Dân trí thấp nghĩa là gì

Dân trí có thể là:

  • Dân trí là một tên của một tờ báo điện tử Việt Nam
  • Dân trí là bài viết về trình độ văn hoá, xã hội, khoa học, chính trị... của một khu vực, vùng, dân tộc hay một quốc gia.

Dân trí thấp nghĩa là gì
Chúng ta đang nói nhiều đến “dân trí”, và “dân trí thấp” được cho là nguyên nhân của nhiều vấn đề trong đời sống hiện nay của đất nước.

“Dân trí” là gì?

Bạn đang đọc: Dân trí Việt Nam cao hay thấp?

Nếu định nghĩa thuần túy về ngữ nghĩa thì ” trí ” vốn là một từ gốc Hán, có nghĩa chỉ năng lực nhận thức, suy đoán, ghi nhớ … thuộc phần trí tuệ gắn liền với mỗi người. Theo đó, ” dân trí ” là khái niệm chỉ chung về trình độ nhận thức hay mặt phẳng văn hóa truyền thống chung của một hội đồng hay nhóm dân cư ở một khoanh vùng phạm vi nhất định .Theo ý niệm truyền thống lịch sử, “ dân trí ” là trình độ văn hóa truyền thống chung của xã hội, hoặc đơn thuần hơn là trình độ học vấn trung bình của người dân …

Xét về mặt “chất” thì “dân trí” là sự hiểu biết và là ý thức về quyền và trách nhiệm của người dân và từ đó là lợi ích có thể mong đợi được khi thực thi quyền và trách nhiệm đó.
Xét về mặt “ chất ” thì “ dân trí ” là sự hiểu biết và là ý thức về quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân và từ đó là quyền lợi hoàn toàn có thể mong đợi được khi thực thi quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm đó .Và giá trị của dân trí còn nằm ở mức độ chăm sóc của người dân trước những yếu tố xã hội, mức độ lao vào ( muốn làm, dám làm ) và năng lực hành xử nghĩa vụ và trách nhiệm dân chủ của mình một cách có hiệu suất cao .

Cao hay thấp?

Có thể đưa ra những thống kê sau :Tháng 9/2013, Bộ GD-ĐT đã phát hành Chương trình hành vi thực thi Chiến lược tăng trưởng người trẻ tuổi Nước Ta tiến trình 2011 – 2020. Theo đó, đến năm 2020, tỉ lệ đi học đúng độ tuổi ở trung học cơ sở là 95 % và 80 % người trẻ tuổi trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông hoặc tương tự. Tỉ lệ sinh viên / 10.000 dân vào khoảng chừng 256 .Trước đó, vào năm 2003, cả nước mới có khoảng chừng 768.000 sinh viên, đạt tỉ lệ 118 sinh viên / 10.000 dân, chiếm tỉ lệ 4 % trong độ tuổi người trẻ tuổi, tăng 25 % so với năm 1998. Như vậy, từ năm 2003 đến 2013 và nhìn đến 2020, đã có một sự tăng trưởng vượt bậc về tỉ lệ sinh viên trên số dân .Xét về tiêu chuẩn giáo dục, Nước Ta đã phổ cập bậc tiểu học và đang triển khai phổ cập trung học cơ sở. Tính đến năm năm trước, tỷ suất người biết chữ độ tuổi từ 15 – 60 là 98,25 %, trong đó : Số người biết chữ trong độ tuổi 15 – 35 chiếm tỷ suất 99,12 % ; số người biết chữ trong độ tuổi từ 36 – 60 chiếm tỷ suất 97,34 % .

Từ năm 1976 cho đến hết năm năm trước, tổng số GS, PGS đã được công nhận ở nước ta là 11.097, gồm có 1.628 GS và 9.469 PGS ( trong số đó nhiều người đã mất và về hưu ) .Nước Ta có hơn 100 nghìn thạc sĩ, hơn 24 nghìn tiến sỹ .Theo số liệu thống kê năm học 2013 – năm trước, Nước Ta có 214 trường cao đẳng, 214 trường ĐH, với gần 600 nghìn sinh viên cao đẳng và hơn 1,46 triệu sinh viên ĐH. Số giảng viên ĐH là gần 92 nghìn người, , trong đó có 4.155 GS, PGS. Hằng năm có hơn 400.000 người tốt nghiệp ĐH, cao đẳng trong nước .

Về chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI): Năm 2014 Việt Nam đứng thứ 121/187 quốc gia.

Đây là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ suất biết chữ, tuổi thọ và 1 số ít tác nhân khác của những vương quốc trên quốc tế. HDI của Nước Ta đã tăng 41 % trong vòng hai thập kỷ qua. Năm 2012, Nước Ta đứng thứ 127 / 187 vương quốc .HDI được nhìn nhận qua 3 tiêu chuẩn : Sức khỏe ( đo bằng tuổi thọ trung bình ) ; tri thức ( đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học những cấp giáo dục ) và thu nhập ( mức sống đo bằng GDP trung bình đầu người ). Từ năm 2008, HDI được tính lại theo giải pháp mới ( thay những chỉ số về tri thức bằng số năm đi học trung bình và kỳ vọng số năm đi học ; biến hóa về chỉ số thu nhập GDP bằng GNI ( tổng thu nhập vương quốc ) .Trong đó, chỉ số tri thức ( giáo dục ), được biểu lộ qua 2 chỉ số chi tiết cụ thể, đó là số năm đi học kỳ vọng và số năm đi học trung bình. Số năm đi học kỳ vọng của Nước Ta đã tăng từ 7,8 năm vào năm 1990 lên 10,4 năm vào năm 2011 ( vẫn thấp hơn mức 11,7 năm trung bình ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương ) .Còn số năm đi học trung bình của Nước Ta đã tăng từ 4 năm ( năm 1990 ) lên 5,5 năm năm 2011 ( vẫn thấp hơn mức 7,2 năm của Đông Á Thái Bình Dương ) …

Những dữ liệu trên đây cho thấy, xét về lượng, dân trí Việt Nam khá tốt.

Xem thêm: PAGES là gì? -định nghĩa PAGES

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, “ ” Dân trí ” gồm có trình độ học vấn nhưng yếu tố quan trọng nhất lại là ý thức công dân. Dân trí không chỉ số lượng giới hạn trong đội ngũ tri thức mà gồm có tổng thể những giới trong xã hội như công nhân, thợ thuyền, nông dân. Chúng ta chuyển từ xã hội thần dân – là những người tuân phục – đến xã hội công dân – là những người biết, có ý thức và nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trước quốc gia ” .Vậy thì, trọng tâm của yếu tố dân trí lúc bấy giờ chính là ý thức về quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân. Nâng cao nhận thức về tự do dân chủ, hiểu biết về quyền công dân, quyền con người, nâng cao mức độ chăm sóc của người dân trước những yếu tố xã hội, động viên, lôi cuốn được sự lao vào phần đông của tri thức, người kinh doanh, là những yếu tố cốt lõi để nâng cao dân trí .

Ngân Anh (tổng hợp)

Từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng nổ toàn thế giới, những câu chuyện về cách ứng xử của công dân nước ngoài có lẽ khiến cho người Việt Nam không khỏi bất ngờ.

Từ việc công dân Hàn Quốc mắc các triệu chứng lâm sàng nhưng giấu bệnh, từ chối thử nghiệm cho đến việc cương quyết tham gia vào các buổi tụ họp đông người, chợ búa, chùa chiền, quán xá.

Rồi việc hai người Nhật sau khi du lịch nước ngoài khi về nước tự tiện bỏ về nhà mà không thực hiện yêu cầu cách ly của các nhân viên y tế chính phủ khi nhập cảnh. Mới đây, lại có nhiều công dân Hoa Kỳ từ chối xét nghiệm COVID-19 để kiểm soát dịch.

Riêng nói về hiệu ứng mua sắm kiểu vơ vét trong khủng hoảng (panic-buying) thì quốc gia nào cũng có.

Tại Úc, người dân tranh nhau đánh bay… giấy vệ sinh khỏi các kệ hàng siêu thị, đến mức các siêu thị buộc phải thực hiện chế độ phân phối và mua giới hạn để bảo đảm khách hàng nào cũng thế tiếp cận với mặt hàng này, dù chính phủ Úc liên tục nhắc nhở rằng các mặt hàng này đều có thể tự sản xuất nội địa và sẽ không bao giờ hết hàng. Mọi chuyện bắt đầu chỉ vì một số chuyên gia khuyên nên chuẩn bị sẵn cho đại dịch, mà một trong số đó là vấn đề vệ sinh gia đình và cá nhân.

Tại Hoa Kỳ, việc tranh giành mua sắm các nhu yếu phẩm cũng diễn ra một cách thường xuyên. Mà không chỉ là khẩu trang, giấy vệ sinh hay gạo, mì, người dân Mỹ còn mua cả băng vệ sinh phụ nữ và thực phẩm cho mèo.

 Ở Nhật, nhiều người còn đánh nhau để tranh giành quyền mua khẩu trang. 

Đây là những hành vi mà tôi tin chắc nếu là người Việt Nam thực hiện thì sẽ bị cư dân mạng lắc đầu dè bỉu bằng câu nói đầu môi của họ: “Nói dân trí thấp thì lại tự ái”.

Có điểm gì đó không hợp lý ở đây.

Nếu nói dân trí là tiêu chuẩn để người dân có thể thực hiện những quyền tự do chính trị nhất định, và là lý do người Việt Nam bị tước đoạt rất nhiều quyền tự do cá nhân như quyền tự do tư tưởng, tự do lập hội, quyền biểu tình… tại sao các nhóm cộng đồng dân trí “thấp” không kém gì ta, được thể hiện rõ ràng nhất qua khủng hoảng dịch viêm phổi Vũ Hán như đã kể trên, lại là những nhóm đã thực hành dân chủ suốt hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ.

Còn nếu nói chính phủ Việt Nam có năng lực quản lý thần kỳ hay ho nhất nhì thế giới khiến cho chúng ta không cần thiết phải áp dụng dân chủ, điều gì khiến cho năng lực này không thể chuyển đổi thành các thành công liên quan đến hạ tầng, quản lý đô thị và chất lượng đời sống công dân?

Phải chăng đã đến lúc chúng ta nhận ra rằng câu nói “dân trí thấp” đã không còn đủ sức nặng trong môi trường chính trị xã hội của Việt Nam, cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới? Và rằng con người, dù ở trình độ học vấn nào, dân trí cao đến thế nào, cũng có thể đưa ra những quyết định phi lý tính và ngờ nghệch trong những thời khắc khủng hoảng tương tự như hiện nay?

Dân trí thấp nghĩa là gì
Các gian hàng trống trơn ở Glendale, California, Mỹ đầu tháng 3/2020. Ảnh: AFP.
Dân trí thấp nghĩa là gì
Hai người Nhật đánh nhau khi đang chờ mua khẩu trang. Ảnh: TOKAGE_TO_KUMA/TWITTER.

Cao bao nhiêu mới đủ?

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, 95% dân số Việt Nam mù chữ, đồng nghĩa với việc họ không thể tiếp cận với những thông tin cơ bản nhất về tình hình chính trị quốc gia và thế giới. Điều này không ngăn cản phe Việt Minh cho rằng cuộc tổng tuyển cử năm 1946 là cuộc bầu cử thực chất, có chất lượng và đáng tin cậy nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Các cuộc bầu cử sau đó, mà đặc biệt là cuộc trưng cầu dân ý 1955 tại miền Nam Việt Nam (phế truất Bảo Đại và lựa  chọn Ngô Đình Diệm làm tổng thống), đều bị chê bai là giả hiệu, dù tỷ lệ biết chữ tại miền Nam Việt Nam thời điểm này chắc chắn cao hơn nhiều so với tỷ lệ chung năm 1945, khi mà khu vực này ít các dân tộc thiểu số hơn, và duy trì hệ thống giáo dục Pháp tương đối ổn định so với miền Bắc.

Vậy nên, nếu so với thời đại ngày nay, càng không còn bất kỳ căn cứ gì để cho rằng dân trí nước ta thấp. Theo thông tin chi tiết của UNESCO, tỷ lệ biết chữ của thanh thiếu niên từ 15 đến 24 tuổi là hơn 98%, tiệm cận 100%, một con số đáng mong ước của mọi quốc gia đang phát triển. Tỷ lệ này là 93% nếu tính nhóm dân cư từ đủ 15 tuổi trở lên, và là 80% nếu chỉ tính những công dân đã trên 65 tuổi. Như vậy, tỷ lệ biết chữ của Việt Nam là cao ở mọi nhóm độ tuổi, là một nền tảng dân trí vô cùng vững chắc.

Không chỉ vậy, nhóm dân cư đã trải qua quá trình đào tạo đại học và sau đại học cũng rất đáng kể. Theo ghi nhận của trang World Education Reviews, nhóm này từ việc chỉ chiếm 10% dân số vào năm 2000, tăng lên đến 16% vào năm 2005 và vào năm 2014 đã có đến 25% dân số Việt Nam sở hữu các loại bằng cấp đào tạo đại học, và sau sáu năm, đến nay, chắc chắn đã có những bước phát triển vượt bậc. 

Điều này khiến cho quy mô phổ biến giáo dục đại học và sau đại học tại Việt Nam không hề thua kém Hoa Kỳ. Quốc gia giàu có với tiềm lực khoa học công nghệ mạnh mẽ nhất thế giới này cũng chỉ có tỷ lệ dân số trên 25 tuổi có bằng đại học hoặc các hình thức giáo dục tương ứng ở khoảng 33%. Hiển nhiên, cả hai con số đều chưa đạt đến học vấn “thượng thừa” của người Nhật, Nga, Hàn hay bất ngờ nhất là Canada, với hơn kém 55% dân số đều có học vấn tối thiểu là đại học.

Như vậy, dù không phải là quốc gia có tỷ lệ dân số theo học và hoàn thành cấp bậc đại học cao nhất, Việt Nam ngày nay vẫn là thời đại “có học” nhất trong lịch sử của chúng ta, và điều này chắc chắn có ảnh hưởng hiển nhiên lên năng lực nhận thức lý tính của các nhóm dân cư Việt Nam. Vậy nên, khi nói về năng lực của người dân nước ta, đây có lẽ là thời điểm hoàn toàn thích hợp để phổ biến và tập dượt các mô hình thực hành dân chủ, thay vì giấu giếm và bỏ tù những người đòi hỏi các quyền cá nhân vô cùng căn bản ấy.

Dân trí thấp nghĩa là gì
Học sinh trường Marie Curie ở Hà Nội được kiểm tra nhiệt độ trước khi vào học, ngày 4/5/2020. Ảnh: EPA

Từ dân trí đến quyết định lý tính

Chắc cũng sẽ có bạn đọc cho rằng, chẳng phải duy nhất Việt Nam vịn vào tình trạng dân trí để phủ nhận khả năng và nhận thức chính trị của người dân. Không nói đâu xa, tư tưởng phân biệt giai tầng và kiến thức của cử tri xuất hiện cực kỳ phổ biến từ sau cuộc bầu cử 2016 của Hoa Kỳ.

Mới đây, ngay cả The Economist, một tờ báo lừng danh quốc tế, ghi nhận một cách khá mỉa mai rằng “những người ít học đang nắm chìa khóa mở cánh cửa Nhà Trắng”.

Tờ The Atlantic thì chỉ thẳng mặt những người phe Cộng hòa, chê bai rằng họ là bọn ít học hơn so với những người ủng hộ Đảng Dân Chủ.

Những luận cứ và tranh cãi nhắm vào học thức của cử tri đã không còn gì là mới mẻ trong chính trường Hoa Kỳ ngày nay.

Nhiều người dựa vào đó để cho rằng các lựa chọn chính trị suốt vài năm qua là không đáng tin cậy, là dựa trên đa số của những người thiếu thông tin, thiếu hiểu biết và, tất nhiên, là thiếu bằng cấp.

Điều này không hẳn là hoàn toàn không có cơ sở. Trong nghiên cứu của Giáo sư Benjamin Highton, trường Đại học California, khi nhắc đến khái niệm “sành chính trị” (political sophistication), bao gồm các nhánh yếu tố nhỏ hơn như “ý thức chính trị” (political awareness), “chuyên môn chính trị” (political expertise) và “thông tin chính trị” (political knowledge), ông thừa nhận rằng việc tham gia vào các khóa học đại học chính quy sẽ có những ảnh hưởng quan trọng lên năng lực nhận thức, lượng thông tin thu thập được, cũng như khả năng xử lý lý tính những thông tin kinh tế – chính trị – xã hội đó. 

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng những xã hội có trình độ dân trí, học vấn cao thì các cá nhân trong xã hội đó sẽ luôn quyết định một cách đúng đắn và lý tính.

Ví dụ, tại Trung Quốc – vốn là một nước có tỷ lệ dân số hoàn thành học vấn đại học và sau đại học khá cao, nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Wen Fan muốn nghiên cứu năng lực lựa chọn lý tính của sinh viên Trung Quốc trước các chiêu trò “thao túng định khung” (framing manipulation). Nói cho dễ hiểu, họ diễn giải một hiệu ứng chính sách theo những cách khác nhau và quan sát xem sinh viên phản ứng như thế nào.

Trong trường hợp của Fan, ông đề ra tình huống rằng một căn bệnh tại Trung Quốc có khả năng ảnh hưởng đến tính mạng của 6.000 người. Trong đó, cơ quan chức năng có hai biện pháp chữa trị A và B. Biện pháp A sẽ cứu được 2.000 người, biện pháp B sẽ làm chết 4.000 người.

Có thể thấy kết quả của A và B là như nhau, song A được diễn giải theo hướng tích cực (có tới 2.000 người được cứu sống) và B thì tiêu cực (có tới 4.000 người chết).

Kết quả của nghiên cứu cho thấy, trừ khi sinh viên có năng lực tốt về số học – khoa học máy tính, thao túng định khung gây ảnh hưởng lớn đến việc ra quyết định lựa chọn của họ, tức họ sẽ chọn cách diễn giải đã được thao túng theo ngôn ngữ tích cực, dù kết quả cuối cùng đều như nhau. Kết quả ghi nhận được sự tương đồng giữa những người khác nhau về trình độ tri thức, giới tính, nghề nghiệp hay địa vị xã hội. Ông cũng viện dẫn một nghiên cứu tương tự dành cho các học viên quân sự Trung Quốc để cho thấy các nhóm đối tượng này cũng không khác biệt gì.

Điều này có vẻ tương đồng với những gì các nhà khoa học phương Tây quan sát. Trong quyển Democracy for Realists của hai tác giả lớn Larry Bartels và Christopher Achen, hai nhà khoa học khẳng định các sự kiện lịch sử thế giới cho thấy rất rõ ràng rằng những nhân vật có học, thậm chí là học rất cao, cũng có thể đưa ra những nhận định đạo đức và chính trị sai lầm thường xuyên như bất kỳ ai khác. Những tác động của định kiến nhận thức (cognitive biases), vì vậy, không phân biệt năng lực học thuật của người bị ảnh hưởng.

***

Chúng ta có thể kết luận gì với bài viết?

Một là dân trí tại Việt Nam, hiểu theo cái nghĩa đen của nó, rất cao. Cao không thua kém gì Hoa Kỳ. 

Hai là, hành vi và quyết định của một cá nhân, của một tổ chức có thể vô cùng phi lý tính cho dù họ có học cao hiểu rộng đến đâu. Những hành vi sai trái mà chúng ta thấy trong xã hội Việt Nam hiện nay, hay những hành vi tương tự ở người nước ngoài trong mùa dịch, vì những lý do trên, cũng không thể nào giúp kết luận được về cái tư duy “dân trí thấp”.

Đã đến lúc thứ khái niệm ngược ngạo và chậm tiến này bị loại bỏ khỏi các đối thoại chính trị ở ta.

Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.