Bi trí dũng là gì

Nhằm góp phần thêm sáng tỏ Bi Trí Dũng trong cuộc sống để độc giả nhận biết phần nào tính thiết thực của Bi Trí Dũng. Có thể nói, Bi Trí Dũng là bản hoài của mười phương chư Phật, của Phật giáo, của GĐPT Việt Nam (châm ngôn).

Duyên khởi: Trước khi dẫn chứng những hiện thực của Bi Trí Dũng, hãy thử nhận xét duyên nhân GĐPT lấy Bi Trí Dũng làm châm ngôn. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người dân Việt bừng tỉnh sau cơn mê của liều thuốc Bắc thuộc và Tây thuộc: phong trào Cần Vương, Văn Thân, Duy Tân, Đông Du, Bác Hồ tìm đường cứu nước, Cách mạng văn hóa, Tự lực Văn đoàn, v.v… Những nhà uyên thâm Phật học thì vận dụng giáo lý Phật Đà vào việc giữ gìn phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Việt. Đoàn Phật học Đức Dục ra đời, (Ba) châm ngôn(Năm) điều luật là định hướng tân tiến của Đoàn trên tinh thần kế thừa chọn lọc nhịp nhàng theo thời gian của nền tảng Tam Cang Ngũ Thường (Khổng giáo), Tam quy Ngũ giới (Phật giáo).

Châm ngôn và điều luật của GĐPT là kế thừa xuyên suốt của đoàn Phật học Đức Dục.

Đạo Phật là đạo như thật: Đức Thích Ca đã từng tuyên bố: “Hơn 45 năm thuyết pháp độ sinh, Ta chưa nói một lời nào”. Nghĩa là những gì Ngài vận dụng, mọi phương tiện (kế sách) truyền đạt đến mọi thành phần trong xã hội thời bấy giờ chỉ nhằm làm sáng tỏ chân lý cuộc đời để con người nhận biết chân lý, sống đúng chân lý, sống hợp chân lý hầu thọ hưởng an vui tự tại giải thoát trên cuộc đời và tạo nhân cho quả lai sanh. Còn những gì Ngài chứng ngộ thì ngôn từ thế gian không thể diễn đạt được. Như vậy, có thể quy kết Tam Tạng Kinh Điển Phật chỉ nhằm làm sáng tỏ chân lý. Đã là chân lý thì là của chung. Như ánh nắng mặt trời chẳng hạn, thì động, thực vật… trên trái đất này tùy nghi vận dụng để có ích cho sự tồn sinh. Giáo lý Phật cũng thế, vì mê vọng phân biệt nên ta thường nói Bi Trí Dũng là của đạo Phật, là của người Phật tử, của Văn hóa Á Đông… chứ đã là chân lý thì làm gì có sự dành riêng cho ai?!

Bi Trí Dũng trong cuộc sống.

Ví dụ 1 (Đời): Đầu thiên niên kỷ 21 tại TP. HCM có một số lão thành cách mạng, nhân sĩ lão thành, nghệ sĩ nhân dân lão thành… đồng ký tên một bản di chúc tập thể. Trong đó đại ý căn dặn khi họ chết thì bạn bè và thân bằng quyến thuộc không nên tổ chức tang lễ linh đình, không “đi viếng” bằng vòng hoa, liễn đối đắt tiền; thay vì nếu thương tưởng thì dùng tiền mua lễ phẩm đó bỏ vào một cái thùng. Tang gia dùng tiền đó giúp đỡ, hỗ trợ những bệnh nhân nghèo không có tiền chữa trị bệnh (có vị hỏa táng, có vị hiến xác cho khoa học ngành y – Báo Pháp Luật ngày 20/3/2003).

Trước tập quán “sống cái nhà thác cái mồ”, trước xu hướng “thành phố nghĩa trang”, đua đòi xây mộ tháp, vòng hoa, liễn đối cao cấp… mà những vị này thực hiện một bản di chúc như thế, theo thiển kiến của tôi, họ đã thể hiện Bi Trí Dũng.

Ví dụ 2 (Đạo): Giữa thập niên 70 của thế kỷ 20, đất nước Việt Nam đã hòa bình thống nhất, giang sơn quy về một mối. Một số Chư vị Tăng Ni, Cư Sĩ đã sáng tạo vận dụng thời cơ để PGVN được thực sự thống nhất. Tuy gặp bao chướng duyên oan trái nội tại, ngoại cảnh nhưng Đại hội thống nhất PGVN đã tiến hành, đặt nền móng cho sự tồn vong của PGVN trong thời đại mới. Nếu không hành sự trên tinh thần Bi Trí Dũng như thế thì PGVN dễ đi vào ngõ cụt.

Ví dụ 3 (GĐPT): Trước bao cố chấp cực đoan nội tại nhưng Hội nghị Huynh trưởng cấp Tấn, cấp Dũng đã tiến hành tu chỉnh nội quy GĐPT nhân kỷ niệm 50 năm danh xưng GĐPT (2001). Hội nghị đã đột phá một số nguyên tắc cố hữu để mở ra hướng đi cho GĐPT thích nghi với thời đại mới, là thể hiện tinh thần Bi Trí Dũng.

Tiếp nối tinh thần này, anh chị em Huynh trưởng nhất là Huynh trưởng GĐPT đơn vị cơ sở, trước xu hướng thị trường hóa Phật giáo, trước bao hiểu nhầm từ nhiều phía, trước những “vô tư” của một số Trụ trì khó tính, trước vấn nạn dạy thêm học thêm (kể cả chiều Chủ nhật)… mà anh chị em vẫn kiên trì vận dụng Bi Trí Dũng để Đóa Sen Trắng ngày càng lan tỏa. Nhân đây, tôi mong được chia sẻ tâm tình cùng anh chị em Huynh trưởng và cũng tự nhắc nhở mình bằng đoạn ca từ của nhạc sĩ Nguyên Truyền:

… “Dũng trong Trí Tuệ và Dũng trong Từ Bi. Dũng vượt qua bờ giác và Dũng vượt thoát rừng mê. Dũng vô úy nhẫn nhục vị tha, Dũng như Tất Đạt Đa”./.

Dương Đình Trí
Cựu Huynh Trưởng GĐPT Quảng Ngãi

Bi trí dũng là gì

Từ bỏ sự giết hại

Việc thực hành phóng sinh vào bất cứ khi nào có dịp sẽ hỗ trợ rất mạnh mẽ cho bạn trong việc thực hiện tất cả những điều trên để từ bỏ ác nghiệp.

  • Ai cũng biết tinh tấn là một hạnh tu quan trọng. Thiếu sự cố gắng thì không chỉ tu tập mà bất cứ việc gì cũng không thành. Nhưng cố gắng tinh chuyên quá mức, dẫn đến căng thẳng thì chưa phải là điều hay. Chuyện Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ vì quá cố gắng tu tập nên bị căng thẳng, bất an, không đoạn trừ được phiền não là một điển hình.
  • Người đệ tử Phật, khi phát nguyện quy y Tam Bảo, nguyện sẽ đi theo bước chân của Phật, nguyện học tập theo các công hạnh của Ngài, dựa trên nền tảng căn bản của Từ Bi và Trí Tuệ.
  • Người đệ tử Phật, khi phát nguyện quy y Tam Bảo, nguyện sẽ đi theo bước chân của Phật, nguyện học tập theo các công hạnh của Ngài, dựa trên nền tảng căn bản của Từ Bi và Trí Tuệ.

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

  • Bi trí dũng là gì

Tất cả chúng ta đều hiểu Đạo Phật là Đạo của Từ bi, của Trí tuệ, của Dũng mãnh; nên người ta vẫn thường nói Đạo Phật là “Đạo

Bi trí dũng là gì
Từ Bi”, lấy câu “Duy tuệ thị nghiệp” làm phương châm, đưa vào huấn dụ “Tự dũng mãnh thắp đuốc lên mà di” làm nền tảng, trong qúa  trình tu tập và hoằng dương chánh pháp! Ba chữ nầy, cũng đã dược chọn làm châm ngôn cho tổ chức gia đình Phật tử Việt nam từ khi vừa được thành lập…

“Từ/ Bi” là hai trong bốn tâm cần phải đạt đến, nếu muốn bước dần vào cửa Đạo, sống đời an vui, sau đó mới đến tâm “Hỷ /Xả”. Bốn Tâm nầy ( Từ/Bi/ Hỷ/Xả), được gọi là “Tứ Vô Lượng Tâm”- bốn tâm rộng lớn, có thể bao trùm vạn vật, đem lại vô lượng an lạc cho mình, cho người! Người không có đủ bốn tâm cốt yếu đầu tiên nầy, Tâm không thể an định, nên sẽ chẳng bao giờ hiểu biết được Chánh pháp. Không hiểu biết hết Chánh pháp, thì Trí tuệ sẽ không sanh trưởng được! Và tất yếu, sẽ dần dần lạc bước vào đường tà đạo…Tạo nhiều nghiệp xấu ác, uổng phí một đời tu học Phật pháp khó gặp!

Có tâm “Từ” đúng chánh pháp, trong sáng và an nhiên, thì tâm “Bi” tự nhiên sanh trưởng. Từ - Bi có thể hiểu là một tâm khắn khít, không thể tách rời, để thể hiện lòng thương tưởng, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ cùng mọi người mọi nỗi bất hạnh, khổ đau. Cảm thông, yêu thương, đùm bọc, che chở, đem an vui cho người với tâm Từ Bi thì tất cả đều có được lợi lạc vô lượng. Đó là một sự thật không thể khác! Ngược lại, sự “thương người” (Từ Bi) trong phân biệt, mong cầu, và so sánh đối đãi - thì chẳng những không sanh phước huệ cho ai, mà còn tạo thêm phiền não, khổ đau! Trong thực tế đời sống, sự “thương người” với lòng ngã mạn hay ban phát (xin cho) theo kiểu giả dối nầy được thấy khá phổ biến, đến nỗi, đã trở thành một cái “nếp” không hề bị phản đối; góp phần tạo nên sự vô cảm máy móc nơi nhiều lớp người, chỉ vì lợi dưỡng hay danh hảo, kẻ cả người được “ca ngợi” là có “tâm từ bi”!

Bởi vậy, chúng ta không ngạc nhiên, khi Đạo Phật đã quan tâm đến Trí Tuệ đi liền sau Từ Bi! Từ Bi mà không có Trí Tuệ, dễ đi lạc vào đường tà, chẳng lợi gì cho Chánh pháp, mà còn làm suy yếu Chánh pháp nữa!  Không có trí an tịnh, sáng suốt, là ngọn đuốc Pháp dẫn dắt, soi sáng, thì Tâm vô minh phân biệt giả trá sẽ thao túng lôi cuốn, dìm người vào chốn tham đắm, và phóng túng dễ dàng!

Trí tuệ trong đạo Phật không chỉ là sự học rộng, biết nhiều (đa văn), mà chính ở lòng khát ngưỡng chân lý, mong cầu giải thoát từ những thực chứng đời sống, từ sự tinh tấn hành trì theo đúng lời Phật dạy. Trí tuệ gói gọn trong học vị danh vị, cũng chỉ là những lớp vỏ bọc ngoài của viên thuốc!

Trí tuệ Phật pháp sanh trưởng trong sự thanh tịnh và yên lặng, chứ không có nơi xô bồ huyên náo với nhiều danh xưng, nhiều hình thức lộng lẫy. Trí tuệ còn được nhận ra bởi sự “chính tâm tu tập các pháp giác chi (là “thất Bồ đề phần” hay “thất giác chi” : niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, tự giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi) xa lìa tánh cố chấp, rời bỏ tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não” (Pháp Cú 89).

Trí tuệ trong Đạo Phật có ý nghĩa thiêng liêng rộng lớn, bằng nổ lực tu rèn tự thân mà đạt, chứ không ai có thể “ban phát” cho ai được! Bởi lẽ ấy, Đức Phật đã từng dạy về mẫu người “đại trí” như sau: “Như ngọn núí kiên cố chẳng bao giờ bị gió lay, những lời hủy bán hoặc tán dương chẳng bao giờ làm lay dộng được người Đại Trí” (Pháp Cú 81).

Khi đã kinh qua tâm từ bi, và đạt trí tuệ đúng như pháp, thì “Dũng” phát sanh! Lòng dũng mãnh kiên định đã được vun đắp bởi tâm từ bi, và trí tuệ, thì sẽ không bao giờ bị lay chuyễn trước mọi uy quyền, thế lực; không sợ hãi trước mọi hiểm nguy rình rập phía trước. Sự dõng mãnh kiên cố ấy, được thể hiện qua câu chuyên về vị đại đệ tử Phú Lâu Na xin Phật đi hoằng pháp ở xứ Sronàparanta “ Đức Phật nói: “Người dân xứ Sronàranta nổi tiếng dữ dằn, thô lỗ…Nếu họ nói với ông những lời dữ dằn, thô lỗ, hỗn láo thì ông nghĩ thế nào ?”. Punna : “Con sẽ nghĩ rằng người dân ở Sronàparanta quả thực là những người tốt bụng và hiền lành, vì họ không đánh con bằng tay, cũng không ném đá vào con”. Đức Phật : “Nhưng nếu họ đánh ông bằng tay hay ném đá vào ông thì ông sẽ nghĩ thế nào?. Punna: “Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ không đánh con bằng gậy, không đâm con bằng gươm”. Đức Phật : “Nhưng nếu họ đánh ông bằng gậy hoặc đâm ông bằng gươm thì ông sẽ nghĩ thế nào?”. Punna : “Con sẽ nghĩ họ là nhữngngười hiền lành và tốt bụng vì họ không giết chết con!”. Đức Phật: “Nhưng nếu họ giết ông, này Punna, ông sẽ nghĩ thế nào?”. Punna :”Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ giải thoát cho con khỏi cái thân xác thối tha này môt cách dễ dàng. Con biết rằng có nhiều tu sĩ đã hổ thẹn vì cái thân xác của mình, đã bối rối, chán nản, và các vị ấy đã tự tử bằng khí giới, đã dùng thuốc độc, đã tự treo cổ bằng dây thừng hay lao mình vào vực sâu !?

Đức Phật : “Này Punna, ông có thiện tâm, nhẫn nhục cao nhất. Ông đã có đủ “Bi, Trí, Dũng”, hãy đi đi mà dạy cho họ làm sao để họ được giải thoát như chính ông – ông đã giải thoát”.

Qua mẫu chuyện nhỏ thuật lại cuộc trò chuyện giữa Đức Phật và Tôn giả Phú Lâu Na – một đệ tử lớn của Phật, khi Tôn giả cầu xin được đến xứ Sronàparanta để dạy đạo cho người xứ này; chúng ta vô cùng cảm phục đức “Bi/ Trí/ Dũng” của Ngài.

Sở dĩ Phú Lâu Na có được suy nghĩ, lời nói, và việc làm chân chính, kiên cường như thế, là vì Tôn giả đã sẵn có cái tâm an tịnh, trong sáng (Bi), cái nghị lực bền vững phi thường (Trí); lòng tin bất thối chuyển vào Đạo pháp (Dũng). Ở ngài Phú Lâu Na, chúng ta thấy đã có đủ ba đức tính cốt lõi của Đạo là “Bi/Trí/Dũng”. do vậy, không sự xấu ác nào có thể khuất phục được ngài, cho dầu phải bỏ thân mạng, trong trách nhiệm cao cả hoàng dương Chánh pháp; quyết tâm chuyễn hóa và diệt trừ cái xấu ác, để Chánh pháp được lưu chuyễn, trường tồn; mang lại lợi lạc cho tất cả!

Nhìn lại thực tế, khi sự xấu ác chưa có sự “nóng nảy, bạo lực, dữ dằn”, mà đã có sự thối chuyễn, tự hạ mình tuân theo, thì làm sao việc tu tập, và hoàng dương Chánh pháp có thể đạt được kết quả tốt? Sự sợ hãi, coi trọng thân tạm, hay vì chút lợi dưỡng, danh hảo, mà đánh mất cái “Dũng” cần thiết của người con Phật, thì Phật pháp làm sao hưng thịnh?! Sự im lặng (hay làm ngơ) trước cái xấu ác cũng đồng nghĩa với sự thỏa hiệp yếu hèn! Đi xa hơn nữa, là sẽ vô tình tạo điều kiện dễ dàng cho cái xấu ác sinh trưởng nhanh hơn, ngày một nhiều và lớn mạnh hơn! Tỷ như loài cỏ dại mọc trong đám lúa, nếu không diệt trừ, nhổ tận gốc, thì một ngày kia cỏ dại phát triển gấp trăm ngàn lần, sẽ lấn át, cây lúa sẽ còi cọc và khô chết dần đi…

Tóm lại: Bi mà không Trí, là tà vạy!

Trí mà không Dũng, là yếu hèn!

Bi Trí Dũng” nghe rất đơn giản, mà đã là một điều rất khó thành tựu ở một người con Phật chân chính ngày nay vậy!

Phật Đản, PL 2554