- Bài thơ tràn trề cảm hứng lãng mạn: thân tù hãm mà hồn vẫn sôi sục, khao khát tự do. Cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường tù túng nhưng không có cách gì thoát ra được, nó chỉ biết buông mình trong mộng tưởng để thoát ly hẳn cái thực tại đó, tìm đến một thế giới khoáng đạt, mạnh mẽ, phi thường.

d. Tham khảo một số bài thơ của Thế Lữ

-Tiếng trúc tuyệt vời

- Tiếng sáo thiên thai

- Bên sông đưa khách

- Cây đàn muôn điệu

* Bài tập: Đọc đoạn thơ sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh lánh máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Trích “ Nhớ rừng ” – Thế Lữ

a. Vì sao nhà thơ Thế Lữ lại mượn lời con hổ sa cơ bị nhốt trong vườn bách thú để làm tiếng nói trữ tình? Những câu nghi vấn trong đoạn thơ trên được dùng để làm gì?

b. Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật điệp ngữ trong đoạn thơ trên?

c. Viết đoạn văn theo lối diễn dịch hoặc quy nạp trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ trên.

Gợi ý

a.

- Lời con hổ sa cơ thích hợp để nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm sự u uất của một lớp người lúc bấy giờ.

- Những câu nghi vấn trong đoạn trích được dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc… của chúa sơn lâm.

b. Tác dụng của biện pháp nghệ thuật điệp ngữ trong đoạn thơ: diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ đối với những cảnh không gian huy hoàng không bao giờ còn thấy nữa.

c,Học sinh cảm nhận được :

- Đoạn thơ là khổ thơ thứ ba trong bài thơ “ Nhớ rừng ” của Thế lữ ( đặt đoạn thơ vào bài thơ, vào thời điểm ra đời của bài thơ để cảm nhận )

- Đoạn thơ viết theo thể thơ 8 chữ, gieo vần liền, vần bằng, vần trắc hoán vị đều đặn, làm cho đoạn thơ rất giàu tính nhạc. Bằng những câu thơ, hình ảnh thơ giàu hình ảnh, rất sáng tạo, gợi cảm, gợi tả, gợi hình, gợi liên tưởng ... đoạn thơ như một bức tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, tráng lệ. Đó là cảnh “ những đêm vàng bên bờ suối ” hết sức diễm ảo với hình ảnh con hổ như một thi sĩ mơ màng “ đứng uống ánh trăng tan ” đầy lãng mạn. Đó là cảnh “ ngày mưa chuyển bốn phương ngàn ” con hổ mang dáng dấp đế vương đang lặng ngắm giang san đổi mới. Cảnh “ bình minh cây xanh nắng gội ” chan hoà ánh sáng rộn rã tiếng chim ca hát bên giấc ngủ của chúa sơn lâm. Và cảnh “ chiều lênh láng máu sau rừng ” thật dữ dội, con hổ đang đợi mặt trời “ chết ” để chiếm lấy riêng phần bí mật ” trong vũ trụ. ở cảnh nào núi rừng cũng mang một vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, và con hổ nổi bật lên với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng của vị chúa tể sơn lâm.

- Những câu hỏi tu từ, những điệp ngữ cứ lặp đi lặp lại cho thấy sự nuối tiếc khôn nguôi. Những cảnh huy hoàng, oai phong lẫm liệt chỉ là của dĩ vãng, hiện ra trong nỗi nhớ da diết đến đau đớn . Sự nuối tiếc ấy gắn liền với tâm trạng tuyệt vọng qua lời than u uất “ Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ”

- Lời than u uất của con hổ bị giam cầm trong cũi sắt khao khát tự do, bất hoà với thực tại, nuối tiếc quá khứ oai hùng cũng chính là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là tâm trạng chung của người Việt Nam lúc bấy giờ. Qua tâm sự của chúa sơn lâm, tác giả đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước.

* Dặn dò


Tìm hiểu tiếp về Vũ Đình Liên và bài thơ" Ông đồ"

* Rút kinh nghiệm:

...................................................................................................................................... Ngày tháng năm

----------------------------------------------------------------------

Ngày soan:

Ngày dạy:

Chuyên đề: Thơ Việt Nam 1900-1945

A. Mục tiêu

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Lịch sử phong trào Thơ Mới:

+ Hoàn cảnh lịch sử phát triển phong trào Thơ mới.

+ Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và Thơ mới.

+ Những thời kì phát triển và suy thoái của phong trào “ Thơ mới”.

-Giới thiệu được tác giả; thuộc lòng các bài thơ vànội dung, nghệ thuật đặc sắc của từng bài được học trong chương trình văn 8 .

Ngoài ra GV cần cung cấp thêm cho HS các bài thơ tiêu biểu khác trong phong trào Thơ mới để HS vận dụng khi làm các đề bài tổng hợp

- Hiểu, cảm nhận được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong những bài thơ của một số nhà yêu nước và tiến bộ và cách mạng Việt Nam 1900-1945.

- Nắm vững hiểu biết về tác giả Tố Hữu và Hồ Chí Minh .

- Nắm vững những hiểu biết về vẻ đẹp tâm hồn và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Biết một số đổi mới về thể loại, đề tài, cảm hứng, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của thơ Việt Nam 1900-1945

2. Kỹ năng

- Rèn kĩ năng cảm thụ văn học.

-Hình thành kĩ năng so sánh đối chiếu trong khi phân tích, cảm nhận thơ.

-Kĩ năng cảm thụ văn chương thông qua ngôn từ và hình ảnh thơ.

- Biết phân tích hiệu quả của những biện pháp nghệ thuật trong việc diễn tả nội dung

- Vận dụng các kiểu văn bản đã học để viết được bài luận văn theo kiểu văn bản Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh, Nghị luận. Vận dụng kết hợp các kiểu văn bản (phương thức biểu đạt) trong một bài văn.

- Vân dụng các kiến thức đã học để giải quyết một yêu cầu nào đó của đề bài.

- Kĩ năng lập ý, sắp xếp ý, kĩ năng xây dựng hệ thống luận điểm, kĩ năng lập luận, trình bày bố cục.

- Kĩ năng viết phần mở bài, kết bài hay, kĩ năng dùng từ ngữ độc đáo gợi cảm, giàu hình ảnh, kĩ năng sử dụng đa dạng các kiểu câu.

- Kỹ năng liên hệ, so sánh, mở rộng trong khi làm bài.

- Kỹ năng cảm thụ một tác phẩm thông qua các ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm

- Kỹ năng xác lập luận điểm , trình bày luận điểm , luận chứng, luận cứ .

- Kỹ năng làm các dạng đề , đặc biệt là đề tổng hợp …

- Cũng như các chủ đề khác GV cần rèn cho HS kỹ năng phân tích , nâng cao , tổng hợp .

3. Các dạng bài:

- Trình bày cảm nhận về những câu thơ đặc sắc băng một đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp. Trong đoạn văn có kết hợp sử dụng các kiến thức Tiếng Việt

- Phân tích hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật trong thơ.

- Thuyết minh về một thể thơ.

- Viết bài nghị luận tổng hợp để làm sáng tỏ những giá trị của các bài thơ mới như: lòng yêu nước thầm kín, sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống; tình yêu quê hương .

- Thuyết minh về tác giả.

- Cảm thụ văn học có lồng ghép so sánh đối chiếu.

- Viết bài nghị luận tổng hợplàm sáng tỏ những phẩm chất đáng quý của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh và Tố Hữu

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập

C. Thời lượng: 6 buổi

C. Tiến trình

VŨ ĐÌNH LIÊN VÀ BÀI THƠ" ÔNG ĐỒ"

Sinh ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu(1913) ở Hà Nội

" Có nhưng nhà thơ không bao giờ có thể làm được một câu thơ. Những người ấy hẳn là những người đáng thương nhất trong thiên hạ. Sao người ta lại thương hại những kẻ bị tình phụ nuôi một giấc mộng ái ân không thành, mà không ai thương lấy những kẻ mang một mối tình thơ u uất chịu để tan tành giấc mộng lớn nhất và quý nhất ở đời: giấc mộng thơ?

Hôm nay trong khi viết quyển sách này, một quyển sách họ sẽ xem như một sự mỉa mai đau đớn, thơ Vũ Đình Liên bỗng nhắc tôi nghĩ đến người xấu số kia.

Tôi có cần phải nói ngay rằng Vũ Đình Liên không phải là một người xấu số? Trong làng Thơ mới, Vũ Đình Liên là một người cũ. Từ khi phong trào Thơ mới ra đời, ta đã tháy thơ Vũ Đình Liên trên các báo. người cũng ca ngợi tình yêu như hầu hết các nhà thơ mới bây giờ. Nhưng hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ nhưng cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ. Ông đồ mỗi năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố " ông chính là cái di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn".

It khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết. Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ hậu. Cái cảnh thương tâm của nền học Nho lúc mạt vận chúng ta vô tình không lưu ý. Trong bọn chúng ta vẫn có một hai người ca tụng đạo Nho và các nhà Nho. Nhưng chế giễu mạt sát không nên, mà ca tụng cũng không được. Phần đông các nhà Nho còn sót lại chỉ đáng thương. Không nghiên cứu, không lý luận Vũ Đình Liên với một tấm lòng dễ cảm nhận đã nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ hợp lý hơn cả đối với các bậc phụ huynh của ta. Bài thơ của người có thể xem là một nghĩa cử.

Theo đuổi một nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với ngời đời. Còn riêng đối với thi nhân thực chưa đủ. Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao điều muốn nói, cần nói mà nghẹn ngào không nói được. "Tôi bao giờ - Lời Vũ Đình Liên - cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa" Vũ Đình Liên đã hạ mình, chúng ta đều thấy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong lời nói của người một nỗi đau lòng kín đáo. Ngời đau lòng thấy ý thơ không thoát được lời thơ như linh hồn bị giam trong nhà tù xác thịt. Có phải vì thế mà hồi 1937, trước khi từ giã thi đàn, người đã gửi lại đôi vần thơ u uất:

Nặng mang mãi khối hình hài ô nhục.

Tâm hồn ta đã nhọc tự lâu rồi.

Bao nhiêu thăm thẳm trên bầu trời;

Bao bóng tối trong lòng ta vẩn đục!

Nghĩ cũng tức! Từ hồi 1935 tả cảnh thu, Vũ Đình Liên viết:

Làn gió heo may xưa hiu hắt,

Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai!

Hai câu thơ cũng sạch sẽ, dễ thương. Nhưng làm sao người ta còn nhớ được Vũ Đình Liên khi người ta đã đọc, bốn năm sau mấy câu thơ Huy Cận cùng một tứ:

Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng?

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng …..

Cũng may những câu thơ hoài cổ của Huy Cận:

Bờ tre rung động trống chầu,

Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan

Đêm mơ lay ánh trăng tàn,

Hồn xa gửi tiếng thời gian, trống dồn.

Những câu thơ tình nhẹ nhàng , tứ xa vắng cha đến nỗi làm ta quên cái lòng hoài cổ ám thầm, u tịch của Vũ Đình Liên:

Lòng ta là những hàng thành quách cũ,

Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.

* Bài thơ: Ông đồ

Những nét chính về nghệ thuật và nội dung:

1. Nghệ thuật:

- Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng , khai thác có hiệu quả nghệ thuật cao

- Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chặt chẽ, có nghệ thuật

- Ngôn ngữ trong sáng, bình dị , đồng thời hàm súc

2. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình qua hai câu thơ:

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Có thể nói đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Hai câu là sự minh họa rất chuẩn cho các khái niệm mượn cảnh ngụ tình và ý tại ngôn ngoại trong thơ trữ tình. Lá vàng rơi vốn đã gợi sự tàn tạ, buồn bã; đây lại là lá vàng rơi trên những tờ giấy dành viết câu đối của ông đồ. Vì ông ế khách, tờ giấy cứ phơi ra đấy hứng lá vàng rơi và ông cũng bỏ mặc...!Ngoài giời mưa bụi bay, câu thơ tả cảnh hay tả lòng người? Chẳng phải mưa to gió lớn, cũng chẳng phải mưa rả rích dầm dề sầu não ghê gớm, chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ, vậy sao mà ảm đạm,mà lạnh lẽo tới buốt giá. Chính là mưa trong lòng người chứ đâu còn là mưa ngoài trơi. Dường như cả trời đât cũng ảm đạm, buồn bã cùng với ông đồ.

3. Tâm tư của tác giả qua bài thơ:

Trong thơ trữ tình, cảm xúc trữ tình mới là nội dung cốt lõi của tác phẩm; nếu có tự sự, miêu tả thì cũng vẫn hướng tới việc bộc lộ cảm xúc, tâm trạng nhà thơ, vẫn đâm sắc thái biểu cảm. Trong bài thơ" Ông đồ", qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết câu đối ngày Tết, có thể thấy rõ tâm tư tình cảm của nhà thơ. Tâm tư ấy biểu lộ kín đáo qua những chi tiết miêu tả, có khi được nhà thơ trực tiếp phát biểu( như hai câu kết) có khi chỉ toát ra qua giọng điệu ngậm ngùi của bài thơ. Đó là niềm cảm thương chân thành đối với tình cảnh những ông đồ đang tàn tạ trước sự đổi thay của cuộc đời; đồng thời đó còn là niềm nhớ nhung, luyến tiếc những cảnh cũ, người xưa nay đã vắng bóng. Sự cảm thương chân thành trước những số phận bị bất hạnh thì rõ ràng là tình cảm nhân đạo đáng quý, nhưng hoài cổ( nhớ tiếc cái cũ) cũng không thể chỉ coi là tiêu cực. Đặc biệt, ở bài thơ này, cái xưa cũ không còn nữa mà nhà thơ ngậm ngùi nhớ tiếc đó đã từng gắn bó thân thiết, dường như không thể thiếu đối với đời sống Việt Nam hàng trăm năm, lại mang một vẻ đẹp văn hóa và gắn với những giá trị tinh thần truyền thống, thì niềm hoài cổ đó có một ý nghĩa nhân văn và thể hiện một tình thần dân tộc đáng trân trọng

TẾ HANH VÀ BÀI THƠ QUÊ HƯƠNG

Vào bài: Tế Hanh là nhà thơ có mặt trong phong trào Thơ Mới chặng cuối. Thơ Tế Hanh là một hồn thơ lãng mạn. Tế Hanh được biết đến nhiều nhất như một nhà thơ của quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương. Cái làng chài ven biển có dòng sông bao quanh, nơi Tế Hanh được sinh ra, luôn đau đáu trong nỗi nhớ thương của Tế Hanh, gợi những nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ông, giúp ông viết nên những vần thơ hay nhất, đẹp nhất. Quê hương là một trong những vần thơ như vậy.


I. Tìm hiểu chung 
- Tế Hanh sinh năm 1921, quê Quảng Ngãi.
- Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương.
- Bài thơ Quê hương được in trong tập Hoa niên 1945.
II. Phân tích
1. Tám câu thơ đầu: Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá.
- Đoàn thuyền ra khơi trong một buổi bình minh đẹp, khoáng đạt: bầu trời cao rộng, trong trẻo được điểm bởi những tia nắng hồng rực rỡ. Chỉ một câu thơ: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, tác giả đã vẽ được một không gian rộng lớn, vô tận. 
- Nổi bật giữa không gian êm ả ấy, đoàn thuyền băng mình ra khơi với khí thế dũng mãnh của một con tuấn mã. Hình ảnh so sánh và một loạt các động từ mạnh đã làm toát lên sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp hùng tráng, bất ngờ của những con người lao động.
- Hình ảnh cánh buồm căng gió vốn mang một vẻ đẹp lãng mạn, có thể quan sát được, bất ngờ được so sánh với hồn làng là những gì lớn lao, thiêng liêng, phi vật thể. Sự so sánh này không làm cho cánh buồm được miêu tả cụ thể hơn nhưng nó đã gợi nên một vẻ đẹp mới, lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng, vừa hùng tráng. Biểu hiện linh hồn làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng no gió biển khơi là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh.
- Với âm điệu mạnh mẽ, sôi nổi, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, tám câu thơ đầu vừa vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, vừa khắc hoạ đậm nét bức tranh lao động khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân nơi biển cả.
2. Tám câu thơ tiếp theo: Cảnh thuyền cá về bến.
- Cảnh dân chài đón thuyền cá về bến cũng là một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống.
- Bốn câu thơ miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra khơi là những câu thơ đặc sắc nhất, tinh tế nhất của bài Quê hương. Hình ảnh người dân chài vừa nổi bật với vẻ đẹp ngoại hình rắn rỏi, vạm vỡ: "làn ra ngăm rám nắng", vừa gợi mở vẻ đẹp của một tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, mặn mà - vẻ đẹp của biển cả. Đó là một vẻ đẹp vừa chân thực vừa lãng mạn. Hai câu thơ vừa tả thực vừa gợi cho người đọc những liên tưởng sâu xa, thú vị.
- Hai câu thơ tả chiếc thuyền nghỉ ngơi trên bến cũng là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh. Tác giả không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận thấy "sự mệt mỏi say sưa" của con thuyền. Con thuyền vô tri đã trở thành một tâm hồn tinh tế không kém chủ nhân của nó. Sau bao ngày tháng lênh đênh, miệt mài trên biển, giờ đây, nó đang nằm và lắng nghe chất muối mặn mòi của biển thấm dần vào từng thớ vỏ, như một người lao động đang nằm và ngẫm nghĩ lại cả chặng đường vất vả, những giọt mồ hôi mà mình đã đổ xuống để có được thành quả lao động như ngày hôm nay. 
- Trong cách miêu tả của Tế Hanh, ta thấy có sự gắn bó làm một giữa thiên nhiên cuộc sống với tâm hồn con người nơi đây. Và dù tác giả không biểu lộ trực tiếp tình cảm của mình nhưng trong cách miêu tả của ông, người đọc cảm nhận được sợi dây tình cảm thiêng liêng sâu nặng nối liền tâm hồn ông với thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi đây. Không phải là một người con yêu dấu của quê hương, không yêu quê hương bằng tình yêu máu thịt và không có sự tinh tế tài hoa của một nhà nghệ sĩ thì không thể viết được những câu thơ sâu xa, xúc động như vậy.
3. Khổ thơ cuối: Tình cảm nhớ thương quê hương của tác giả.
- Quê hương được viết trong xa cách, trong niềm thương nhớ khôn nguôi của tác giả. Nỗi nhớ được nói lên một cách giản dị, tự nhiên, chân thành mà sâu sắc. Tế Hanh nhớ tất cả, từ màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi... rồi cuối cùng hội tụ lại ở cái mùi nồng mặn. Cái mùi nồng mặn, trong tâm tưởng nhà thơ, chính là hồn thơm, hồn thiêng của quê hương. Những tưởng không có cách nào diễn tả tình yêu và nỗi nhớ quê giản dị mà sâu sắc, xúc động hơn nữa vậy.
4. Vài nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Tuy phần lớn số câu thơ là câu miêu tả, song toàn bộ hình ảnh miêu tả đó đều nằm trong dòng tưởng nhớ, trong tình yêu quê hương da diết của chủ thể trữ tình. Vì vậy, miêu tả chỉ là một yếu tố phục vụ cho biểu cảm. Hơn nữa, tình cảm của một người con xa quê, nhớ quê luôn đầy ắp sau mỗi câu chữ, hình ảnh; thổi linh hồn vào từng câu chữ, hình ảnh làm cho bức tranh quê hương mang một vẻ đẹp lớn lao, bất ngờ và đầy lãng mạn.
- Nét nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ Quê hương là ở sự sáng tạo hình ảnh thơ. Bài thơ khá phong phú hình ảnh. Các hình ảnh ở đây vừa chân xác, cụ thể, vừa độc đáo, bay bổng, lãng mạn, có khả năng gợi ra những trường liên tưởng phong phú ở người đọc.
III. Tổng kết
- Nội dung: Quê hương đã khắc hoạ được bức tranh tươi sáng, khoẻ khoắn, đầy sức sống về cuộc sống lao động của một làng quê miền biển, qua đó thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của tác giả.
- Nghệ thuật: Bài thơ bình dị, giọng thơ mộc mạc, chân thành, hình ảnh thơ giàu tính sáng tạo và gợi cảm.

* Dặn dò : Tìm hiểu tiếp các bài trong chuyên đề

* Rút kinh nghiệm;

.....................................................................................................................................


Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

Chuyên đề: Thơ Việt Nam 1900-1945

A. Mục tiêu

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Lịch sử phong trào Thơ Mới:

+ Hoàn cảnh lịch sử phát triển phong trào Thơ mới.

+ Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và Thơ mới.

+ Những thời kì phát triển và suy thoái của phong trào “ Thơ mới”.

-Giới thiệu được tác giả; thuộc lòng các bài thơ vànội dung, nghệ thuật đặc sắc của từng bài được học trong chương trình văn 8 .

Ngoài ra GV cần cung cấp thêm cho HS các bài thơ tiêu biểu khác trong phong trào Thơ mới để HS vận dụng khi làm các đề bài tổng hợp

- Hiểu, cảm nhận được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong những bài thơ của một số nhà yêu nước và tiến bộ và cách mạng Việt Nam 1900-1945.

- Nắm vững hiểu biết về tác giả Tố Hữu và Hồ Chí Minh .

- Nắm vững những hiểu biết về vẻ đẹp tâm hồn và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ.

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Biết một số đổi mới về thể loại, đề tài, cảm hứng, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của thơ Việt Nam 1900-1945

2. Kỹ năng

- Rèn kĩ năng cảm thụ văn học.

-Hình thành kĩ năng so sánh đối chiếu trong khi phân tích, cảm nhận thơ.

-Kĩ năng cảm thụ văn chương thông qua ngôn từ và hình ảnh thơ.

- Biết phân tích hiệu quả của những biện pháp nghệ thuật trong việc diễn tả nội dung

- Vận dụng các kiểu văn bản đã học để viết được bài luận văn theo kiểu văn bản Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh, Nghị luận. Vận dụng kết hợp các kiểu văn bản (phương thức biểu đạt) trong một bài văn.

- Vân dụng các kiến thức đã học để giải quyết một yêu cầu nào đó của đề bài.

- Kĩ năng lập ý, sắp xếp ý, kĩ năng xây dựng hệ thống luận điểm, kĩ năng lập luận, trình bày bố cục.

- Kĩ năng viết phần mở bài, kết bài hay, kĩ năng dùng từ ngữ độc đáo gợi cảm, giàu hình ảnh, kĩ năng sử dụng đa dạng các kiểu câu.

- Kỹ năng liên hệ, so sánh, mở rộng trong khi làm bài.

- Kỹ năng cảm thụ một tác phẩm thông qua các ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm

- Kỹ năng xác lập luận điểm , trình bày luận điểm , luận chứng, luận cứ .

- Kỹ năng làm các dạng đề , đặc biệt là đề tổng hợp …

- Cũng như các chủ đề khác GV cần rèn cho HS kỹ năng phân tích , nâng cao , tổng hợp .

3. Các dạng bài:

- Trình bày cảm nhận về những câu thơ đặc sắc băng một đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp. Trong đoạn văn có kết hợp sử dụng các kiến thức Tiếng Việt

- Phân tích hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật trong thơ.

- Thuyết minh về một thể thơ.

- Viết bài nghị luận tổng hợp để làm sáng tỏ những giá trị của các bài thơ mới như: lòng yêu nước thầm kín, sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống; tình yêu quê hương .

- Thuyết minh về tác giả.

- Cảm thụ văn học có lồng ghép so sánh đối chiếu.

- Viết bài nghị luận tổng hợplàm sáng tỏ những phẩm chất đáng quý của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh và Tố Hữu

B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập

C. Thời lượng: 6 buổi

C. Tiến trình
Câu 1: Hai câu thơ dưới đây, tác giả đều sử dụng biện pháp so sánh:

- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã.

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng.

Em thấy hai cách so sánh trên có gì khác nhau? Mỗi cách có hiệu quả nghệ thuật riêng như thế nào?

Câu 2:

Trình bày cảm nhận của em về khổ thơ sau (bằng một đoạn văn ngắn):

Ông đồ vẫn ngồi đấy


Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.”

(Ông đồ, Vũ Đình Liên - Sách giáo khoa Ngữ văn 8 - Tập II)

Câu 3: Trong chương trình ngữ văn 8 có hai bài thơ được viết theo kiểu đầu cuối tương ứng. Em hãy nêu tên tác giả của hai bài thơ ấy?

Câu 4Cho đoạn thơ sau:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

  1. Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên?
  2. Suy nghĩ của em về hình ảnh những ngư dân đang ngày đêm bám biển hiện nay?
Đáp án:

Câu 1:


  • Hai câu thơ trên tác giả đều dùng biện pháp so sánh. Tuy nhiên mỗi câu lại có hiệu quả nghệ thuật riêng:
  • So sánh con thuyền ra khơi “hăng như con tuấn mã” tức là con thuyền chạy nhanh như con ngựa đẹp và khỏe (tuấn mã) đang phi, tác giả so sánh cái cụ thể, hữu hình này với cái cụ thể hữu hình khác. Sự so sánh này làm nổi bật vẻ đẹp, sự mạnh mẽ của con thuyền ra khơi.
  • So sánh “Cánh buồm với mảnh hồn làng” tức là so sánh một vật cụ thể hữu hình, quen thuộc với một cái trừu tượng vô hình có ý nghĩa thiêng liêng. Cách so sánh này làm cho hình ảnh cánh buồm chẳng những trở nên cụ thể sống động mà còn có vẻ đẹp lớn lao, trang trọng, thiêng liêng. Cánh buồm no gió ra khơi trở thành biểu tượng rất phù hợp và đầy ý nghĩa của làng chài.

Câu 2:Cảm nhận về khổ thơ:
  • Về kỹ năng: HS viết đúng dạng một đoạn văn ngắn, lập luận chặt chẽ, lời văn trong sáng, không mắc lỗi chính tả.
  • Về kiến thức: Nêu được các ý sau
    • Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên miêu tả tâm trạng ông đồ thời suy tàn.
    • Bằng các biện pháp nghệ thuật đối lập, tả cảnh ngụ tình để thể hiện niềm cảm thương trước hình ảnh ông đồ lạc lõng, trơ trọi “vẫn ngồi đấy” như bất động, lẻ loi và cô đơn khi người qua đường thờ ơ vô tình không ai nhận thấy hoặc đoái hoài tới sự tồn tại của ông.
    • Qua hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, hiểu được nỗi buồn của con người thấm sâu vào cảnh vật. Hình ảnh “lá vàng, mưa bụi” giàu giá trị tạo hình vẽ nên một bức tranh xuân lặng lẽ, âm thầm, tàn tạ với gam màu nhạt nhòa, xám xịt.
    • Khổ thơ cực tả cái cảnh thê lương của nghề viết và sự ám ảnh ngày tàn của nền nho học đồng thời thể hiện sự đồng cảm xót thương của nhà thơ trước số phận những nhà nho và một nền văn hóa bị lãng quên.

Câu 4:

A. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ trên là: nhân hóa, ẩn dụ

B. Đọc đoạn thơ trên , em thấy hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc phi thường. Em lại liên tưởng tới những con người vùng biển đảo thiêng liêng của tồ quốc hiện nay. Họ ngày đêm bám biển vừa làm giàu cho quê hương vừa khẳng định chủ quyền của dân tộc . Họ phải chịu đựng bao gian lao , nguy hiểm nhưng họ sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách. Ta khâm phục, tự hào về họ. Hiện nay , một số vùng biển của đất nước ta bị giặc ngoại xâm, là công dân Việt Nam mỗi người hãy chung tay góp sức giúp đỡ những người dân vùng biển để một phần nào đó động viên , tiếp thêm sức mạnh cả vật chất lẫn tinh thần cho những người con của biển khơi………

* Dặn dò: Ôn tập

*Rút kinh nghiệm:
Ngày tháng năm

---------------------------------------------------------------------

Ngày soạn:

Ngày dạy:

CHUYÊN ĐỀ: HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP


I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:

1. Kiểu câu.



KC

Khái niệm
1.
Câu nghi vấn

* Câu nghi vấn là câu:

- Có những từ nghi vấn (ai, gì, nào, sao, tại sao...) hoặc có từ hay ( nối các vế có quan hệ lựa chọn).

- Có chức năng chính là dùng để hỏi.

* Khi viết câu nghi vấn kết thúc bằng dấu chấm hỏi.

*Trong nhiều trường hợp câu nghi vấn không dùng để hỏi mà để cầu khiến, khẳng định, phủ định, đe dọa, bộc lộ tình cảm, cảm xúc... và không yêu cầu người đối thoại trả lời

2.
Câu cầu khiến

* Câu cầu khiến là câu có những từ cầu khiến như : hãy, đừng, chớ, đi, thôi, nào,... hay ngữ điệu cầu khiến; dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo...

* Khi viết câu cầu khiến thường kết thúc bằng dấu chấm than, nhưng khi ý cầu khiến không được nhấn mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm.


3.
Câu cảm thán

* Là câu có những từ cảm thán như: ôi, than ôi, hỡi ơi...dùng để bộc lộ trực tiếp cảm xúc của người nói hoặc người viết, xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ nói hàng ngày hay ngôn ngữ văn chương.

- Khi viết câu cảm thán thường kết thúc bằng dấu chấm than.


4.
Câu trần thuật

* Câu trần thuật không có đặc điểm hình thức của các kiểu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thán; thường dùng để kể, thông báo, nhận đinh, miêu tả,..

- Ngoài những chức năng trên đây câu trần thuật còn dùng để yêu cầu, đề nghị hay bộc lộ tình cảm, cảm xúc...( vốn là chức năng chính của những kiểu câu khác).

* Khi viết câu trần thuật thường kết thúc bằng dấu chấm, nhưng đôi khi nó có thể kết thúc bằng dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng.

* Đây là kiểu câu cơ bản và được dùng phổ biến trong giao tiếp.


5.
Câu phủ định

* Câu phủ định là câu có những từ ngữ phủ định như: không, chưa, chẳng, đâu.....

*Câu phủ định dùng để :

- Thông báo, xác nhận không có sự vật, sự việc, tính chất, quan hệ nào đó (Câu phủ định miêu tả)

- Phản bác một ý kiến, một nhận định.(Câu phủ định bác bỏ).



2. Hành động nói

* Hành động nói là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm những mục đích nhất định.

* Những kiểu hành động nói thường gặp là :

- Hành động hỏi ( Bạn làm gì vậy ? )

- Hành động trình bày( báo tin, kể, tả, nêu ý kiến, dự đoán..) ( Ngày mai trời sẽ mưa )

- Hành động điều khiển ( cầu khiến, đe dọa, thách thức,...) ( Bạn giúp tôi trực nhật nhé )

- Hành động hứa hẹn .( Tôi xin hứa sẽ không đi học muộn nữa )

- Hành động bộc lộ cảm xúc. ( Tôi sợ bị thi trượt học kì này )

* Mỗi hành động nói có thể được thực hiện bằng kiểu câu có chức năng chính phù hợp với hành động đó ( cách dùng trực tiếp) hoặc bằng kiểu câu khác ( cách dùng gián tiếp)

3. Hội thoại.

*Vai hội thoại là vị trí của người tham gia hội thoại đối với người khác trong cuộc thoại . Vai xã hội được xác định bằng các quan hệ xã hội:

- Quan hệ trên- dưới hay ngang hàng ( theo tuổi tác, thứ bậc trong gia đình và xã hội) .

- Quan hệ thân-sơ ( theo mức độ quen biết, thân tình)

* Trong hội thoại ai cũng được nói. Mỗi lần có một người tham gia hội thoại nói được gọi là một lượt lời .

* Để giữ lịch sự cần tôn trọng lượt lời của người khác, tránh nói tranh lượt lời, cắt lời hoặc tranh vào lời người khác.

* Nhiều khi, im lặng khi đến lượt lời của mình cũng là một cách biểu thị thái độ.

4. Lựa chọn trật tự từ trong câu.

* Trong một câu có thể có nhiều cách sắp xếp trật tự , mỗi cách đem lại hiệu quả diễn đạt riêng. Người nói,viết cần biết lựa chọn trật tự từ thích hợp với yêu cầu giao tiếp.

* Trật tự từ trong câu có tác dụng :

- Thể hiện thứ tự nhất định của sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm.

- Nhấn mạnh hình ảnh, đặc điểm của sự vật, hiện tượng.

- Liên kết câu với những câu khác trong văn bản.

- Đảm bảo sự hài hòa về mặt ngữ âm của lời nói.

II/ BÀI TẬP:

. Bài 1 : Câu nghi vấn .

a. Hồn ở đâu bây giờ? -> Dùng để bộc lộ thái độ bộc lộ tình cảm hoài niệm, tâm trạng nuối tiếc

b. Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? ->. Dùng với hàm ý đe dọa

c. Có biết không?...lính đâu? Sao bay dám để cho nó xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? -> hàm ý đe dọa

D. Một người hàng ngày chỉ lo lắng vì mình… há chẳng phải…của văn chương. - >. Dùng để khẳng định.

e. Con gái tôi vẽ đấy ư? ->e. Dùng để cảm thán, bộc lộ sự ngạc nhiên.

Bài 2:

a. Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để kiếm ăn ư? ->Tác dụng: Bộc lộ cảm xúc thái độ ngạc nhiên.

b. Trợ từ than ôi và các câu còn lại đều là câu nghi vấn. ->Tác dụng : Phủ định cảm xúc nuối tiếc.

cSao ta không ngắm sự biệt li theo tâm hồn một chiếc lá nhẹ nhàng rơi?->Tác dụng: Bộc lộ cảm xúc,thể hiện sự phủ định.

Ôi nếu thế thì đâu là quả bóng bay.->Tác dụng: Bộc lộ cảm xúc, thể hiện sự phủ định

BÀI 3: Sao cụ lo xa quá thế? b - Tội gì bây giờ nhịn đói mà để tiền để lại? c- Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu

Nó thể hiện trên văn bản bản bằng dấu chấm hỏi và bằng các từ nghi vấn ( Sao gì)-> Cả 3 đều mang ý nghĩa phủ định

c. Thay đổi CN : (Các anh) ý nghĩa bị thay đổi chúng ta bao gồm cả người nói và người nghe,

các anh chỉ có người nghe.

*Bài tập 3: a. Thôi….đi ->Từ cầu khiến: đi - Vắng CN

b. Các em đừng khóc. -> Từ cầu khiến - CN ngôi thứ 2 số nhiều

c. Đưa tay cho tôimau! cầm lấy tay tôi này ! -> Ngữ điệu cầu khiến: Vắng CN

Tình huống cấp bách đòi hỏi nhanh ngắn gọn - Vắng CN

*Bài tập 5: a.Hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.

b.Thầy em hãy cố ngồi dậy..

-Giống:Câu cầu khiến vcó từ cầu khiến Hãy

-Khác: a.Vắng Cn có từ cầu khiến, ngữ điệu cầu khiến mang tính chất ra lệnh

b. có CN ý nghĩa động viên khích

Bài 6: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

“ Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tí bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ: (1)

- Này, u ăn đi ! (2) Để mãi !(3) U có ăn đi thì con mới ăn.(4) U không ăn con cũng không muốn ăn nữa. (5)

Nể con, chị Dậu cầm lấy 1 củ, rồi chị lại đặt xuống chõng. (6)

Vẻ nghi ngài hiện ra sắc mặt, con bé hóm hỉnh hỏi mẹ một cách thiết tha. (7)

- Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không ?(8)- Chị Dậu khẽ gạt nước mắt: (9)

- Không đau con ạ !(10)

(Trích”Tắt đèn”-Ngô Tất Tố)

a, Xác định các kiểu câu chia theo mục đích nói và các hành động nói( từ câu 1-5)trong đoạn văn trên.

b, Hãy xác định vai xã hội của các nhân vật tham gia hội thoại trong đoạn trích trên và cho biết mỗi nhân vật nói bao nhiêu lượt ?

Bài 7: Hãy chuyển những câu sau thành câu trần thuật mà mục đích trực tiếp của mỗi câu về cơ bản vẫn giữ được.

a/ Anh uống nước đi!

b/ Tại sao em nghỉ học?

Bài 8: a/ Em hãy nêu các tác dụng của sự sắp xếp trật tự từ trong câu.

b/ Phân tích tác dụng của sự sắp xếp trật tự từ trong những câu in đậm sau:

Ta bước chân lên, dõng dạc đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”

(Nhớ rừng – Thế Lữ)
* Dặn dò: Ôn tập

*Rút kinh nghiệm:……………………………………………………………………………………..

Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:

CHUYÊN ĐỀ: VĂN BẢN NGHỊ LUẬN

Văn bản: CHIẾU DỜI ĐÔ

Lí Công Uẩn

Lý Công Uẩn (974-1028) quê ở Kinh Bắc, là võ tướng cao cấp của Lê Đại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Ông là người tài trí, đức độ, kín đáo, nhiều uy vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, ông được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, tức Lý Thái Tổ dựng nên triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009-1225).

Năm 1010, Lý Thái Tổ viết “Thiên đô chiếu ” dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, sau đổi là Thăng Long, Kinh đô của Đại Việt.

"Chiếu là lời của vua ban bố hiệu lệnh cho thần dân” (Dương Quảng Hàm), thuộc văn xuôi cổ, câu văn có vế đối, ngôn từ trang nghiêm, trang trọng. “Chiêu dời đô” của Lý Công Uẩn là một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử to lớn. sắp đến đại lể ki niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (1010-2010), ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử trọng đại của luận văn này.

Văn bản chữ Hán chỉ có 214 chữ, bản dịch của Nguyễn Đức Vân dài 360 chữ:

Phần đầu ‘Chiếu dời dô” nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô là để “Đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân'. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc, thái bình cho nhân dân.

Việc dời đô không còn là chuyện hi hữu, mà đó là những kinh nghiệm lịch sử, phản ánh xu thế phát triển lịch sử của từng quốc gia, từng thời đại. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng lịch sử đế thu phục nhân tâm. Chuyện ở xa là chuyện bên Tàu: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đố; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Chuyện gần là ở nước ta thời nhà Đinh, nhà Lê vì chỉ “ theo ý riêng mình, khinh thường, mệnh trời… ”, cứ “đóng yên đô thành” ở Hoa Lư nên dẫn đến thảm kịch: “triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi”… Sử sách cho biết, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp tan 12 sứ quân, năm 968 ông lên ngôi hoàng đế thì đến năm 979 nhà vua bị ám hại. Năm 981, Lê Hoàn lên làm vua, tuy đã đánh thắng giặc Tống xâm lược, nhưng năm 1005, Lê Đại Hành băng hà, thì các thế lực phong kiến, các hoàng tử… lại xung đột, tranh giành ngôi báu, loạn lạc kéo dài “trăm họ phải hao tổn” nhiều xương máu, tiền của. Cái chết của vua Lê Ngọa Triều năm 1009 đã chứng tỏ hai triều đại Đinh, Lê "không được lâu bền, số vận ngắn ngủi”. Hai triều đại Đinh, Lê phải đóng đô là do nhiều nguyên nhân lịch sử: nhà nước phong kiến Việt Nam chưa đủ mạnh, nạn cát cứ của các lãnh chúa hoành hành, giặc giã loạn lạc kéo dài. Do đó, các vua nhà Đinh, nhà Lê phải nuôi hổ báo ở trong nhà, phải nấu vạc dầu ở ngoài sân, dựa vào sông sâu núi cao, địa thế hiểm trở vùng Hoa Lư để đóng đô và phòng thủ. Đóng đô ở Hoa Lư là một hạn chế của lịch sử của nhà Đinh, nhà Lê.

Lý Công Uẩn “đau xót” khi nghĩ về "vận số ngắn ngủi” của nhà Đinh, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc cấp thiết "không thể không dời đô”.

“Chiếu dời đô ” trong phần mở đầu, lí lẽ sắc bén, dản chứng lịch sử là sự thật hiển nhiên, giàu sức thuyết phục lòng người. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên bao ấn tượng đẹp: "Trẫm rất đau xót vé việc đó, không thể không dời đổi

Cuốn “Lịch sử Việt Nam " của Viện Sử học đã viết:

“Việc dời dô vê Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền và chứng tó khả năng, lòng tin và quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập ”…

Đại La rất thuận lợi, rất đẹp để đóng đô.

Đại La không có gì xa lạ, là “Kinh đô cũ của Cao Vương”. Cao Vương là Cao Biền, đại quan của nhà Đường, từng làm Đô hộ sứ Giao Châu từ 864-875; năm 866, Cao Biền đã xây thành Đại La, thuộc Hà Nội ngày nay. Đại La rất thuận tiện.

Về vị trí địa lí là “ở vào nơi trung tâm trời đất… đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Về địa thế, rất đẹp, rất hùng vĩ: "được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, "lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng".

Là một vùng đất cư trú lí tưởng cho dân cư, không “ngập lụt ”, “muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.

Tóm lại, Đại La là “thắng địa”, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước". Đại La xứng đáng là  “Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Phần thứ hai của “Chiếu dời dô” cho thấy tầm nhìn chiến lược của Lý Công Uẩn về Đại La, nơi sẽ dời đô đến. Một cái nhìn toàn diện, sâu sắc, chính xác về các mặt vị trí địa lí, địa thế, nhân văn… Sau một nghìn năm, Hà Nội đã trở thành thủ đô hòa bình của đất nước ta, nhân dân ta, ta càng thấy việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La của Lý Công Uẩn là một cống hiến vô cùng vĩ đại "mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”.

Sử sách còn ghi lại: khi thuyền rồng của nhà vua vừa cập bến sông Nhị Hà ở chân thành Đại La thì có con rồng vàng bay lên, vua cho là điềm tốt mới đổi tên là Thăng Long. Thăng Long là "Rồng bay lên” thể hiện thế nước và phản ánh khát vọng của nhân dân ta xây dựng Đại Việt thành một quốc gia cường thịnh có nền văn hiến muôn đời rực rỡ. Ý chí tự lập tự cường và niềm tin về ngày mai tốt đẹp được khẳng định một cách mạnh mẽ.

Về mặt văn chương, phần thứ hai “Chiếu dời đô” rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm, những vế đối rất chính, đọc lên nghe rất thú vị, mặc dù phải qua bản dịch:

"Huống gì thành Đại La… ở vào nơi trung tâm trời đất //; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc tây đông// , lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt //; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi… Thật là chôn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước //; cũng là nơi Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời .”

Phần cuối nguyên tắc ‘Thiên đô chiếu” chỉ có 14 chữ, bản dịch thành 19 chữ. Nhà vua bày tỏ ý mình về việc dời đô và hỏi quần thần. Đúng Lý Công Uẩn là một người "tài trí, đức độ, kín dáo".

“Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất này để định chỗ ở. Các khanh  nghĩ thế nào ? "

Việc dời đô của Lý Công Uẩn là một kì tích, kì công. Sau gần một ngàn năm Thăng Long – Hà Nội “đất văn vật" đã trở thành thú đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung tâm chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa của đất nước ta.

“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ dẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

HỊCH TƯỚNG SĨ

Trần Quốc Tuấn


Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ng nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là 1 người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 9


Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc văn võ toàn tài.Tên tuổi ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng bất tử.

Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần cử giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Nguyên- Mông.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A.

Đông – A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần(1226-1400), hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông , thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc.Hào khí Đông-A tỏa sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh giặc Nguyên – Mông.

Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh… đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ.

Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đông- A. Nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng. Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và căm ghét tận xương tủy, phải tiêu diệt!

Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với luc giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt:

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời hào khí Đông-A.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đông- A. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa, …, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(…) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon,mê tiếng hát,… thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa:

Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tong ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng vị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận.

Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục, phải biết thẹn khi thấy nước nhục, phải biết tức khi thấy nước nhục, phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến ngụy sứ!

Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rũa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyrts chiến quyết thắng, là vinh quang.

Hịch tướng sĩ sáng ngời hào khí Đông-A, nó có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,…, Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông-A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chems đầu thần trước đã! Là tư thế lẫm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: phá cường địch, báo hoàng ân. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ- tử chi binh trăm trận trăm thắng: “ Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng khí át sao ngưu.” (Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)

Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm lớn nhất, tráng lệ nhất,biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Qua bài hịch, ta càng thêm ngưỡng mộ và biết ơn vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ, còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam. .

NƯỚC ĐẠI VIỆT TA

(trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi)

Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.

Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.

Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi.
Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân 


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam củng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn xưng đế một phương, Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc.

Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư 

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư  Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm 

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.

Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.

Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chi là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.

Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc dược ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong  Cửa Hàm Tử bát sống Toa Đồ,

 Sồng Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.

Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.

BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC

Nguyễn Thiếp

‘Bàn luận về phép học’là đoạn trích từ bài tấu (là lời của thần dân tâu với vua đế trình bày sự việc, ý kiến) của Nguyễn Thiếp gửi lên vua Quang Trung. Lúc đó Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng viện Sùng Chính phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng, một công việc vô cùng to lớn và nặng nề.

Nhìn một cách khái quát, bài ‘tấu’ này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối với việc chấn hưng nền quốc học, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Mở đầu bài tấu tác giả dùng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng tính thuyết phục. ‘Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rỗ đạo’, ởđây khái niệm ‘học’ được giải thích bằng hình ảnh cụ thể nên rất dễ hiểu. Khái niệm ‘đạo’ vốn rất trừu tượng cũng được giải thích ngắn gọn, rõ ràng; ‘đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người’.

Như vậy mục đích chân chính của việc học là học để làm người.

Sau khi đã xác định mục đích của việc học tác giả soi vào thực tế để phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong việc học. Tác giả chỉ ra mấy hiện tượng:

Ông phê phán lối học chuộng hình thức, học thuộc lòng từng câu chữ mà không hiểu nội dung. Kiểu học này cốt học để cầu danh lợi, học để có danh tiếng, được trọng vọng, được nhàn nhã, được nhiều lợi lộc.

Tác giả của lối học này làm cho ‘chúa trọng nịnh thần’, người trên, kẻ dưới đều thích sự chạy chọt, luồn cúi, không có thực chất dẫn đến cảnh ‘mất nước nhà tan’.

Tác giả đề cập đến yêu cầu và phương pháp học tập:

+Việc học cần phổ biến rộng khắp, mở thêm trường, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học.

+Việc học phải bắt đầu từ kiến thức cơ bản, tuần tự từ thấp đến cao.

+Học rộng nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất.

+Học phải biết kết hợp với hành. Học không phải chỉ để biết mà còn để làm.

ở đây ta thấy La Sơn Phu Tử đã quan niệm rất đúng đắn về yêu cầu và phương pháp học. Nhung khi đề cập đến nội dung học cái gì thì tác giả cho hay:

Nhất định theo Chu Tử (một học giả thời Nam Tống - Trung Quốc). ‘Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử... Điều này cho thấy nội dung học mà tác giả chỉ ra không có gì mới mẻ. Ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử, của thời đại cho nên vẫn còn tôn thờ sách Tàu đã có mấy nghìn năm... và chưa hướng tới khoa học.

Phần cuối Nguyễn Thiếp giãi bày lòng mình, ta thấy bài tấu bàn về phép học là lòng chân thật, chứ không nói vu vơ cho qua chuyện.

Thiệt tâm của tiên sinh đối với dân với nước, đối với sự nghiệp giáo dục đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng.

* Dặn dò: Ôn tập

*Rút kinh nghiệm:

Ngày tháng năm

-----------------------------------------------------------------------------------

Ngày soạn:

Ngày dạy:

CHUYÊN ĐỀ: VĂN NGHỊ LUẬN


I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:

A/ Phân biệt các dạng của Nghị luận xã hội

1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí: Là một dạng đề của Nghị luận xã hội. Đề tài được đưa ra trong đề là những vấn đề về tư tưởng ( lí tưởng, mục đích sống tích cực hoặc tiêu cực của cá nhân hoặc tập thể), đạo lí ( những chuẩn mực luân lí, đạo đức của dân tộc ). Các vấn đề tiêu biểu thường gặp là : – Nhận thức : Lí tưởng, mục đích sống. – Tâm hồn, tích cách, đức tính : Lòng yêu nước, lòng biết ơn, lòng nhân ái; tính trung thực, tính dũng cảm, chăm chỉ cần cù; thái độ hòa nhã, khiêm tốn,; thói ba hoa, ích kỉ, vụ lợi,… – Quan hệ gia đình : Tình mẫu tử, tình anh em. – Quan hệ xã hội : Tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn.

– Cách ứng xử của mọi người trong cuộc sống: văn hóa giao thông, ý thức vệ sinh môi trường, giữ trật tự nơi công cộng….

2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống

Nghị luận về một hiện tượng đời sống: Là một dạng đề của Nghị luận xã hội. Đề tài đưa ra trong đề là những vấn đề về một hiện tượng thường xảy ra, thường gặp trong đời sống và lấy hiện tượng đó để bàn bạc.

Các đề tài để bàn bạc gần gũi với đời sống và sát hợp trình độ nhận biết xã hội của học sinh như: Tấm gương người tốt việc tốt, thói hư tật xấu, tai nạn giao thông, hiện tượng ô nhiễm môi trường, hiện tượng suy thoái đạo đức, nhân cách, các tệ nạn xã hội, những tiêu cực trong thi cử …

3. Nghị luận về một vấn đề xã hội được phản ánh trong văn học

Nghị luận về một vấn đề xã hội được phản ánh trong văn học: Là dạng đề của Nghị luận xã hội. Đề tài đưa ra trong đề là những vấn đề về lí tưởng sống ( qua nhân vật anh hùng ), vấn đề về số phận con người (qua nhân vật bất hạnh ), vấn đề về đạo đức, nhân cách, nhân phẩm ( nhân vật mang tính cách điển hình )…được phản ánh trong tác phẩm văn học.

Ở dạng đề này, là sự tích hợp giữa nghị luận đạo lí tư tưởng và nghị luận đời sống xã hội.

B. Một vài định hướng về phương pháp

1. Kiểu bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí: a. Các dạng đề thường gặp: – Dạng mệnh lệnh ( thường có các mệnh lệnh bắt đầu với lệnh từ “ hãy”: suy nghĩ, bình luận, giải thích, chứng minh, bác bỏ…) – Dạng đề mở, không có mệnh lệnh ( thường chỉ cung cấp một câu tục ngữ, một khái niệm mang tư tưởng, đòi hỏi người làm bài phải suy nghĩ để làm sáng tỏ) b. Cách làm: *Tìm hiểu đề và tìm ý: – Đọc kỹ đề và trả lời các câu hỏi : Đề thuộc loại nào? Đề nêu vấn đề tư tưởng , đạo lý gì ? Đề yêu cầu làm gì ? Thao tác lập luận để nghị luận ? – Tìm ý : Phân tích để khẳng định (hoặc phủ định) tư tưởng đạo lí đó bằng những ý kiến nào ? *Lập dàn ý: Mở bài: – Giới thiệu vấn đề được đưa ra bàn luận. – Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn ( nếu có ). – Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. Thân bài: – Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này). – Nêu những biểu hiện của vấn đề trong thực tế đời sống (Vấn đề biểu hiện như thế nào ?). – Phân tích, bàn luận, định hướng nhận thức và hành động (Vấn đề đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực? Tại sao phải nhận thức hoặc hành động như thế ?). – Khẳng định nhận thức và hành động ( Muốn được như thế ta phải làm gì ?). – Đồng tình, biểu dương, ca ngợi ( Nếu là vấn đề tích cực ). – Phê phán, chỉ trích, bác bỏ những suy nghĩ và hành động sai trái ( Nếu là vấn đề tiêu cực). – Nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động. Kết bài: – Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.

* Lưu ý : Trong quá trình giải thích, phân tích, bàn luận vấn đề cần lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu) để chứng minh làm cho lý lẽ thêm phần xác đáng và thuyết phục.

Nghị luận vấn đề tư tưởng, đạo lí (vấn đề tích cực) 

Mở bài: – Giới thiệu vấn đề nghị luận được đưa ra bàn luận. – Nêu luận đề: Dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn ( nếu có ). – Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. Thân bài: – Giải thích tư tưởng, đạo lí, phát ngôn cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí, này). – Nêu những biểu hiện của tư tưởng, đạo lí trong thực tế đời sống ( Vấn đề biểu hiện như thế nào ?). – Phân tích, chứng minh, bàn luận làm sáng tỏ các khía cạnh biểu hiện của tư tưởng, đạo lí ( Vấn đề đúng hay sai? Có Tác động thế nào đối với đời sống xã hội?) – Khẳng định vấn đề, định hướng nhận thức và hành động (Tại sao phải nhận thức và hành động như thế ?). – Khẳng định nhận thức và hành động đúng đắn; đồng tình, ca ngợi, biểu dương và kêu gọi học tập làm theo ( Muốn phát huy, phổ biến vấn đề ta phải làm gì ?).

– Phê phán, bác bỏ những nhận thức và hành động sai trái, lệch lạc.

– Nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.


Kết bài: Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.

Nghị luận vấn đề tư tưởng, đại lí (vấn đề tiêu cực)

Mở bài: – Giới thiệu vấn đề nghị luận được đưa ra bàn luận. – Nêu luận đề: Dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của phát ngôn ( nếu có ). – Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. Thân bài: – Giải thích tư tưởng, phát ngôn cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng này). – Nêu những biểu hiện của tư tưởng, phát ngôn trong thực tế đời sống (Vấn đề biểu hiện như thế nào ?). – Phân tích, chứng minh, bàn luận làm sáng tỏ các khía cạnh của tư tưởng ( Vấn đề đúng hay sai ? Có tác động thế nào đối với đời sống xã hội?).

– Phê phán, bác bỏ, phủ nhận vấn đề.

– Khẳng định nhận thức và hành động đúng đắn ( Muốn hạn chế, khắc phục, loại bỏ vấn đề ta phải làm gì ?).

– Ca ngợi, biểu dương những tấm gương tích cực và kêu gọi học tập làm theo . – Nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.

Kết bài: Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.

2. Với kiểu bài về hiện tượng đời sống:

Các dạng đề: – Có sự việc , hiện tượng tốt cần ca ngợi, biểu dương. – Có sự việc , hiện tượng không tốt cần lưu ý , phê phán, nhắc nhở. – Có đề cung cấp sẵn sự việc, hiện tượng dưới dạng một truyện kể, một mẩu tin, một phát ngôn để người làm bài làm cơ sở nghị luận; cũng có đề không cung cấp nội dung sẵn mà chỉ gọi tên vấn đề, người làm bài phải tự trình bày, mô tả sự việc , hiện tượng đó. b. Cách làm bài: * Tìm hiểu đề và tìm ý: – Đọc kỹ đề để xác định : Đề thuộc kiểu loại nào? Đề nêu ra hiện tượng gì, sự việc gì? Đề yêu cầu làm gì ? – Tìm ý : Phân tích để tìm hiểu ý nghĩa của sự việc, hiện tượng. Đánh giá hiện tượng ở những khía cạnh nào? * Lập dàn ý: Mở bài: – Giới thiệu vấn đề được đưa ra bàn luận. – Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn ( nếu có ). – Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. Thân bài: – Giải thích vấn đề – Phân tích thực trạng/ biểu hiên/ hiện trạng vấn đề trong đời sống. – Nếu nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên ( khách quan và chủ quan ). – Đánh giá, nhận xét tác động ( tích cực và tiêu cực ) của vấn đề đối với đời sống xã hội. – Đề xuất giải pháp phát huy, phổ biến ( nếu là hiện tượng tích cực ) hay khắc phục, ngăn chặn ( nếu là hiện tượng tiêu cực ).

Kết bài:

Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận. Rút ra ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận. Bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đã nghị luận và định hướng phấn đấu.

* Lưu ý: Trong quá trình giải thích, phân tích, bàn luận vấn đề cần lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu) để chứng minh làm cho lý lẽ thêm phần xác đáng và thuyết phục. Dẫn chứng đưa ra phải tiêu biểu, chính xác, thuyết phục cao.

3. Nghị luận một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học:

* Xác định đề tài và phạm vi vấn đề: – Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận xã hội chứ không phải là kiểu bài nghị luận văn học. Khi làm bài cần tránh tình trạng làm lạc đề sang nghị luận văn học. – Đề tài đưa ra trong đề là những vấn đề về lí tưởng sống ( qua nhân vật anh hùng ), vấn đề về số phận con người (qua nhân vật bất hạnh ), vấn đề về đạo đức, nhân cách, nhân phẩm ( nhân vật mang tính cách điển hình )…được phản ánh trong tác phẩm văn học.

– Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn đã học hoặc chưa được học.

* Về cấu trúc triển khai tổng quát:

– Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện).

– Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phân tích, chứng minh, bàn luận,…) về ý nghĩa của vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện) và tác động của nó đối với bản thân và xã hội hiện tại.

* Dàn ý chung:

Mở bài: – Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề xã hội mà tác phẩm nêu ở đề bài đặt ra. Trích dẫn câu thơ, câu văn hoặc đoạn văn, đoạn thơ nếu đề bài có nêu ra. Thân bài: – Giải thích và rút ra vấn đề xã hội đã được đặt ra từ tác phẩm ( Phần này chỉ giải thích, phân tích một cách khái quát và cuối cùng phải chốt lại thành một luận đề ngắn gọn ). – Chứng minh, bàn luận, khẳng định hoặc phản bác luận đề vừa rút ra ở phần trên (thực hiện trình tự các thao tác nghị luận tương tự như ở bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lí hoặc nghị luận về hiện tượng đời sống như đã nêu ở trên). – So sánh, bàn luận mở rộng vấn đề. – Rút ra bài học giáo dục từ hiện tượng đời sống đã nghị luận. Bày tỏ thái độ của bản thân về vấn đề đã nghị luận và định hướng phấn đấu. Kết bài:

Khẳng định chung về ý nghĩa xã hội mà vấn đề được nói đến trong tác phẩm văn học, khái quát thành thông điệp gửi đến tất cả mọi người .

II/ LUYỆN TẬP:



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 10


Đề 1

Tác dụng của sách đối với đời sống con người

A. Mở bài - Vai trò của tri thức đối với loài người

- Một trong những phương pháp để con người có tri thức là chăm chỉ đọc sách bởi sách là tài sản quý giá, người bạn tốt của con người .

B. Thân bài

* Giải thích : Sách là tài sản vô giá, là người bạn tốt bởi vì sách là nơi lưu giữ toàn bộ sản phẩm trí tuệ của con người, giúp ích cho con người về nhiều mặt trong cuộc sống

* Chứng minh tác dụng của sách

- Sách giúp ta có kiến thức, mở rộng tầm hiểu biết , thu nhận thông tin một cách nhanh nhất+ DC chứng minh

- Sách bồi dưỡng tinh thần , tình cảm cho chúng ta để chúng ta trở thành người tốt + DC

- Sách là người bạn động viên ,chia xẻ làm vơi đi nỗi buồn của ta + DC

* Tác hại của việc không đọc sách : Hạn hẹp về tầm hiểu biết tri thức, tâm hồn cằn cỗi

* Phương pháp đọc sách

- Phải chọn sách tốt, có giá trị để đọc

- Phải đọc kỹ, vừa đọc vừa nghiền ngãm ,suy nghĩ , ghi chép những điều bổ ích

- Thực hành , vận dụng những điều học được từ sách vào đời sống.

C. Kết bài - Khẳng định sách là người bạn tốt

- Lời khuyên phải chăm chỉ đọc sách , phải yêu quý sách

Đề 2

Hãy viết một bài văn nghị luận để khuyên một số bạn còn lười học, đi học không chuyên cần.

A. Mở bài

Giới thiệu bài : Lười học là tình trạng phổ biến đối với học sinh hiện nay, nhất là học sinh vùng nông thôn và vùng sâu xa

B. Thân bài

- Đất nước đang rất cần những người có tri thức để xây dựng đất nước

- Muốn có tri thức , học giỏi cần chăn học : kiên trì làm việc gì cũng thành công…

- Xung quanh ta có nhiều tấm gương chăm học học giỏi :…

- Thế mà một số bạn học sinh còn chểnh mảng trong học tập khiến thầy cô và cha mẹ lo buồn

- Các bạn ấy chưa thấy rằng bây giờ càng ham vui chơi thì sau này càng khó tìm được niềm vui trong cuộc sống = > Vậy thì ngay từ bây giờ các bạn hãy chăm chỉ học tập

C. Kết bài : Liên hệ với bản thân

Đề 3

Hãy viết bài nghị luận với đề tài : Bảo vệ môi trường thiên nhiên là bảo vệ cuộc sống của chúng ta

A. Mở bài : Giới thiệu về môi trường thiên nhiên: không khí, nước, cây xanh

B. Thân bài

- Bảo vệ bầu không khí trong lành

+ Tác hại của khói xả xe máy, ô tô… Tác hại của khí thải công nghiệp

- Bảo vệ nguồn nước sạch

+ Tác hại của việc xả rác làm bẩn nguồn nước sạch .Tác hại của việc thải chất thải công nghiệp

- Bảo vệ cây xanh Nếu rừng bị chặt phá thì :

+ Cây cối bị chết, chim thú bị huỷ diệt. Cây cối chết sông ngòi khô cạn

+ Khí hậu trái đất sẽ nóng lên ảnh hưởng đến sức khoẻ.Hiện tượng xói mòn lũ lụt thiệt hại đến sản xuất

C. Kết bài . Mỗi chúng ta hãy có ý thức trách nhiệm bảo vệ cuộc sống của chúng ta

ĐỀ 4

Bạn em chỉ thích trò chơi điện tử mà tỏ ra thờ ơ không quan tâm tới thiên nhiên, em hãy chứng minh cho bạn thấy: Thiên nhiên là nơi cho ta sức khoẻ, hiểu biết, niềm vui vô tận. và vì thế, chúng ta cần gần gũi với thiên nhiên, yêu mến thiên nhiên

A. Mở bài :- Dẫn dắt, nêu vấn đề: Thiên nhiên là nơi cho ta sức khoẻ, hiểu biết niềm vui và chúng ta cần gần gũi thiên nhiên.

B. Thân bài:

+ Luận điểm 1: Thiên nhiên là nơi cho ta sức khoẻ

- Nếu đứng trong một căn phòng nhỏ, và dầy khói thuốc lá và ở ngoài kia là thiên nhiên hùng vĩ, có núi, có sông thì bạn sẽ chọn nơi nào? - Con người nếu như không có thiên nhiên thì con ngời chỉ như một cái máy, chắc chắn không ai có thể thoát khỏi hội chứng của sự căng thẳng. Thiên nhiên chính là liều thuốc bổ đối với sức khoẻ của con người

+ Luận điểm 2: Thiên nhiên đem đến cho ta sự hiểu biết niềm vui

- Tham quan thiên nhiên ta sẽ tích luỹ được các kiến thức về sinh học, vật lý hay hoá học.

- Thiên nhiên là nơi ta thực hành những kiến thức mà ta tích luỹ được qua sách vở

- Gần gũi với thiên nhiên là thêm yêu đời, yêu cuộc sống, tạo nên cảm hứng sáng tác văn học.

(Dẫn chứng một số nhà văn gần gũi với thiên nhiên trong văn học:Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca)

* Cần gần gũi với thiên nhiên, yêu mến với thiên nhiên. Bằng cách: Cùng gia đình có những ngày nghỉ cuối tuần đến với thiên nhiên; su tần các mẫu trong thiên nhiên; vẽ tranh phong cảnh; chăm sóc cây xanh ...

C. Kết bài -Khái quát lại vai trò của thiên nhiên với đời sống con người. Lời kêu gọi mọi người hãy gần gũi với thiên nhiên.

ĐỀ 5

Một số bạn lớp em đang đua đòi ăn mặc theo lối không lành mạnh, không phù hợp với lứa tuổi học sinh, với truyền thống dân tộc, gia đình. Em hãy viết một bài văn nghị luận để thuyết phục các bạn đó thay đổi cách ăn mặc cho đứng đắn hơn.

A. Mở bài - Vai trò của mốt trang phục đối với xã hội và con ngời có văn hoá nói chung và tuổi học trò nói riêng.

B. Thân bài:

- Tình hình ăn mặc hiện nay của lứa tuổi học sinh

+ Đa số các bạn ăn mặc đứng đắn, có văn hoá

+ Tuy nhiên vẫn còn một số bạn đua đòi chạy theo mốt ăn mặc không lành mạnh ( đan yếu tố tự sự, miêu tả )

- Tác hại của lối ăn mặc không lành mạnh

+ Vừa tốn kém, mất thời gian, ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập

+ lại không có văn hoá, thiếu tự trọng, ảnh hưởng tới nhân cách của con người

- ăn mặc như thế nào là có văn hoá ?

+ Phải phù hợp với lứa tuổi học sinh, với truyền thống văn hoá của dân tộc và hoàn cảnh gia đình.

+ Đó là cách ăn mặc giản dị, gọn gàng, đứng đắn để chứng tỏ mình là người lịch sự, có văn hoá, biết tự trọng và tôn trọng mọi người

C. Kết bài :- Các bạn cần thay đổi lại cách ăn mặc cho phù hợp, lành mạnh, đứng đắn

ĐỀ 6

Trong các môn thể thao bóng đá là môn thể thao có lợi cho sức khoẻ.Hãy nêu những lợi ích của môn thể thao đó và suy nghĩ của bản thân.

A. Mở bài :

-Giới thiệu hoạt động thể dục thể thao rất cần thiết.

-Giới thiệu môn thể thao bóng đá đem lại lợi ích gì?

B. Thân bài:

-Bóng đá là một môn thể thao rất có lợi.Bóng đá có lợi cho sức khoẻ

+Chơi bóng đá các cơ quan của cơ thể hoạt động mạnh hơn,tăng sức dẻo dai,linh hoạt.

+Chơi bóng đá cũng như hoạt đông thể thao khác làm cho hình thể phát triển đẹp.

-Bóng đá rèn luyện tinh thần:

+Rèn luyện sự dũng cảm; Rèn luyện ý thức đồng đội.

+Chơi bóng đá giải trí sau khi lao động,học tập

+(dẫn chứng ngắn gọn...)

-Suy nghĩ của bản thân: Bóng đá là môn thể thao đang được hâm mộ nhất...

+Em thích tham gia bóng đá để rèn luyện thân thể và tinh thần không dam mê đến mức quên việc học tập,không chơi vô tổ chức làm ảnh hưởng đến sinh hoạt nhất là không chơi trên đường giao thông.

C. Kết bài -Khẳng định bóng đá là môn thể thao có ích.

-Bóng đá có ích khi biết chơi đúng chỗ,đúng cách.

Đề 7

Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt nam độc lập , Bác Hồ thiết tha căn dặn : “Non sông Việt Nam có trở ... học tập của các cháu” Em hiểu lời dạy trên của Bác như thế nào

A. Mở bài : Giới thiệu nội dung câu nói của Bác Hồ gửi học sinh

B. Thân bài

- Thế nào là một dân tộc vẻ vang: Dân tộc độc lập , đời sống vật chất no đủ, đời sống tinh thần lành mạnh, xã hội văn minh tiên tiến

- Sánh vai với các cường quốc năm châu có nghĩa là đưa nước ta phát triển ngang tầm vóc với các cường quốc , khoa học kỹ thuật phát triển mạnh cùng nền văn hoá đa dạng , đậm đà bản sắc

- Muốn có được điều đó phần lớn dựa vào công lao học tập của các cháu-> làm rõ mối quan hệ giữa tương lai tươi sáng của dân tộc với …

- Liên hệ thực tế học sinh và thế hệ trẻ hiện nay đang và đã làm gì cho sự phát triển của đất nước , liên hệ bản thân

C. Kết bài :Khẳng định lại vai trò của học sinh với tương lai đất nước

ĐỀ 8

Lời ca tiếng hát làm con người thêm vui vẻ,cuộc sống thêm tươi trẻ.Em hãy chứng minh nhận xét trên.

A. Mở bài : Hàng ngày lời ca tiếng hát đến với con người và trở thành món ăn tinh thần của con người làm cho con người trở lên vui vẻ,cuộc sống thêm tươi trẻ

B. Thân bài: -Tiếng hát gắn liền với cả cuộc đời của con người.

-Tiêng hát là niềm vui của con người trong lao động để quyên hết mệt nhọc,vất vả.

-Tiếng hát động viên,khích lệ con người trong chiến đấu:Trong hai cuộc chiến đấu tiếng hát theo anh bộ đội ra trận(Dẫn chứng)

-Tiếng hát đem lại niềm tin yêu,lạc quan cho những chiến sĩ cách mạng trong nhà tù đế quốc(Dẫn chứng).

-Tiếng hát tạo lên không khí vui tươi trong tuổi trẻ học đường.(Dẫn chứng)

C. Kết bài : -Cuộc sống không thể thiếu tiếng hát.

-Con người mãi mãi cất cao tiếng hát để cuộc sống trở lên tươi vui

* Dặn dò: Ôn tập

*Rút kinh nghiệm:

Ngày tháng năm

Ngày soạn:

Ngày dạy:
LUYỆN ĐỀ

Đề 1:


Câu 1 (5,0 điểm) Cho đoạn thơ sau:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

( Quê hương, Tế Hanh)

a.Chỉ ra và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.

b.Từ đoạn thơ trên, em hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về hình ảnh những ngư dân đang ngày đêm bám biển hiện nay?

Câu 2:( 5,0 điểm)

Đọc kỹ đoạn văn sau:

“ Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương…”.

( Lão Hạc, Nam Cao)

Viết một văn bản ngắn (khoảng 1 trang giấy thi) trình bày hiểu biết của em về ý kiến được nêu trong đoạn văn trên.

Câu 3(10 điểm)

Nhận xét về hai bài thơ Nhớ rừng (Thế Lữ) và Khi con tú hú (Tố Hữu), có ý kiến cho rằng : "Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khao khát tự do cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên thái độ đấu tranh cho tự do ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau." 

Bằng hiểu biết của mình về hai bài thơ, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

HƯỚNG DẪN CHẤM



Câu

Nội dung

Điểm

Câu 1

5,0điểm



a,- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ trên là: nhân hóa, ẩn dụ

- Tác dụng của biện pháp nhân hóa,ẩn dụ:

Con thuyền vô tri, vô giác trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế.

+Ta cảm nhận được giây phút nghỉ ngơi thư giãn của con thuyền, giống như con người, sau một chuyến ra khơi vất vả cực nhọc, trở về.

+Con thuyền như một cơ thể sống, nhận biết chât muối của biển đang ngấm dần, lặn dần vào da thịt của mình; cũng giống như những con người từng trải, với con thuyền, vị muối càng ngấm vào nó thì nó như càng dày dạn lên. Hình ảnh con thuyền vất vả cực nhọc đống nhất với với cuộc sống người dân chài.

* Cần trình bày phần tác dụng của phép tu từ thành một đoạn văn



0,5

1,0


0,75

0,75