TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG” VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.78 KB, 13 trang ) 1 Trong khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động cần phải có một lý luận cách mạng, khoa học về nhà nước để thực hiện nhiệm vụ giành chính quyền thì những thủ lĩnh cơ hội chủ nghĩa 1 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr3 2 2 của quốc tế hai, tiêu biểu là E.Béts tanh, Cauxky, lại tìm mọi cách chống lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác về nhà nước và cách mạng. Bọn theo chủ nghĩ vô chính phủ cũng đưa ra nhiều luận điểm chống chủ nghĩa Mác về vấn đề này. Trên thực tế, sự tuyên truyền đó đã ảnh hưởng khá nặng nề trong phong trào công nhân. Vì thế “ Không đấu tranh chống những thiên kiến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề “nhà nước” thì không thể đấu tranh giải phóng quần chúng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa nói riêng được” 2. Mặt khác cuộc cách mạng tháng hai nổ ra và giành thắng lợi. Nhưng cách mạng phát triển đến tháng bảy, tháng tám thì kết thúc, cách mạng chuyển vào thời kỳ hoà bình ( hai chính quyền song song tồn tại). Sự kết thúc này hoàn toàn có lợi cho giai cấp tư sản, còn Xô viết do đảng xã hội do Đảng xã hội cách lãnh đạo thì trở thành vật phụ thuộc vào chính phủ lâm thời. Khi thời kỳ cách mạng phát triển hoà bình kết thúc, vấn đề súng gươm đã được đặt lên chương trình nghị sự, thì nhiệm vụ lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản trở thành nhiệm vụ trực tiếp. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, theo V.I. Lênin, nhiệm vụ cấp thiết lúc này là phải đấu tranh gạt bỏ những quan niệm sai lầm bảo vệ chủ nghĩa Mác, vũ trang cho Đảng của giai cấp công nhân, cho quần chúng cách mạng đang đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội lý luận khoa học về nhà nước. Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” gồm 7 chương Chương 1: xã hội có giai cấp và nhà nước Chương 2: Nhà nước và cách mạng, kinh nghiệm 1848- 1851 Chương 3: Nhà nước và cách mạng, kinh nghiệm công xã Pa-ri 1871, sự Phát triển của Các Mác Chương 4: Tiếp theo những lời giải thích bổ sung của Ph.Ăng-ghen Chương 5: Cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong Chương 6: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hoá chủ nghĩa Mác Chương 7: nhà nước và cách mạng 1905- 1917 Tuy nhiên trong quá trình viết tác phẩm V.I.Lênin bận vào việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền do đó chương 7 và phần kết luận chưa được viết. II. Một số nội dung cơ bản của tác phẩm 2V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr4 3 3 Sau khi C.Mác và Ph. Ăng-ghen qua đời giai cấp tư sản và bọn cơ hội chủ nghĩa chúng lãng quên, xoá nhoà chúng xuyên tạc học thuyết chủ nghĩa Mác về nhà nước vì vậy đòi hỏi V.I.Lênin cần phải bảo vệ và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về nguồn gốc, bản chất , đặc trưng của nhà nước…. 1. V.I. Lênin bảo vệ và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về vấn đề nguồn gốc, bản chất , đặc trưng nhà nước. Các nhà kinh điển đã chứng minh rằng không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp . Theo Lênin vấn đề nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước và ý nghĩa lịch sử của nhà nước, luôn luôn đã và sẽ là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa các quan điểm đối lập trong lịch sử. Trước tình hình chống phá của chủ nghĩa tư bản và các thế lực thù địch xuyên tạc về vấn đề nhà nước Lênin đã chỉ ra hai khuynh hướng chủ yếu đó là : Thứ nhất: Khi buộc phải thừa nhận ở đâu có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì ở đó có nhà nước, thì họ lại cho rằng nhà nước là cơ quan điều hoà giai cấp đồng nhất việc nhà nước sử dụng lực lượng, biện pháp để “làm dịu xung đột giai cấp” vì lợi ích của giai cấp thống trị với điều hoà giai cấp Thứ hai: Khi không thể chối cãi được nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, thì họ lại “bỏ quên” hoặc “phản đối” việc tiến hành cuộc cách mạng bạo lực để thủ tiêu bộ máy chính quyền nhà nước do giai cấp thống tri dựng nên. Từ những vấn đề đó Lê nin cho rằng chúng ta trước hết là phải khôi phục học thuyết chân chính và người đã khẳng định chỉ có chỉ có chủ nghĩa Mác mới đưa ra được câu trả lời khoa học và đúng đắn cho câu hỏi thế nào là nhà nước, tại sao trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhà nước lại có những hình thức và vai trò khác nhau. * Về nguồn gốc của nhà nước: Lênin chỉ rõ “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ ở lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại : sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”3. 3V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr9 4 4 Từ quá trình nghiên cứu thấy rằng thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự quản của nhân dân, lúc này nhà nước chưa xuất hiện. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản tan rã, các nhà kinh điển đã chỉ ra có các nguồn gốc đó là: Có các cách tiếp cận khác nhau như xét ở góc độ kinh tế. Một là : Sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động, đã cho phép có thể tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay dơn vị gia đình. Sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự phát triển sản xuất. Từ công cụ được cải tiến người ta có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu cho sự tồn tại của mình. Đây là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người có chức có quyền chiếm đoạt những sản phẩm dư thừa đó. Hai là: Một bộ phận có quyền lực khát vọng muốn chiếm, tước đoạt sản phẩm dư thừa, làm xuất hiện giai cấp, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Xét ở góc độ thứ hai : về chính trị nhà nước ra đời từ mâu thuẫn và đối kháng giai cấp * Về bản chất của nhà nước: Theo V.I.Lênin nhà nước là cơ quan thống trị giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với các giai cấp trong xã hội. Trong chế độ cũ nhà nước là một lực lượng đặc biệt để trấn áp giai cấp bị áp bức, cho nên “Nhà nước nào cũng là một lực lượng đặc biệt để trấn áp”giai cấp bị áp bức. Cho nên, bất kỳ nhà nước nào cũng đều không tự do, đều không có tính nhân dân” 4. Bản chất nhà nước chỉ có một, nhưng những hình thức nhà nước thì phong phú. Song hình thức nào cũng chỉ là nền chuyên chính của một giai cấp, là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp các giai cấp khác. Sự khác nhau về bản chất của nhà nước được thể hiện tập trung ở chỗ nhà nước đó trấn áp ai, phục vụ và bảo vệ lợi ích cho ai. Lênin viết “ Những người lao động cần có nhà nước là chỉ để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột mà lãnh đạo việc trấn áp ấy, thực hành việc trấn áp ấy, thì chỉ có giai cấp vô sản mới có thể làm được…các giai cấp bóc lột cần đến quyền thống trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa số nhân dân. Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu hoàn toàn sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện đại, tức 4V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25 5 5 là bọn địa chủ và bọn tư bản”5. V.I.Lê nin tiếp tục tư tưởng của Mác và Ph.Ăng-ghen và cho rằng nhà nước chính là bộ máy bạo lực có hệ thống, là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Lê nin đã dùng lịch sử để chứng minh không có nhà nước của nhiều giai cấp, nhà nước phi giai cấp mà nhà nước chỉ là của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp có thế lực mạnh nhất về kinh tế, chính trị trong xã hội. Lê nin đã nhấn mạnh tư tưởng của Ph. Ăng –ghen “Theo một quy luật chung, nó là nhà nước của giai cấp mạnh nhất, giữa địa vị thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do có thêm được những phương tiện mới để trấn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức” 6. Tuy nhiên V.I. Lê nin cũng chỉ rõ những trường hợp ngoại lệ nhà nước “tựa hồ” như một bên trung gian đứng giữa các giai cấp đang đấu tranh ở thế “cân bằng” lực lượng tạm thời. Chẳng hạn như chế độ quân chủ chuyên chế vào thế kỷ XVII và XVIII như : chế độ Bô na pác tơ của chế độ thứ nhất và thứ hai ở pháp, chế độ Bixmác ở Đức. Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp nào đó, các giai cấp bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa số nhân dân. Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản. Bọn dân chủ tiểu tư sản, tức là bọn giả danh xã hội chủ nghĩa, vẫn lấy mộng tưởng thoả hiệp giai cấp để thay cho đấu tranh giai cấp, họ hình dung ngay cả việc cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng theo cách mộng tưởng, không phải dưới hình thức lật đổ nền thống trị của giai cấp bóc lột, mà là dưới hình thức số ít êm ái phục tùng số đông đã có ý thức về nhiệm vụ của mình. Thực tế lịch sử mang lại nhiều bằng chứng nói nên rằng , dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, dù có bị khúc xạ qua những năng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối vơí một giai cấp khác. * Về đặc trưng cơ bản của nhà nước: Kế thừa tư tưởng của Ph.Ăng-ghen V.I.Lê nin khẳng định nhà nước có hai đặc trưng cơ bản: 5V.I.Lênin, 6V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr31 tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr16 6 6 Một là : Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Trong tác phẩm Lê nin viết “ Đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân trong quốc gia theo sự phân chia theo lãnh thổ”7. Cách phân chia ấy chúng ta tháy tựa hồ như là tự nhiên, nhưng nó đã phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài với tổ chức cổ xưa theo tông tộc. Đây là đặc trưng làm rõ sự khác biệt của nhà nước với các hình thức tổ chức thị tộc bộ lạc. Các tổ chức thị tộc bộ lạc được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa bàn. Hai là : Có một hệ thống cơ quan quyền lực chuyên nghiệp, hình thành hệ thống thuế khoá. Lê nin đã kế thừa tư tưởng của Ph. Ăng ghen đó là “Sự thiết lập một quyền lực xã hội, quyền lực này không còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Quyền lực xã hội đặc biệt đó là cần thiết vì từ khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì không thể có tổ chức vũ trang tự động của dân cư được nữa…quyền lực xã hội đó tồn tại ở mọi quốc gia. Muốn duy trì quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên trên xã hội, thì phải có thuế và quốc trái. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thúe khoá, bộ máy cai trị của giai cấp thống trị sở dĩ tồn tại được là do sống bám vào những thần dân mà nó thống trị. Chính vì vậy Lênin đã đưa ra tư tưởng của Ph. Ăng-ghen “Nắm được quyền lực xã hội và quyền thu thuế, bọn quan lại với tư cách là những cơ quan của xã hội được đặt lên trên xã hội. Lòng tôn kính tự do, tự nguyện trước kia của người ta đối với các cơ quan của xã hội thị tộc (bộ tộc), thì nay đối với bọn quan lại không còn đủ nữa, ngay cả trong trường hợp nếu họ có thể tranh thủ được sự tôn kính đó”8. 2. Tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô và nhà nước chuyên chính vô sản. Từ việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác về các vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, về nhà nước, V.I.Lênin cho rằng cái chủ yếu trong học thuyết của Mác không phải là đấu tranh giai cấp “ Đóng khung chủ nghĩa Mác trong học thuyết đấu tranh giai cấp là cắt xén, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu nó lại thành cái mà giai cấp tư sản có thể tiếp nhận được. Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người mác xít”9. Lênin khẳng định chuyên chính vô sản là vấn đề trọng tâm cơ bản mà Mác và Ph.Ăng-ghen đề cập trong học thuyết cách mạng của mình. Và chỉ ra thực chất của 7V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr11 8 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr15 9 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25 7 7 chuyên chính vô sản, chuyên chính vô sản là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản là phương thức, là phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân. V.I.Lênin cho rằng chưa bao giờ có một giai cấp bị áp bức nào đạt được địa vị thống trị mà lại không trải qua một thời kỳ chuyên chính, nghĩa là lại không giành chính quyền và không dùng bạo lực để đè bẹp sự kháng cự tuyệt vọng nhất, chẳng từ bất cứ một tội ác nào, một sự kháng cự mà bọn bóc lột luôn luôn tiến hành. Người cũng chỉ ra tiêu chuẩn để phânbiệt dánh giá người mác xít với người phi mác xít, cơ hội không phải chủ yếu ở chỗ thừa nhận hay không thừa nhận đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Theo Mác đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên vô sản và chuyên chính vô sản là bước quá độ để đi đến thủ tiêu giai cấp. Chỉ có thừa nhận tư tưởng quan trọng, mới mẻ này của Mác mới là người mác xít. Những người theo chủ nghĩa cơ hội đã không thừa nhận trên thực tế tư tưởng này của Mác. Lênincho rằng chuyên chính vô sản xét về phương diện giai cấp thì đó là “giai cấp vô sản được được tổ chức thành giai cấp thống trị” và về mặt nhà nước thì đây là nhà nước kiểu mới, nhà nước quá độ, nhà nước không nguyên nghiã, hay nhà nước nửa nhà nước. Bởi lẽ nhà nước theo đúng nghĩa của từ này thì đó là tổ chức của giai cấp thống trị, bóc lột dùng để thống trị các giai cấp khác trong xã hội. Lênin viết “Chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp tất yếu không những cho mị xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp”, đến chế độ cộng sản chủ nghiã, chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học thuyết Mác về nhà nước”10. Trên cơ sở phân tích sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước tư sản Lênin đã dự báo thiên tài về tính phong phú của các hình thức nhà nước chuyên chính vô sản. trong tác phẩm viết “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luậnthế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản. Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghiã cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rát nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là chuyên chính vô sản” 11. Dự báo về tính phong phú 10V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr43-44 11V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr44 8 8 của các hình thức nhà nước chuyên chính vô sản của Lênin có ý nghĩa hết sức to lớn trong tổ chức xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản. Nó là cơ sở lý lận cho giai cấp vô sản trong tổ chức nhà nước của mình cho phù hợp với tình hình của mỗi nước. Mặt khác Lê nin cũng chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa nhà nước của giai cấp tư sản và nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột nói chung với nhà nước chuyên chính vô sản trên một số nội dung đó là : Một là: Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước do nhân dân lao động xây dựng nên, dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp vô sản. nó là công cụ sắc bén của nhân dân thực hiện nhiệm trấn áp và tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai là :Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, thực hiện dân chủ theo lối mới và chuyên chính theo lối mới. Theo Lênin nhà nước vô sản vẫn phải thực hiện chức năng trấn áp, nhưng chức năng trấn áp của nhà nước vô sản khác với trấn áp của nhà nước của các giai cấp thống trị bóc lột. Lê nin chỉ ra “Nhà nước dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, hơn nữa lại là tiểu số đối với đa số. Một thiểu số người bóc lột người muốn tiến hành có kết quả việc trấn áp thường xuyên một đa số người bị bóc lột thì đương nhiên phải hung ác, tàn bạo đến cực độ trong sự trấn áp, phải gây ra hành bể máu mà nhân loại đã từng trải qua dưới chế độ nô lệ, chế độ nông nô và chế độ lao động làm thuê” 12. Người chỉ ra trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn còn tất yếu nhưng nó đã là trấn áp của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Vì vậy sự trấn áp ấy “dễ dàng” ít tốn máu hơn…sự trấn áp ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân. Lênin chỉ rõ “xã hội tư bản chủ nghĩa,xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều đâyd đủ trong chế độ cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra nó luôn luôn là một chế độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp của nó…đa số nhân dân bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị xã hội”13. Ba là : Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước tự tiêu vong. Lê nin cho rằng sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp vô sản thì việc trấn áp vẫn rất cần thiết nhưng lực 12V.I.Lênin, 13V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr110-111 tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr107 9 9 lượng trấn áp là đa số nhân dân lao động đi trấn áp những kẻ đi áp mình. Do đó “không cần phải có lực lượng đặc biệt” để trấn áp nữa. Theo nghĩa đó, nhà nước bắt đầu tiêu vong. Phát triển luận điểm của Mác và Ph.Ăng ghen về sự tiêu vong của nhà nước chuyên chính vô sản, V.I.Lênin đã chỉ ra cơ sở kinh tế xã hội cho sự tiêu vong. * Về mặt kinh tế xã hội: Để nhà nước chuyên chính vô sản tiêu vong hoàn tòan: khi nhà nước chuyên chính vô sản đã trở nên thừa và hoàn toàn không cần thiết nữa, khi sự phản kháng của các thế lực thù đich đã hoàn toàn bị đập tan, khi bọn tư bản đã hoàn toàn bị đập tan, khi đó xã hội không còn giai cấp khi đó mọi người trong xã hội tô trọng những qui tắc chung của cộng đồng, các qui tắc ấy đã rẻơ thành phong tục tập quán. Lúc đó mọi người tự giác tôn trọng các qui tắc không cần phải cưỡng bức không cần phải bắt buộc. V.I.Lênin đã viết “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới làm cho nhà nước trở nên hoàn toàn không cần thiết, vì lúc bấy giờ không còn ai trấn áp, chữ “ai” hiểu theo nghĩa là giai cấp, không còn phải đấu tranh có hệ thống chống một bộ phận dân cư nhất định nào đó”14. Về cơ sở kinh tế để nhà nước vô sản tiêu vong hoàn toàn đó là Chủ nghĩa cộng sản đạt tới một trình độ phát triển cao, khiến cho mọi sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay không còn nữa. Khi, đối với mọi người, lao động đã trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống, khi của cải đã tuôn ra dồi dào và xã hội thực hiện theo nguyên tắc làm hết năng lực hưởng theo nhu cầu V.I.Lênin viết “ Cơ sở kinh tế làm cho nhà nước tiêu vong hoàn toàn là chủ nghĩa cộng sản đạt tới một trình độ phát triển cao khiến mọi sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay không còn nữa, và do đó cũng không còn một trong những nguồn gốc chủ yếu của sự bất bình đẳng xã hội hiện nay, nguồn gốc này, nếu chỉ xã hội hoá tư liệu sản xuất,chỉ tước đoạt bọn tư bả thì không thể nào tiêu tan được ngay”15. Để giai cấp vô sản và quần chúng hiểu đúng đắn vấn đè tiêu vong của nhà nước chuyên chính vô sản, V.I.Lênin còn chỉ ra thời gian và tính chất của quá trình tự tiêu vong, Người khẳng định “Không thể nào ấn định được lúc nào nhà nước sẽ “tiêu vong” nhất là vì sự tiêu vong ấy lại rõ ràng là một quá trình lâu dài” 16. Quá trình ấy bắt đầu từ khi chuyên chính vô sản được thiết lập và kết thúc xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình ấy diễn ra như thế nào, chậm chạp hay nhanh chóng phụ thuộc rất nhiều 14V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr111 15V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr118 16 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr103 10 10 vào tốc độ phát trển của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự tiêu vong của nhà nước cũng có nghĩa là “chế độ dân chủ tiêu vong” và đó cũng chính là mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi”. V. I. Lênin cho rằng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản đó là giai đoạn thấp hay gọi là chủ nghĩa xã hội, thì nhà nước lúc này vẫn chưa tiêu vong hẳn. Sở dĩ nhà nước trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa tiêu vong hẳn. Vì vẫn còn duy trì pháp quyền tư sản, bởi nó chưa bị xoá bỏ hoàn toàn mà mới bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã hoàn toàn, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. Đến giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản thì nhà nước tiêu vong, quá trình tiêu vong của nhà nước diễn ra theo tuần tự, tan dần, mất dần, lịm dần đi cùng với sự phát triển của tiền đề kinh tế chính trị xã hội, hai giai đoạn này có sự khác nhau rất lớn về mặt chính trị. 3. Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nước của giai cấp tư sản hiện nay và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước sự thay đổi của tình hình kinh tế thế giới đầu thế kỷ XX, kẻ thù của chủ nghĩa Mác đã có những luận điệu phản động nhằm biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước tư sản, chúng cho rằng nhà nước tư sản hiện nay đã thay đổi bản chất, nó không phải là nhà nước bóc lột, mà đó là nhà nước “phúc lợi chung”, “nhà nước phi giai cấp”, chúng ra sức tuyên truyền cho nhân dân tư tưởng sai lầm để chống lại những lý luận chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội. Để đập tan những quan điểm phản động đó, đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng V.I. Lênin đã vạch trần bản chất của nhà nướcc tư sản “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một : chung quy lại thì tất cả nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản” 17. Bản chất của nhà nước tư sản không phải là cái trừu tượng, phi hiện thực mà bản chất dó được bộc lộ ra qua nhiều hiện tượng, trong đó ở cả việc thực hiện chế độ cộng hoà dân chủ tư sản. C.Mác đã từng chỉ rõ, chế độ cộng hoà dân chủ không hề mảy may xoá bỏ sự áp bức của quần chúng và đấu tranh giai cấp, nên tất nhiên nó sẽ khiến cho cuộc đấu tranh mở rộng và phát triển. Vì vậy “chế độ cộng hoà dân chủ là con đường ngắn nhất đưa dến chuyên vô sản”18. Kế thừa tư tưởng đó V.I.Lênin đã yêu cầu chúng ta “ủng hộ chế độ cọng hoà dân chủvì nó là hình thức nhà nước tốt nhất cho giai cấp vô sản 17V.I.Lênin, 18V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr44 tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr87 11 11 dưới chế độ tư bản chủ nghĩa”19. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra dân chủ tư sản cũng chính là công cụ thống trị của giai cấp tư sản mà thôi, Người viết “Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại ch ta một ché độ dân chủ ít nhiều trong chế độ cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khuôn khổ trật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó luôn là một chế độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế đọ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi. trong xã hội tư bản chủ nghĩa…đa số nhân dân bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị-xã hội”20. Thực tế đã và đang chứng minh rõ bản chất của nhà nước tư sản không thay đổi theo sự thay đổi về hình thức tổ chức và những giai đoạn phát triển nhất định và vào sự điều chỉnh thích nghi của nó. Nhà nước vô sản vẫn là lực lượng đặc biệt để trấn áp của giai cấp tư sản đối với giai cấp vo sản và quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy chúng ta không được quên rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân dân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Để giải phóng giai cấp và quần chúng nhân lao động thoát khỏi cảnh làm thuê đố, tất yếu phải thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước của giai cấp vô sản. Nhưng sự thay thế đó không thể dùng sắc lệnh hay bằng đấu tranh trên nghị trường, hay tự tiêu vong được mà đó phải thông qua bạo lực cách mạng. Người viết “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản(chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”21. Lênin khẳng địnhk không có cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Tuy nhiên cần phải thấy rằng Lênin không bao giờ xác định phương pháp cách mạng bạo lực là phương pháp duy nhất và cũng không phải khẳng định học thuyết của chủ nghĩa Mác chỉ có bàn về tư tưởng cách mạng bạo lực. III. ý nghĩa của tác phẩm và tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nướcc ta hiện nay. Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” ra đời có giá trị cả về lịch sử và thực tiễn hiện nay. Nó đã đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của tình hình thực tiễn cách mạng, trang bị cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động những nhận thức đầy đủ sâu sắc về vấn đề nhà nước và sự 19V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25 20 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr106-107 21V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr27 12 12 cần thiết phải làm cách mạng để thiết lập nhà nước do nhân dân làm chủ, mang bản chất của giai cấp vô sản. Qua tác phẩm chúng ta thấy lần đầu tiên lý luận vè nhà nước được trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất, và những vấn đề đó được giải thích một cách khoa học và hoàn thiện nhất có chiều sâu và mẫu mực thể hiện tính Đảng chống kẻ thù, chống lại bọn cơ hội xét lại. Hiện nay tác phẩm vẫn còn giữ nguyên giá trị và có tính thời sự của nó, những tư tưởng cơ bản trongh tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và cách mạng của nó. Trong tình hình hiện nay chỉ có nắm vững thực chất và vận đúng những tư tưởng của Lênin trong tác phẩm mới có cơ sở vững chắc để xem xét vấn đề nhà nước đương đại một cách đúng đắn và mới xây dựng và phát triển hoàn thiện được nàh nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới và hoàn nhà nước theo hớng xây dựng nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã trở thành vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp bách. Với sự kế thừa những quan điểm lý luận chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, luôn giữ vững và phát huy bản bản chất cách mạng của một nhà nước của dân do dân. Trong tình hình hiện nay trước sự biến động to lớn về mặt chính trị và kinh tế xã hội của thế giới và tronh nước. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô và các nước ở Đông Âu đang lâm vào thoái trào, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản không giữ vị trí chgủ đạo. Chủ nghĩa đế quốc luôn tìm mọi cách chống phá các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đạc biệt nam chúng ta là một trọng điểm, chúng chống phá trên nhiều phương diện cả về kinh tề, chính trị-xã hội, văn hoá đạo đức lối sống, an ninh trật tự, chia rẽ mối đoàn kết toàn dân tộc… đặc biệt vấn đề nhà nước về cách mạng con đường đi lên chủ ghĩa xã hội. Vì vậy đòi hỏi cần phải xây dựng nhà nước thực sự trong sạch, có trình độ đáp ứng được yêu cầu tình hình mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việc đổi mới và hoàn thiện nhà nước ta theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Xây dựng nhà nước pháp quyền là nhằm giữ vững ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là nhằm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, nước độc lập dân mới được hạnh phục ấm no, thực hiện người dân được làm chủ thực sự chống dân chủ hình thức, và mọi quyền lợi bị xâm phạm. Ngày càng phải củng cố và hoàn thiện để nhà nước hoàn thành sứ mệnh của mình mà nhân dân giao phó. Trong giai đoạn 13 13 hiện nay để nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân,một nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ đó là cần đỏi mới, nâng cao chất lượng cong tác lập pháp và giám tối cao của quốc họi đói với toàn bộ hoạt dộng của nhà nước, cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hànhchính tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức, cải cáh tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, thấy rõ đâylà một nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của hệ thóng chính trị nói chung và đối với nhà nước nói riêng. Mặt khác cũng cần phải kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp chiến lược nhằm vừa hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa sử lý nghiêm, kịp thời sử lý mọi hành vi tội phạm, kiên quyết đấu tranh chống phá của kẻ thù và chiến lược diễn biến hoà bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. |