Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học

  • Đặc điểm về mặt cơ thể:
    • Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,.. Vì thế mà trong các hoạt động vui chơi của các em, cha mẹ và thầy cô cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
    • Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy nhảy, nô đùa. Vì vậy các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi từ đơn giản đến phức tạp vàđảm bảo sự an toàn cho trẻ.
    • Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng.Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em.

    2. Đặc điểm về hoạt động môi trường sống:​​

    • Hoạt động của học sinh tiểu học:Nếu như ở bậc mầmnon hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập.
    • Những thay đổi kèm theo:

    - Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,... các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.

    - Trong nhà trường:do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập trung tốt.

    - Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể. Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.

    Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cục của các em trong công việc gia đình , quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập.

    3. Sự phát triển của quá trình nhận thức:

    • Nhận thức cảm tính:
      - Các cơ quan cảm xúc: thị giác, thính giác, khức giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và trong quá trình hoàn thiện

    - Tri giác: tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc xảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng màu sắc sặc sỡ, hấp dẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích , có phương hướng rõ ràng.

    ​ - Tư duy:Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.

    Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừ tượng khái quát.

    - Tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có não bộ phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang 1 số đặc điểm nổi bật sau:

    Ở đầu tuổi tiểu học thì hìnhảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.

    Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới, trẻ bắt đầu khả năng làm thơ, vẽ tranh, làm văn...

    • Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:

    Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua kênh thông tin khác nhau.

    Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách .

    • Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:

    Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng...

    Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc lòng một bài thơ, một công thức toán...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn củ yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.

    • Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:

    Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ- lôgic

    Giai đoạn lớp 1.2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.

    Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.Ghi nhớ chủ định phát triển . Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nộ dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hừng thú của các em.

    Nắm được điềunày, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa vàđơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, cá từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặt biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng và vui vẻ khi ghinhớ kiến thức.

    • Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:

    Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn.Khi đó sự điều chỉnh ý chí đốivới việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.

    Đến cuối tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành néttínhcách của các em.Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.

    4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu hoc:

    Tình cảm của học sinh tiểu học manh tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ.Lúcnày khả năng kiềm chế cảm xúccủa trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng có thể nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻdễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vui tư.

    Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi với tuổi mầm non thì tìnhcảm của trẻ tiểu học đã " người lớn" hơn rất nhiều.

    Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu. Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơm ca, hội họa, kĩ thuật, kho học.. khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.

    5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học:

    Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn.Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững của trẻ.

    Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát trẻ luôn bộc lộnhận thức , tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng, nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứngchúng sẽ bộc lộ và phát triển.

    Hiểu được những điềunày mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được"chụp mũ" nhân cách tốt đẹp, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với nhữnghình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.