Danh sách doanh nghiệp fdi 2023

Phát biểu tại “Diễn đàn Kinh tế 2023: Cùng doanh nghiệp vượt sóng” ngày 17/11 do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI, nhận định bất chấp những bất ổn của thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục hồi phục mạnh mẽ.

Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng “đáng kinh ngạc” 13,7% trong quý 3 so với cùng kỳ năm ngoái, đồng thời nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam lên 7,2%, tăng đáng kể so với mức dự báo 5,3% đưa ra 4 tháng trước đó. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 6,5% trong năm 2022, cao nhất Đông Nam Á.

Danh sách doanh nghiệp fdi 2023

Tuy nhiên, thời điểm cuối năm 2022 và dự đoán đầu năm 2023 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn do tác động từ khủng hoảng kinh tế, chính trị trên thế giới.

Ông Phòng cho rằng dù khu vực doanh nghiệp đông về số lượng, nhưng quy mô và tiềm lực không mạnh, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Thống kê cho thấy bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động thì có 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Nói cách khác, trong nền kinh tế cứ 10 doanh nghiệp gia nhập mới và quay trở lại thì có 7 doanh nghiệp tạm thời hoặc vĩnh viễn rút lui khỏi thị trường. Điều này phản ánh khu vực doanh nghiệp vẫn bị tổn thương nghiêm trọng trước những khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước.

Ông Nguyễn Hồng Long, Phó trưởng ban chuyên trách Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, cũng đánh giá rằng sắp tới đây sẽ có nhiều khó khăn xảy ra, trong đó có những vấn đề về tín dụng, thuế và thị trường bất động sản.

Các giao dịch bất động sản bị thu hẹp, ảnh hưởng lớn đến tín dụng. Những sự cố trên thị trường chứng khoán xảy ra liên tục, chưa bao giờ thị trường biến động xuống thấp như hiện nay, nhưng lại có lúc trồi lên rất cao, thể hiện sự chưa ổn định…

Ngoài ra về sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp dệt may chia sẻ vẫn chưa ký được đơn hàng mới cho năm 2023, hay một số ngành nghề khác cũng thiếu vắng đơn hàng.

Nguyên nhân theo ông Long, từ yếu tố bên trong lẫn bên ngoài, ảnh hưởng từ các thị trường lớn như Anh, Mỹ, Pháp, Đức gặp khó khăn. Đây là vấn đề về kinh tế toàn cầu nên Việt Nam không thể nằm ngoài.

Để “vượt sóng”, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng thời gian tới cần duy trì cải cách, phục hồi gắn với ổn định kinh tế vĩ mô. Một trong những thách thức lớn nhất đối với doanh nghiệp hiện nay là phát triển bền vững trong một môi trường biến đổi, rất năng động và khó dự đoán.

Việc kinh tế Việt Nam đi theo kịch bản nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy vậy, một điều chắc chắn, năm 2023 là năm có ý nghĩa rất quan trọng, năm “bản lề” để tạo ra những chuyển biến thực chất trong tận dụng các động lực tăng trưởng mới trong giai đoạn 2021-2025. Do vậy, doanh nghiệp cần tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng là điều cần thiết.

Trong bối cảnh như vậy, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tiếp tục tập trung thay đổi cấu trúc kinh tế, cải cách cơ chế làm sao để khối doanh nghiệp tư nhân hấp thụ được nhanh nhất, tốt nhất nguồn vốn hỗ trợ.

Mở ra không gian cho các hoạt động kinh tế mới một cách bền vững như kinh tế số bằng cách thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kỹ năng lao động gắn với số hóa, tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn.

Đồng thời cần cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp thực hiện các hiệp định thương mại tự do. Đối với lĩnh vực du lịch, cần đẩy mạnh liên kết giữa các địa phương bên cạnh liên kết giữa chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước.

Đổi mới mô hình liên kết có sự tham gia đồng hành của doanh nghiệp, vai trò điều phối của cơ quan quản lý nhà nước, dựa vào thế mạnh địa phương gắn với từng nhiệm vụ, sự kiện, dự án cụ thể.

Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh tháo gỡ các nút thắt của môi trường đầu tư, kinh doanh liên quan đến vấn đề đất đai, xây dựng… Các cơ quan hoạch định chính sách, quản lý cũng cần hành xử theo thị trường, dựa trên cơ chế thị trường để có thể hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp..

Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ vừa có báo cáo gửi Thủ tướng về các thách thức, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023, đồng thời đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm kịp thời tháo gỡ cho doanh nghiệp.

Cụ thể, theo báo cáo của Ban IV, phản ánh của các doanh nghiệp, hiệp hội từ nửa cuối tháng 10/2022 tới nay cho thấy, đang nổi lên một loạt rào cản, thách thức lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi và phát triển bền vững của doanh nghiệp, cũng như nền kinh tế trong thời gian tới.

Doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp khó do đơn hàng giảm sút

Trước hết, theo đánh giá của Ban IV, các thách thức đối với hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của doanh nghiệp nửa cuối quý IV/2022 và đầu năm 2023 đã hiện hữu rất rõ ràng. Báo cáo của Ban IV dẫn nhận định của các doanh nghiệp ở hầu hết các ngành hàng đều cho rằng, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong nửa cuối quý IV/2022 và đầu năm 2023 sẽ gặp rất nhiều khó khăn so với kết quả quý III/2022, vì các lý do sau:

Thứ nhất, về cơ hội thị trường, đơn hàng cho năm 2023 với nhiều ngành xuất khẩu chủ lực đều sụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt là với các ngành dệt may, da giày, nội thất, nhôm công nghiệp, sắt thép, xi măng... Nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm nhân công, giảm quy mô sản xuất trong các tháng cuối năm 2022. Nguyên nhân của sự sụt giảm đơn hàng chủ yếu đến từ hai yếu tố: chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế tại nhiều quốc gia châu Âu, Mỹ, cũng như toàn cầu khiến cầu tiêu dùng và đầu tư (đặc biệt là đầu tư lĩnh vực bất động sản trên toàn cầu) giảm mạnh; xu hướng ngày càng gia tăng tần suất các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt từ phía Mỹ, khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường.

Danh sách doanh nghiệp fdi 2023
Nhiều rào cản, thách thức lớn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi, phát triển bền vững của doanh nghiệp và nền kinh tế trong thời gian tới

Thứ hai, chi phí đầu vào cho sản xuất xuất khẩu tại Việt Nam ở mức cao và có xu hướng tiếp tục gia tăng, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp tại các thị trường quốc tế. Sức ép này đến từ các yếu tố: giá dầu thế giới có thể sẽ bị đẩy lên mức cao, tình trạng thiếu hụt xăng dầu tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như: TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa được tháo gỡ, khiến chi phí vận chuyển tăng mạnh; tỷ giá USD/VND tăng mạnh trong bối cảnh trên 90% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, làm tăng chi phí đầu vào, đồng thời kéo theo sức ép lên mặt bằng giá sản xuất trong nước; lãi suất tăng nhanh làm chi phí vốn sản xuất của nhiều doanh nghiệp Việt Nam tăng cao; rủi ro đứt gãy, gián đoạn nguồn cung nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất vẫn hiện hữu khi Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “Zero Covid”.

Thiếu hụt dòng tiền ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh

Đáng chú ý, Ban IV nhấn mạnh thách thức đặc biệt lớn đối với quá trình phục hồi của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Theo đó, khó khăn về dòng tiền, bao gồm vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn đang đặt doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vào những tình thế hết sức cấp bách, khó khăn; ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của nhiều ngành, lĩnh vực và nội tại nền kinh tế trong nước.

Ngoài việc đơn hàng và thị trường sụt giảm khiến dòng tiền vào giảm mạnh ở nhiều ngành, Ban IV cũng chỉ rõ doanh nghiệp còn gặp thách thức đặc biệt lớn bởi 2 vấn đề đó là khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn để duy trì sản xuất, kinh doanh; duy trì các kênh huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng đầu tư, phục hồi doanh nghiệp.

Trong đó, thách thức về việc tiếp cận nguồn vốn khiến doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là rất lớn, bởi các doanh nghiệp hầu hết đều gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu mua và chuẩn bị nguyên vật liệu cho các kỳ sản xuất năm 2023, cũng như duy trì công ăn việc làm cho người lao động. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng do dòng tiền của các doanh nghiệp đã cạn kiệt sau hơn 2 năm dịch bệnh.

Ban IV dẫn phản hồi cụ thể của các doanh nghiệp ở một số ngành cho thấy, các khó khăn chưa từng có trong hoạt động sản xuất, kinh doanh do thiếu vốn, như doanh nghiệp ngành thép đối diện với “khủng hoảng lớn” khi cung vượt mạnh cầu, trong khi đơn hàng xuất khẩu lẫn đơn hàng trong nước đồng loạt giảm mạnh. Doanh nghiệp các ngành công nghiệp hỗ trợ hiện nay không được các ngân hàng giải ngân do áp lực về room tín dụng, nên doanh nghiệp không thể tiếp nhận và ký kết hợp đồng mới. Doanh nghiệp nông nghiệp thiếu vốn để thu mua nguyên liệu, trong khi một số nông sản (đặc biệt là các loại hạt nguyên liệu) lại có kỳ thu mua tập trung ở các tháng cuối năm và đầu năm 2023. Đặc biệt, doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng rơi vào tình trạng khủng hoảng khi bị dừng hầu hết hợp đồng cung ứng vật liệu cho các công trình; các hợp đồng đã hoàn tất lại không thể thanh toán do chủ đầu tư không có dòng tiền, không vay được ngân hàng để trả cho doanh nghiệp cung ứng vật liệu, các công trình trì trệ…

Theo đánh giá của Ban IV, sau hơn hai năm chịu những tác động hết sức tiêu cực bởi đại dịch Covid-19, ở thời điểm hiện tại lại gặp khó khăn đặc biệt về vốn, cùng với các khó khăn mang tính hệ thống lâu nay của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam về nền tảng quản trị, về công nghệ…, khiến phần lớn doanh nghiệp Việt đối diện với tình thế chông chênh để duy trì một phần hoạt động, trước khi có thể tính tới việc phục hồi.

Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI vốn có nền tảng quản trị hiệu quả, khoa học hơn, chịu ảnh hưởng ít nghiêm trọng hơn bởi đại dịch Covid-19, lại không phụ thuộc vào vốn vay từ các ngân hàng trong nước đang có nhiều lợi thế trong bối cảnh hiện nay. Số liệu xuất khẩu tháng 9 năm 2022 từ Tổng cục Thống kê cho thấy, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong khi các doanh nghiệp FDI vẫn giữ được tốc độ tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ tạo ra những khoảng cách và sự chênh lệch ngày càng lớn giữa hai thành phần kinh tế, làm sụt giảm sức cạnh tranh thực chất của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.

Khó khăn huy động vốn trung và dài hạn

Đối với thách thức về duy trì các kênh huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng đầu tư, phục hồi doanh nghiệp, theo báo cáo khảo sát của Ban IV, hiệu ứng sụt giảm niềm tin từ thị trường đối với các doanh nghiệp bất động sản đã lan rộng tới mọi loại hình doanh nghiệp khác, khiến kênh huy động trái phiếu không thể giúp doanh nghiệp thu hút được các nhà đầu tư trong ngắn hạn, để giải quyết các bài toán cấp bách.

Thị trường chứng khoán theo đó cũng chịu ảnh hưởng mạnh, làm khó khăn về vốn của doanh nghiệp thêm trầm trọng. Nhiều doanh nghiệp lớn phải bố trí nguồn vốn để mua lại trái phiếu trước hạn. Trong bối cảnh niềm tin thị trường xuống thấp, cạn vốn lưu động, cạn dòng đầu tư, các tài sản của doanh nghiệp có nguy cơ bị bán tháo; thậm chí thông tin từ doanh nghiệp, hiệp hội cho thấy, có thể xuất hiện làn sóng bán các nhà máy/cơ sở sản xuất của doanh nghiệp Việt cho nhà đầu tư nước ngoài (điển hình như doanh nghiệp Thái Lan đang tiến hành nhiều thương vụ đàm phán mua bán các nhà máy dệt may và sản xuất thuộc các lĩnh vực khác). Ban IV đặc biệt nhấn mạnh đây là thách thức không chỉ với doanh nghiệp Việt Nam, mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế vĩ mô.

Rào cản quy định pháp lý

Bên cạnh các thách thực hiện hữu nói trên, báo cáo của Ban IV cũng chỉ rõ các rào cản từ quá trình thực thi các quy định, pháp lý liên quan tới môi trường đầu tư, kinh doanh cũng đang gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp.

Thời gian qua, quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn hơn cho doanh nghiệp, giảm mọi chi phí để phục hồi kinh tế… đã mang lại những kết quả tích cực, được cộng đồng doanh nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, một số vấn đề gần đây trong quá trình các cấp, ngành thực thi các quy định, chính sách, khung pháp lý đã làm ảnh hưởng ít nhiều tới niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh. Các vấn đề được Ban IV chỉ ra bao gồm:

Vấn đề hoàn thuế VAT cho các mặt hàng xuất khẩu của ngành gỗ, cao su đang gặp nhiều trở ngại với quy trình xác minh nguồn gốc phức tạp, không nhất quán cách làm giữa các địa phương, không nhất quán giữa thời gian xác minh được công bố (40 ngày) với thời gian thực tế (có thể lên tới nhiều tháng thậm chí cả năm), làm đọng vốn với số tiền rất lớn của doanh nghiệp. Vấn đề này đã được Ban IV báo cáo Thủ tướng tại kỳ báo cáo tháng 4-5 năm 2021. Ở thời điểm hiện tại, việc chậm hoàn thuế càng tạo ra thách thức rất lớn cho doanh nghiệp vì họ đang gặp khó khăn về dòng tiền.

Việc đảm bảo quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng gây những dư luận không tốt trong cộng đồng doanh nghiệp thời gian qua, do các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực hiện việc lấy ý kiến doanh nghiệp (đối tượng chịu sự tác động của các quy định) một cách thực chất. Điển hình, vừa qua, Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu thông qua Luật Thực hiện Dân chủ ở cơ sở, trong đó, từ Điều 79 đến Điều 82 quy định thành lập “Ban Thanh tra nhân dân” tại các doanh nghiệp, với dự kiến ban đầu bao gồm cả doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước.

Tuy nhiên, nhiều hiệp hội phản ánh, ban soạn thảo Luật chưa thực hiện việc lấy ý kiến rộng rãi các đối tượng chịu sự ảnh hưởng, chưa đánh giá tác động kỹ lưỡng trước khi trình Quốc hội. Dù Quốc hội đã ghi nhận các khuyến nghị và bãi bỏ yêu cầu thành lập Ban Thanh tra nhân dân tại các doanh nghiệp tư nhân, nhưng quá trình này đã tạo ra các quan ngại trong cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và các Đại sứ quán đang hiện diện tại Việt Nam về tính đồng bộ giữa chủ trương của Chính phủ với khâu thực thi của các bộ, ngành.

Kiến nghị loạt giải pháp gỡ khó cho doanh nghiệp

Để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, thách thức cho cộng đồng doanh nghiệp, Ban IV và các hiệp hội đưa ra loạt giải pháp kiến nghị Thủ tướng sớm triển khai thực thi.

Theo đó, để khắc phục phần nào các khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt để giảm sự bị động về tín hiệu thị trường, đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp với các bộ chuyên ngành cung cấp thường kỳ các thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp. Đặc biệt, cần khẩn trương tiến hành các cuộc bàn tròn công - tư nhằm phân tích các giải pháp tối ưu thị trường, tìm kiếm thị trường thay thế hoặc bổ sung trong bối cảnh một số thị trường truyền thống của cả nhập khẩu, xuất khẩu đều gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình này, còn cần chú trọng phân tích các xu hướng và yêu cầu mới sẽ phát sinh ở các thị trường, đặc biệt xu hướng thiết lập các hàng rào kĩ thuật gắn với mục tiêu xanh hóa, giảm phát thải do các liên minh xanh đang thúc đẩy trên phạm vi toàn thế giới.

Để hỗ trợ nỗ lực phục hồi của doanh nghiệp, đặc biệt là với các doanh nghiệp tư nhân trong nước trong bối cảnh họ đối diện với khó khăn rất lớn về dòng tiền, Ban IV đề xuất Chính phủ xem xét kéo dài tới hết năm 2023 một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả thiết thực trong giai đoạn đại dịch Covid-19, như: chính sách giảm 2% thuế VAT, chính sách giãn/hoãn áp dụng biểu giá thuê đất mới theo Nghị định số 96/2019/NĐ-CP, ngày 19/12/2019 của Chính phủ; các chính sách tín dụng như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ,...

Đối với việc duy trì niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam, đề xuất Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện nghiêm túc, thực chất quy trình tham vấn, lấy ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan, không chỉ lấy ý kiến một vài đơn vị mang tính đại diện; đồng thời tập trung rà soát, cải thiện, đẩy mạnh trực tuyến hóa một số nhóm quy trình, thủ tục có tần suất thực hiện lớn và có ảnh hưởng tới hầu hết doanh nghiệp như nhóm thủ tục về: khởi sự kinh doanh; thương mại; các thủ tục, quy trình về đầu tư, thuế… và tháo gỡ trọng tâm các kiến nghị về hoàn thuế cho doanh nghiệp ngành gỗ, cao su.

Để ứng phó với thách thức liên quan thị trường tài chính, Ban IV đề xuất Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tham vấn các chuyên gia tài chính, chính sách uy tín trong nước, quốc tế để đánh giá bối cảnh và nhận diện giải pháp. Trường hợp cần thiết, đề xuất tính tới các giải pháp đặc biệt trong giai đoạn nhất định nhằm giải nguy cho doanh nghiệp và nền kinh tế, như cho phép các ngân hàng thương mại trong nước tham gia mua lại các trái phiếu sắp tới hạn và xử lý như một dạng tín dụng. Đặc biệt, ngoài tín dụng thông thường, vì lượng trái phiếu sắp tới hạn có giá trị vượt rất nhiều lần khả năng mua lại của một số tổng công ty nhà nước như: Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).

Bên cạnh đó, để gia tăng hiệu quả sử dụng hạn mức tín dụng năm 2023, giúp dòng vốn hỗ trợ được cho doanh nghiệp ở nhiều ngành, lĩnh vực, đề xuất Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước làm việc với các ngân hàng thương mại để nghiên cứu, thiết kế các gói tín dụng ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực sản xuất chủ lực trong nước, trong đó có những khoản mục dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để không triệt tiêu năng lực doanh nghiệp. Mặt khác, với chính sách siết tín dụng đối với bất động sản, cần thiết phải phân tách các loại bất động sản để các loại hình như: xây dựng nhà ở xã hội, bệnh viện, trường học, các dự án xây dựng hạ tầng sản xuất..., không bị ảnh hưởng tiêu cực theo chính sách chung, từ đó tạo cơ hội cho nhiều nhóm doanh nghiệp liên quan./.

Theo khảo sát của Ban IV, hàng loạt các doanh nghiệp trong các ngành đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thậm chí đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Cụ thể:

- Doanh nghiệp ngành thép đối diện với “khủng hoảng lớn” khi cung vượt mạnh cầu, trong khi đơn hàng xuất khẩu lẫn đơn hàng trong nước đồng loạt giảm mạnh. Nhiều doanh nghiệp phải bán sản phẩm thấp hơn giá vốn 30%-40%, để có dòng tiền hoạt động với chi phí lãi vay rất cao, trong lúc chờ đợt phân bổ chỉ tiêu tín dụng tiếp theo.

- Doanh nghiệp các ngành công nghiệp hỗ trợ trước đây có thể sử dụng hợp đồng đã ký kết hoặc thế chấp bất động sản để vay vốn, nhưng hiện nay các ngân hàng không giải ngân do áp lực về room tín dụng, nên doanh nghiệp không thể tiếp nhận và ký kết hợp đồng mới. Mặt khác, đối với một số thị trường khó tính, do những cải tiến về quy mô, cam kết môi trường và chất lượng sản phẩm, khách hàng, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư máy móc, công nghệ mới nhưng do thiếu vốn, doanh nghiệp không thể đáp ứng yêu cầu này, dẫn tới nguy cơ không thể duy trì vị trí trong chuỗi.

- Doanh nghiệp nông nghiệp phản ánh về việc thiếu vốn để thu mua nguyên liệu, trong khi một số nông sản (đặc biệt các loại hạt nguyên liệu) lại có kỳ thu mua tập trung ở các tháng cuối năm và đầu năm 2023. Thời gian thu mua gấp, lượng vốn cần lớn nhưng doanh nghiệp Việt Nam lại không thể tiếp cận tín dụng, nên dự báo rất khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

- Doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng bị dừng hầu hết hợp đồng cung ứng vật liệu cho các công trình; các hợp đồng đã hoàn tất lại không thể thanh toán do chủ đầu tư cũng không có dòng tiền, không vay được ngân hàng để trả cho doanh nghiệp cung ứng vật liệu. Bên cạnh đó, việc xây dựng bằng vốn đầu tư công cũng đang đình trệ, khiến nhóm doanh nghiệp này thực sự khủng hoảng.