Đàn bê được tạo ra bằng Công nghệ cấy truyền phôi mang đầu ấn di truyền của

Hai con bê cấy phôi đầu tiên (một đực và một cái) đã chào đời tại nhà ông Tám Sách, ấp Xuân Thới Đông, Tân Xuân, Hóc Môn. Sự ra đời của chúng mở ra triển vọng mới cho việc phát triển nhanh đàn bò sữa cao sản bằng công nghệ cấy truyền phôi.

Giáo sư Lê Xuân Cương, đồng chủ nhiệm đề tài cấy phôi bò sữa, do Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường thành phố HCM tài trợ, cho biết, ngày 3/4/2001, con bò cái F2 nhà ông Sách đã được cấy phôi từ giống bò cao sản của Nhật (cho trên 10.000 lít sữa/chu kỳ 305 ngày/con). Nay con bò cái này đẻ ra hai con bê rất đẹp, khoẻ mạnh. Bê đực cân nặng 21 kg, bê cái 23kg.

Công nghệ cấy truyền phôi được thực hiện như sau: Bò sữa cao sản được dùng thuốc kích thích để cho ra nhiều noãn. Sau đó, người ta cho thụ tinh các noãn này để chúng trở thành phôi, rồi cấy phôi vào bò thường để sinh ra bò sữa chất lượng cao.

Công nghệ cấy truyền phôi (Embryo Transfer -ET) là kỹ thuật lấy trứng đã thụ tinh (phôi) trong ống dẫn trứng ra khỏi cơ thể của con bò mẹ (con cho), cấy vào vòi trứng hoặc tử cung của con mẹ khác (con nhận) có trạng thái sinh lý tương ứng (đồng pha) thì phôi có thể tiếp tục phát triển trong cơ thể con nhận (mẹ nuôi) để cho ra đời một cá thể mới. Đặc tính di truyền của cá thể sinh ra bằng cấy phôi không phụ thuộc vào mẹ nuôi (con nhận phôi). Chính nhờ đặc điểm này, những con mẹ có phẩm chất di truyền thấp có thể làm con nhận phôi cho cá thể có phẩm chất ưu việt hoặc kỷ lục để sinh ra bò sữa cao sản.

Đàn bê được tạo ra bằng Công nghệ cấy truyền phôi mang đầu ấn di truyền của

Bê con được sinh ra từ bò được cấy truyền phôi - Ảnh: ST

Ưu điểm

Mục đích của công nghệ phôi là nhân nhanh đàn giống gia súc từ những con cái năng suất cao. Một bò mẹ năng suất cao bình thường có thể cho 8 - 10 bê trong suốt cuộc đời. Nếu sử dụng công nghệ phôi, gây rụng trứng nhiều, bò mẹ này có thể cho 20, 50, 100, 200 bê hoặc hơn nữa tùy theo trình độ kỹ thuật.

Cấy truyền phôi được xem là biện pháp đặc biệt, áp dụng công nghệ cao trong việc sớm tạo ra những con giống tốt làm hạt nhân của đàn bò sữa. Công nghệ cấy truyền phôi giúp nâng cao khả năng chống bệnh cho bò, nhân nhanh các giống tốt, quý hiếm ra thực tế sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng di truyền của những cá thể cái cao sản; nâng cao khả năng sinh sản, tăng năng suất sữa, thịt, làm ngắn thời gian tuyển chọn giống vì một con bò cho phôi có thể tạo ra nhiều bê chất lượng cao trong một năm.

Từ đó giảm các chi phí khác như chuồng trại, vật tư, nhân lực, hạn chế dịch bệnh, giảm thải chất thải chăn nuôi; Giúp cho các trang trại giảm chi phí, thuận lợi trong việc xuất, nhập giống gia súc sống thay bằng con đường nhập phôi. Hạn chế một số dịch bệnh và nâng cao khả năng chống chịu bệnh, khả năng thích nghi cho con vật ở môi trường mới, từ giai đoạn phôi thai. Nâng cao khả năng sinh sản, năng suất thịt, sữa trong chăn nuôi bò.

Ứng dụng ở nước ta

Thực tế, cấy truyền phôi bò đã được nghiên cứu, ứng dụng vào Việt Nam từ những năm 1980 tại Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, tuy nhiên số lượng còn hạn chế. Từ năm 1990, nhóm nghiên cứu của PGS.TS Hoàng Kim Giao đã thành công trong kỹ thuật cấy truyền phôi trên bò (1994) và kỹ thuật cắt phôi tạo ra 2 con bê sữa từ một trứng (2002). Cho đến nay, một số kỹ thuật đã được công bố gồm:

• Số phôi thu được trên một lần xử lý là 3,3 phôi. 74,7% số phôi thu được có thể sử dụng cho cấy truyền phôi.

• Tỷ lệ thành công khi cấy phôi tươi là 27 - 29%, phôi đông lạnh 40 - 45%. Trung bình khoảng 35%.

• Tỷ lệ bò đẻ bình thường so với bò mang thai từ cấy phôi khoảng 80% (mất phôi, sảy thai, đẻ non khoảng 20%).

• Số trứng thu được từ một bò trên một lần xử lý 6 - 11 trứng, trung bình 7 trứng.

• Kết quả nuôi trứng chín đạt 70 - 79%, trung bình 75%.

• Tỷ lệ thụ tinh in-vitro 23,1 - 50,6%, trung bình 35%.

• Tỷ lệ hợp tử phát triển đến phôi dâu và phôi nang 19,6 - 32,4%, trung bình 26%.

• Tỷ lệ cắt thành công phôi dâu và phôi nang sớm 56,6%.

• Tỷ lệ thụ tinh in-vitro từ tinh bò phân biệt giới tính đạt 29,9%. Tỷ lệ tạo dâu và phôi nang đạt 35%.

Viện nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học và bệnh nhiệt đới (BIOD) đã nghiên cứu thành công tạo bò siêu thịt BBB bằng kỹ thuật mang thai hộ trên nền bò sữa ở Việt Nam. Dùng phôi bò siêu thịt giống BBB của Bỉ nhập ngoại cấy vào bò cái Việt Nam để ra đời thành công bê BBB thuần chủng đầu tiên.

Kết quả nghiên cứu được ứng dụng trên 22 bò sữa bắt đầu được tiến hành vào tháng 10 năm 2015. Đến nay, đã có 03 bê BBB thuần chủng ra đời và được nuôi dưỡng tại Nông trường bò sữa Phù Đổng. Vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 11 tháng 7 năm 2016 (ngày Thú y Việt Nam) bê đực sơ sinh BBB đầu tiên đã ra đời bằng phương pháp mổ đẻ do kíp mổ TS. Sử Thanh Long thực hiện.

Bê sơ sinh có trọng lượng 52kg, khỏe mạnh, mang đặc điểm vóc dáng của bò bố mẹ ở Bỉ. Bò BBB là giống bò đặc biệt siêu thịt của Bỉ, được nuôi phổ biến tại các quốc gia có nền chăn nuôi phát triển như Úc, Mỹ, Bỉ, có những ưu điểm vượt trội so với các loài bò khác của Việt Nam. Cơ bắp phát triển siêu trội, ngoại hình đẹp, khả năng sử dụng thức ăn tốt, thịt thơm ngon, giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế cao. Khi trưởng thành bò đực có khối lượng trung bình 1.100-1.200 kg.

Đàn bê được tạo ra bằng Công nghệ cấy truyền phôi mang đầu ấn di truyền của

Cơ bắp vượt trội của bê BBB thuần chủng 10 tháng tuổi

Nếu nhập tinh bò BBB từ nước ngoài thì giá thành rất cao và không chủ động nguồn cung. Nhập bò BBB trưởng thành thì khó khăn trong kiểm dịch, bò khó thích nghi với điều kiện khí hậu tại Việt Nam và tỷ lệ tử vong cao.

Bằng công nghệ cấy truyền phôi theo phương pháp gây rụng trứng tạo thể vàng đồng pha cấy phôi bò BBB thuần chủng cho bò cái Việt Nam mang thai hộ, bê BBB ra đời đã có thời gian 9 tháng 10 ngày trong bụng bò mẹ Việt, nên thích ứng tốt với điều kiện khí hậu trong nước, có sức đề kháng tốt. Bò đực trưởng thành sẽ đem lại nguồn tinh quý, giá thành rẻ hơn rất nhiều so với nhập ngoại.

Đàn bê được tạo ra bằng Công nghệ cấy truyền phôi mang đầu ấn di truyền của

Nhóm tác giả của công trình nhận giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam 2016

Đây là bước đột phá ứng dụng khoa học kỹ thuật, phát triển khoa học công nghệ đặc biệt trong tương lai gần sẽ cải tạo đàn bò Việt Nam thông qua việc khai thác tinh dịch của bò đực giống BBB siêu thịt.

Đến nay, đề tài đã cơ bản đạt được các mục tiêu đặt ra và báo cáo sơ kết trước Hội đồng khoa học tỉnh vào ngày 9 -11 - 2006.

Cấy truyền phôi được xem là biện pháp đặc biệt, áp dụng công nghệ cao trong việc sớm tạo ra những con giống tốt làm hạt nhân của đàn bò sữa. Công nghệ cấy truyền phôi giúp nâng cao khả năng chống bệnh cho bò, nhân nhanh các giống tốt, quý hiếm ra thực tế sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng di truyền của những cá thể cái cao sản; nâng cao khả năng sinh sản, tăng năng suất sữa, thịt, làm ngắn thời gian tuyển chọn giống vì một con bò cho phôi có thể tạo ra nhiều bê chất lượng cao trong một năm, dành kinh phí đầu tư chuồng trại, thức ăn và nhân công.

Thực tế, cấy truyền phôi bò đã được nghiên cứu, ứng dụng vào Việt Nam từ những năm 1980 tại Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, tuy nhiên số lượng còn hạn chế. Hơn nữa ở Việt Nam nói chung và ở Đồng Nai nói riêng, việc nhập nhiều bò sữa ngoại làm bò nền rất khó thực hiện, một phần vì tốn kém, một phần vì bò ngoại rất khó thích nghi với khí hậu nước ta.

Vì vậy, việc lựa chọn những con bò cái có năng suất sữa, thịt cao sẵn có tại địa phương để làm bò cho phôi và sử dụng bò nền Lai Sind hoặc bò cái sữa lai Hà Lan F1, F2 năng suất thấp để làm bò nhận phôi bằng cách gây động dục đồng pha với bò cho phôi là rất cần thiết để tăng nhanh số lượng bò sữa, bò thịt có chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau quá trình thử nghiệm, cho thấy: Quy trình gây rụng trứng nhiều trên bò cho phôi có hai công thức đạt kết quả cao và các loại hoocmon sử dụng dễ tìm trên thị trường, giá thành thấp. Để gây động dục đồng loạt và động dục đồng pha cho bò nhận phôi thì thực hiện quy trình 2 (tiêm PMSG + PG-F2α) là hiệu quả nhất. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng cho biết, thời gian thu phôi tốt nhất được chọn vào ngày thứ 7 sau khi phối giống. Ở thời điểm này, phôi ở giai đoạn phôi dâu, phôi nang khá bền vững. Nếu thu sau ngày thứ 8 thì có khả năng phôi đã phát triển tới giai đoạn phôi nang già, chui ra khỏi màng trong suốt, sẽ khó tìm phôi và khả năng phôi bị tổn thương cũng rất cao.

Trong điều kiện chăn nuôi nông hộ, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp thu phôi không phẫu thuật để tiến hành lấy phôi từ bò cho; dung dịch sau khi dội rửa được soi dưới kính hiển vi soi nổi để tìm phôi; sau đó nâng độ phóng đại lên để phân loại. Những phôi điển hình cho giai đoạn phát triển, không có khuyết điểm gì, hoặc phôi đúng với giai đoạn phát triển, màu sắc tế bào đẹp, có một vài tế bào tách rời được chọn để cấy cho bò nhận hoặc đông lạnh bảo quản phôi ở dung dịch Nitơ lỏng – 196oC.

Các sản phẩm đề tài đã thu được là: Phôi bò sữ cao sản từ thu phôi siêu bào noãn là 237 phôi; phôi bò sữa cao sản dông lạnh từ thu phôi siêu bào noãn là 107 phôi; bê con cấy hợp tử tươi cho bò Lai Sind hoặc bò lai F1 là 28 con; bê con từ cấy hợp tử đông lạnh là 25 con.

Hội đồng khoa học cũng đánh giá tính ứng dụng cao cũng như hiệu quả kinh tế mà đề tài sẽ mang lại khi nghiên cứu thành công, đồng thời đóng góp ý kiến cho nhóm tác giả đề tài đó là cần tiếp tục theo dõi bệnh của bò sau khi cấy truyền phôi và sức khoẻ của bê con sinh ra, nhanh chóng mở các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cấy truyền phôi cho các cán bộ kỹ thuật để kết quả nghiên cứu nhanh chóng được ứng dụng, thực hiện được các mục tiêu mà đề tài mong muốn.