Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ

Câu 6: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong "Ra-ma buộc tội"


1. Giá trị nội dung

  • Đoạn trích cho chúng ta thấy được quan niệm của người ấn Độ cổ đại về người anh hùng, về đường quân vương mẫu mực và về người phụ nữ lí tưởng trong xã hội. Đồng thời đoạn trích cũng đã xây dựng hình tượng người anh hùng gần gũi với đời thường, trọng danh dự (sẵn sàng hi sinh tình yêu để bảo vệ danh dự) và xây dựng hình tượng người phụ nữ lí tưởng mạnh mẽ: sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh tình yêu và đức hạnh của mình.

2. Giá trị nghệ thuật

  • Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
  • Xây dựng nhân vật lí tưởng với tâm lí, tính cách, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ
  • Xây dựng tình huống đầy mâu thuẫn, kịch tính
  • Giàu yếu tố sử thi


Trắc nghiệm ngữ văn 10: bài Ra-ma buộc tội

Câu 6: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong "Ra-ma buộc tội"

Bài làm:

1. Giá trị nội dung

  • Đoạn trích cho chúng ta thấy được quan niệm của người ấn Độ cổ đại về người anh hùng, về đường quân vương mẫu mực và về người phụ nữ lí tưởng trong xã hội. Đồng thời đoạn trích cũng đã xây dựng hình tượng người anh hùng gần gũi với đời thường, trọng danh dự (sẵn sàng hi sinh tình yêu để bảo vệ danh dự) và xây dựng hình tượng người phụ nữ lí tưởng mạnh mẽ: sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh tình yêu và đức hạnh của mình.

2. Giá trị nghệ thuật

  • Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
  • Xây dựng nhân vật lí tưởng với tâm lí, tính cách, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ
  • Xây dựng tình huống đầy mâu thuẫn, kịch tính
  • Giàu yếu tố sử thi

Cập nhật: 07/09/2021

KẾT LUẬN


Thần thoại Ấn Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình và tinh thần nhân đạo sâu sắc – đó là truyền thống bất hủ của văn học nghệ thuật Ấn Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ XX, các thế hệ văn nghệ sĩ Ấn Độ luôn luôn lấy đề tài thần thoại và mượn nó làm phương tiện miêu tả. Các nhà thơ lớn như Kalidasa ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV-XVI, Tunxidat ở thế kỷ XVI-XVII, R.Tagore (1861-1941) vv…đã vận dụng thần thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình yêu, đất nước giàu đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học xuất sắc.

Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị lãng quên trong thế giới huyền bí, hư vô.

Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Câu chuyện “Dạ thoa vương” trong cuốn “Lĩnh nam chích quái” chịu ảnh hưởng motif quỉ vương Ravana của thần thoại Ấn Độ.

&



CHƯƠNG III. SỬ THI ẤN ĐỘ

Sau giai đoạn văn học thần thoại Veda, tiếp đến giai đoạn sử thi-anh hùng ca. Sử thi Ấn Độ ra đời trong chế độ phong kiến quân chủ .

Sử thi (cũng gọi anh hùng ca) là bức tranh sinh động phản ánh đời sống và tư tưởng nhân dân Ấn Độ trong một thời đại có nhiều cuộc chiến tranh giữa các vương quốc, chủng tộc trên đất nước Ấn Độ cổ đại. Nó cũng là những bài ca vĩ đại ca ngợi chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của những bậc anh hùng được nhân dân đề cao, ngưỡng mộ và lí tưởng hoá.

Có hai bản sử thi lớn nhất là Ramayana và Mahabharata khiến thế giới phải kinh ngạc về tấm vóc hoành tráng của nó.

Những bản sử thi đó mở ra một thời đại hoàng kim trong văn học Ấn Độ.



SỬ THI RAMAYANA

( Kì tích của hoàng tử Ra ma)

1. Vài nét về tác phẩm

Ramayana, thiên anh hùng ca vĩ đại ra đời khoảng bốn, năm trăm năm trước công nguyên, được ghi lại thành văn bản vào đầu công nguyên.

Ban đầu, câu chuyện về hoàng tử Rama được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, về sau được nhà thơ Vanmiki ghi chép lại thành văn vần.Từ đó về sau, câu chuyện còn qua tay gọt giũa của nhiều thi sĩ vô danh và lời kể của nhiều nghệ nhân, ngày nay không còn nguyên bản của Vanmiki nữa.

Bộ sách bằng tiếng Sanskrit, gồm 500 đoạn chia thành 12 cuốn gồm 24000 câu thơ đôi(sloka)

Ở Ấn Độ, Ramayana còn được soạn ra nhiều thứ tiếng dân tộc, cải biên thành tuồng kịch, ca, múa và các hình thức nghệ thuật khác. Dân chúng khắp nơi ai cũng yêu thích. Người Ấn Độ từng nói “chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ramayana vẫn còn say mê lòng người và cứu giúp họ ra khỏi vòng tội lỗi”.

Ramayana đã được phổ biến đến nhiều nước ở Đông Nam Á. Có nước đã mượn cốt truyện để sáng tác ra những truyện mang mầu sắc riêng của dân tộc mình như truyện Rama Kiên ở Thái Lan, Riêmkê ở Cam pu chia, Phallahk Phallahm ở Lào, Ramayana của đân tộc Chăm (Champa/ Chăm) và truyên cổ tích Dạ thoa vương của người Việt.



2. Cốt truyện

Ngày xưa ở kinh đô Ayodhya thuộc vương quốc Kosalah, có ông vua già yếu tên là Daxaratha muốn nhường ngôi cho con trưởng là Rama. Sau ông lại nghe lời xúi giục của thứ phi Kaikeia nhường ngôi cho Bharata do mụ sinh ra và đày Rama vào rừng sâu 14 năm trời.

Rama đem vợ là nàng Sita và em trai là Laksmana vào rừng dựng lều sống đời ẩn dật, hàng ngày săn bắn, tập tành võ nghệ, tu luyện đạo đức, ăn quả rừng, uống nước suối, sống cuộc đời khổ hạnh.

Quỷ vương đảo Lanka là Ravana biết tin có nàng Sita xinh đẹp đang sống trong rừng, hắn mò đến, lập kế cướp nàng về làm vợ. Ravana giam nàng trong cung điện, ra sức dụ dỗ nhưng không được.

Mất nàng Sita, hai anh em Rama quyết tâm đi cứu nàng. Được tướng loài khỉ tên là Hanuman giúp sức, anh em Rama kéo đoàn quân khỉ, gấu, trăn rắn… tấn công đảo Lanka. Sau nhiều trận giao chiến ác liệt, Rama cứu được Sita. Vợ chồng hội ngộ vui mừng chưa được lâu thì Rama chẳng thoát khỏi cơn nghi ngờ ghen tuông, tin rằng nàng đã thất tiết với quỉ vương, nên tuyên bố không nhận Sita là vợ nữa, và nàng không thể đăng quang hoàng hậu.

Sita uất ức, đau buồn đòi thử thách bằng cách nhảy vào đống lửa tự thiêu, nghĩa là thề trước thần lửa Agni. Thần lửa Agni chứng giám lòng chung thuỷ của Sita nên đã cứu sống nàng. Thấy vậy, Rama hối hận, sung sướng dang tay đón nàng cùng trở về kinh đô, vừa đúng lúc chấm dứt thời hạn lưu đày 14 năm. Rama lên ngôi, Sita là hoàng hậu. Bỗng nghe dư luận dân chúng chỉ trích Rama đã dung túng cho Sita người đàn bà đã chung chạ với quỉ sứ. Rama lại nổi cơn ghen tức bèn đuổi Sita vào rừng khi nàng đang thai nghén. Vua khỉ Hanuman cũng bỏ đi theo Sita để bảo vệ chăm sóc nàng .

Mười năm sau, trong dịp hội lớn ở đô thành Ayodhya, có hai đứa bé tên là Kusa và Lava đi hát rong, bài hát kể về kì tích của Rama, lòng chung thuỷ và nổi đau khổ của nàng Sita, khiến cho mọi người bùi ngùi, xúc động.

Rama nghe tin, cho gọi hai đứa bé vào cung, hỏi chuyện và nhận ra 2 đứa con mình do Sita sinh ra ở chốn rừng sâu. Chàng vô cùng buồn bã hối hận, đi vào rừng tìm gặp Sita và ngỏ lời đón về . Nhưng nàng Sita cương quyết từ chối. Nàng thề rằng hai người chỉ gặp nhau khi một kẻ nằm xuống vĩnh viễn . Vua Rama quay trở lại kinh đô và bày kế giả chết . Tin dữ lan vào rừng sâu . Ba mẹ con Sita trở về kinh đô thọ tang vua . Khi nàng quì khóc , vua Rama xuất hiện xin lỗi nàng và mời nàng trở lẹi ngôi hoàng hậu . Nàng cầu xin mẹ là nữ Thần Đất mở rộng lòng đất đón nàng trở về nơi đã sinh ra nàng. Rama đau khổ, van nài thần linh. Thần Brahma xuất hiện, an ủi và cho biết chàng sẽ được tái hợp Sita trong kiếp sau ở cõi trời. Sau đó, Rama nhường ngôi vua cho hai con và trở về cõi trời, trở lại bản thân nguyên thuỷ là Visnu-thần Bảo vệ.



3. Phân tích một số hình tượng nhân vật

3.1. Hình tượng Rama

Theo thần thoại , Rama là hoá thân thứ 7 của thần Visnu. Visnu giáng thế làm người để cứu nhân loại khỏi cảnh chiến tranh loạn lạc.

Rama, mẫu người lý tưởng của đạo Hindu và đẳng cấp vương công quí tộc, đồng thời thể hiện khát vọng của nhân dân về một vị minh quân, một anh hùng tài trí dũng cảm và đạo đức ,bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân, giữ gìn công bằng xã hội.

Trước hết, Rama là người biết trọng danh dự, giữ bổn phận người con, người chồng và ngôi vua. Rama biết mình được quyền kế ngôi cha, nhưng vì cha đã hứa hẹn với thứ phi Kaikeia đày mình vào rừng sâu để nhường ngôi báu cho Bharata, chàng không cưỡng lại lệnh cha, vui vẻ đi vào rừng.

Rama là người yêu vợ, quí trọng lòng chung thuỷ, đã từng hối hận về sự ghen tuông của mình, nhưng vì danh dự một đức vua, chàng buộc lòng phải đuổi Sita vào rừng.

Lời hứa của cha là danh dự, danh dự của cha là của mình và dòng họ. Tuyệt đối phục tùng ý nguyện của cha là bổn phận. Đó là đạo đức của đẳng cấp quí tộc và của xã hội đương thời.

Rama có sức mạnh phi thường, có võ nghệ cao cường và lòng quả cảm. Chàng đã vượt qua bao gian nan và thử thách, chiến đấu với loài quỉ dữ để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc, đem lại công lý và hoà bình. chàng dũng sĩ Ksatrya đó đã đánh bại thần Biển và thần Núi trên đường tiến đánh đảo Lanka. Chàng giết chết con quỉ khổng lồ Valin, con trâu thần Đunđubhi. Với tinh thần nghĩa hiệp, chàng chiến đấu giành lại ngôi vua cho vua khỉ Sugriva bị Valin cướp. Trong bất cứ hoàn cảnh nào chàng cũng thể hiện khí phách một dũng sĩ. Chàng có đủ sức mạnh sử dụng cây cung thần do Brahma cấp,” chiếc cung thu hồi gió vào đôi cánh, sức nóng mặt trời vào đầu mũi tên, sức nặng của núi vào thân cung ” để xuyên thủng ngực quỉ vương Ravana.

Đạo đức của Rama là khuôn vàng thước ngọc của người Ấn cổ xưa, trước hết là của đẳng cấp Ksatrya.

Tín đồ đạo Hindu ( trước đó là Bà la môn ) phải đạt được 4 nhiệm vụ sau đây mới coi là hoàn thiện được cuộc đời :

Thực hiện đạo lí Darma (quản lí gia sản)

Artha (đất đai)

Kama (thực hiện tình nghĩa vợ chồng, gia đình)

và Moksa (tu luyện siêu thoát).

Hình tượng Rama mặc dầu còn hạn chế về quan niệm đạo đức của đẳng cấp (danh dự dòng họ cao hơn tình vợ chồng ) nhưng có thể nói toàn bộ ý chí, tình cảm, tài năng và sức mạnh chiến thắng của quần chúng đã được khái quát thành biểu tượng người anh hùng này. Đó là con người luôn luôn bênh vực điều thiện chống cái ác, cứu người hiền đặc biệt là phụ nữ. Đó là sản phẩm tuyệt vời của trí tưởng tượng và ước mơ cao đẹp của người Ấn cổ xưa.

3.2 Hình tượng Sita

Nàng là người phụ nữ Ấn Độ cổ đại mẫu mực, người vợ chung thuỷ tiết hạnh, người con gái hiền từ nhu mì nhân hậu. Nàng cao cả vì đã hiến dâng một tình yêu quên mình, bất chấp mọi gian khổ, bất chấp cả tính mạng.

Sita xuất thân thần thánh – con của thần Đất, nhưng lại được miêu tả như người phụ nữ bình thường.

Sita yêu say đắm Rama người dũng sĩ có tài năng hơn người, có sức khoẻ phi thường bẻ gãy chiếc cung thần, điều kiện cầu hôn không có chàng trai nào thực hiện được.

Sita rơi vào tay con quỉ dâm dục tàn bạo Ravana. Hắn dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, quyến rũ và đe doạ, nhưng nàng vẫn kiên trinh, bất khuất giữ lòng chung thuỷ, lại còn chống trả quyết liệt. Trước lời lẽ ngon ngọt của quỉ sứ Ravana, nàng ” chỉ ngồi bó gối che thân và hoàn toàn cự tuyệt “. Nàng còn nguyền rủa kẻ thù và hết lời ca ngợi Rama chồng nàng. ” Ta là vợ của một người có đạo đức, không thể để cho loài quỉ sứ độc ác như mày làm hại ta được … Ta không siêu lòng khi mày đưa ngọc ngà châu báu, uy quyền quyến rũ ta đâu. Ta chỉ thuộc về một người, người đó là Rama, như ánh sáng thuộc về mặt trời. Ta xứng đáng là vợ của vị chúa tể thế gian như tri thức của người hiền triết. Hãy hàng phục Rama đi, vì chàng là sư tử của loài người”.

Khi bị Rama nghi ngờ, nàng kêu khóc thảm thiết. Nàng tự minh oan cho mình: “Nếu như mối tình đằm thắm của đôi ta, mối duyên bền chặt của đôi ta không đủ để cho chàng hiểu thiếp thì chàng ơi, vì tính đa nghi của chàng, thiếp đành chịu chết thôi !”. Nàng nói với Rama như vậy rồi thản nhiên bước vào đống lửa không chút sợ hãi. Thần lửa Agni hiểu tấm lòng trong trắng và trái tim chung thuỷ của nàng, chẳng những không thiêu cháy mà còn làm cho nàng đẹp hơn trước: “nàng như mặt trời mới mọc ban mai, đỏ rọi toàn thân, rực rỡ ngọc vàng, nét mặt ngây thơ hiền hậu trong sáng, mái tóc đen nhánh và vòng hoa ở cổ trắngømuốt , tươi mơn mởn” . Hình ảnh Sita như một bông hoa rực rỡ điểm tô cho thiên tình sử thêm đẹp đẽ, hương sắc bông hoa đó vẫn tươi đẹp mãi đến ngày nay.

3.3 Hình tượng Hanuman

Hanuman là con khỉ khổng lồ, con trai của thần gió Vayu là một hình tượng đáng yêu đáng quí. Đối lập với lũ quỷ Ravama và những thế lực tàn bạo đáng ghét.

Hanuman đóng vai trò quyết định trong mọi chiến công của Rama và về sau là người đầy nhiệt tình bảo vệ mối tình chung thuỷ Sita – Rama.

Hanuman có sức khoẻ phi thường có phép thần thông biến hoá, nhanh nhẹn và mưu trí khôn lường (so với nhân vật Tôn Ngộ Không trong tác phẩm Tây du ký đời Minh Thanh Trung Quốc, chúng ta có thể tin rằng người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng hình tượng Hanuman khi sáng tạo nhân vật Tề thiên đại thánh).

Hanuman nhảy một bước vượt qua biển, đặt chân lên hòn đảo Lanka để đi tìm Sita. Thần rắn biển dùng phép bắt bóng kéo Hanuman xuống để nuốt sống, Hanuman dùng phép thu mình chui lọt vào bụng rắn thần xé nát ruột kẻ thù. Rama bị thương nặng, Hanuman bay thẳng về núi Himallaya tìm cây thuốc. Các cây thuốc dấu mình trong đất đá, chàng nổi giận nhổ cả một đám núi cõng lên lưng bay về, lấy thuốc chữa vết thương cho Rama.

Hanuman đã đóng góp biết bao nhiêu chiến tích vào thắng lợi của Rama trên đảo Lanka.

Có thể nói Hanuman chính là hoá thân của lực lượng quần chúng nhân dân làm hậu thuẫn cho những vịanh hùng chiến đấu cho tự do và công lí, giải phóng và bảo vệ đất nước. Đó là chân lí: không có vị anh hùng nào thành công nếu thiếu sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân.

4. Nghệ thuật

Bàn về nghệ thuật sử thi Ramayama, nhiều nhà Ấn Độ học trên thế giới đánh giá rất cao. Will Durant một tác giả Mỹ nổi tiếng thế giới, chuyên nghiên cứu văn hoá phương đông, đã viết về Ramayama như sau :”Tác phẩm không chỉ nói đến kì tích mà còn là toà lâu đài đầy những nhân vật lí tưởng, soi sáng tâm hồn và hành động ….nó còn là một tác phẩm ghi lại các truyền thống triết học, tôn giáo và đạo đức của dân tộc Ấn Độ. Người Ấn Độ coi trọng nó như người theo đạo thiên chúa với cuốn sách ” Đời các vị thánh ” vậy. Ngoài việc thưởng thức một cách thú vị về văn chương, họ xem đó là một thánh kinh, đọc xong họ tin rằng sẽ được thánh thần phù hộ và chuộc được mọi tội lỗi”.

Giá trị đó làm cho Ramayana sống mãi trong lòng người đọc từ đời này qua đời khác. Sự gợi cảm không chỉ ở thiên tình sử éo le Rama - Sita mà còn do tài nghệ miêu tả và kể chuyện của nghệ sỹ dân gian. Yếu tố tưởng tượng kỳ ảo giữ vai trò quan trọng. Yếu tố thần kỳ được kết hợp một cách độc đáo với miêu tả hiện thực khách quan của thời đại. Những nét hoang đường siêu nhiên kết hợp sinh động với tính cách người trần thế. Những nhân vật, loài vật Hanuman, quỉ Ravana được miêu tả chân thực như tính người rất sinh động.

Những nhân vật đáng yêu đáng kính ấy là những con người có đầy đủ nhân tính, biết đau đớn, nhớ thương, căm giận, hối hận và yêu thương, độ lượng.

Những đoạn văn miêu tả thần tình nhiều cảnh ngộ oái oăm, những tâm trạng khổ đau, dằn vặt suy tư của nhân vật khi cần đấu tranh khắc phục khó khăn.

Romesh Dutt nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét “ngay cả đến Shakespeare cũng không thể diễn tả được sự thôi thúc của những tâm tình cuồng nhiệt trong lòng người một cách sống động chân thực và mạnh mẽ ghê gớm như đã thấy trong Ramayana”.

Tác phẩm còn vẽ lên cảnh chiến trường ác liệt, cung tên rào rào, đô thành bốc cháy, đất đá tung toé, người và quỉ thần quần đảo nhau bằng nhiều phép thuật thần kỳ gây hứng thú cho người đọc.

Những đặc điểm nghệ thuật trên tạo ra tính chất bi hùng trong tác phẩm, nâng cao giá trị thẩm mỹ của sử thi. Ramayana đã thật sự mở ra một thời đại mới rực rỡ trong văn học Ấn Độ.

SỬ THI MAHABHARATA



(Truyện kể về cuộc chiến tranh giữa các dân tộc Baharata vĩ đại)

1 . Vài nét về tác phẩm

Cũng như Ramayana và các tác phẩm khác ở thời kỳ cổ đại, MaHabharata cũng khó xác định thời gian ra đời. Dự đoán câu truyên được lưu truyền trươc CN, về sau được nhiều người ghi chép, bổ sung, chỉnh biên cho đến thế kỷ V mới chấm dứt.

Theo truyền thuyết, người sưu tập đầu tiên bản sử thi này là đạo sĩ Krisna Domopayana Vyasa (Vyasa có nghĩa là sưu tập).

Nguyên bản lúc đầu lên đến hàng trăm vạn câu thơ. Đến nay còn lưu truyền bản 110.000 câu thơ đôi (Sloka) gồm 22 vạn dòng, dài gấp 7 lần hai anh hùng ca Iliad và Odysse của Hi Lạp.

Ở Ấn Độ, công việc nghiên cứu và dịch thuật tác phẩm này vẫn đang tiếp tục.

Nói về giá trị của pho sử thi này, ở Ấn Độ có câu ngạn ngữ ” Cái gì không có trong Mahabharata thì cũng không có ở bất cứ nơi nào trên đất nước Ấn Độ”.

Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới , đặc biệt ở Đông Nam Á. Khoảng thế kỉ thứ VII đến thứ VIII , ở Inđonêsia xuất hiện nhiều truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata bằng tiếng Java cổ như “Trận đánh vĩ đại của con cháu Bharata”, “Đám cưới của Acgiuna “ . Ở Cam pu chia, Mahabharata còn xuất hiện sớm hơn, vào thời kì văn học Angko, nhiều cảnh trong Mahabharata được khắc phù điêu trên mặt đền Angko và các đền đài khác ở Phnompênh.

Gần đây, ở Pháp công diễn vở kịch Mahabharata do hai nhà soạn kịch nổi tiếng Peter Brook người Anh và Jean Claude Carriere người Pháp soạn ra , được công chúng tán thưởng nhiệt liệt.



2 . Cốt truyện

Bharata là ông vua của triều đại mặt trăng, sinh hai người con trai chia thành hai chi nhánh Curu và Pandu. Pandu sinh 5 người con trai gọi là anh em Pandava (Yudhitira, Bhima, Arjuna, Nakula, Sahadeva). Còn người anh là Dritaratra bị mù loà, sinh 100 con trai gọi là anh em Korava, anh trai trưởng là Duriodana.

Sau khi Pandu qua đời, Dritaratra đem năm người con của em trai về nuôi chung với đàn con của mình. 5 anh em Pandava trưởng thành rất nhanh chóng nổi tiếng là những người có tài năng và đức độ. Điều đó làm cho anh em Korava ghen tị, lập mưu hãm hại từng người trong nhóm 5 anh em. Dritaratra đưa 5 anh em Pandava đến lâu đài bằng sáp và những thứ dễ cháy. Anh em Korava định đốt cháy lâu đài và giết hết 5 anh em. Nhưng nhờ có người báo tin, anh em Pandava đã dẫn mẹ là bà Kunti trốn vào rừng, cải trang thành những đạo sĩ Bà la môn sống lang thang ẩn đật.

Một năm sau, vua Đropada xứ Panchallah mở hội kén phò mã cho công chúa Đropadi. Anh em Pandava kéo đến đua tài. Trong cuộc thi đấu với hoàng tử các nơi, Acgiuna người em thứ ba đã giành chiến thắng. Nhà vua làm lễ cưới cho hai người. Năm anh em đưa nàng Đropadi về chào mẹ thì nghe lời nguyền của mẹ, nên Đropadi trở thành vợ chung của 5 anh em, điều đó cũng phù hợp lời thề cùng chia ngọt xẻ bùi. Trong một buổi lễ, người ta chứng nhận 5 anh em chính là một cơ thể của một vị thần linh. Vì vậy cuộc hôn nhân là hợp lệ.

Anh em Korava biết tin 5 anh em Pandava còn sống và trở thành đồng minh của một nước láng giềng hùng mạnh. Theo lời khuyên của trưởng lão Bhisma, Dritaratra cho đi mời anh em Pandava trở về vương quốc và chia cho họ một nửa đất đai. Yudhi là anh cả được làm vua xứ Indaprasa bên cạnh vương quốc Hastinapura của anh em Korava .

Mặc đầu lãnh thổ của anh em Pandava xấu hơn nhưng nhờ tài năng cai trị mà vương quốc của họ trở thành thịnh vượng giầu có. Bọn anh em Korava lại sinh lòng đố kị và tìm cách chiếm đoạt.

Yuhi vốn là người coi trọng danh dự và say mê cờ bạc cho nên bị Đuriodana (Đurio- anh cả của trăm anh em Korava) rủ rê vào trò cờ bạc. Đurio nhờ một tay cờ bạc có ma thuật đánh cho Yuhi thua bạc liên tục phải đem gán cả vương quốc cho Đurio như giao kèo. Anh em Pandava lại kéo nhau đi ẩn trong rừng sâu suốt 13 năm trời theo qui định sau khi thua bạc. Hết hạn họ trở về vương quốc nhưng anh em Đurio trở mặt không trả lãnh thổ cho 5 anh em. Thậm chí Yuhi chỉ xin một làng nhỏ để cư trú và sinh sống cũng vẫn bị Đurio cự tuyệt. Năm anh em Pandava không thể nhẫn nhục hơn nữa, buộc phải cầu viện các tiểu vương quốc khác kéo quân tiến đánh anh em Korava.

Cuộc chiến tranh giữa hai phe trong dòng họ Bharata lôi cuốn nhiều nước tham chiến với hàng triệu người với hàng vạn xe ngựa cung kiếm.

Chiến trường Kurusetra mịt mù khói lửa trong vòng 18 ngày, hàng triệu xác chết chất thành núi, máu chảy thành sông. Trận chiến kết thúc chỉ còn 11 người sống sót.

Anh em Pandava tuy chiến thắng vẻ vang nhưng vô cùng đau xót vì đã phải chém giết tất cả những người ruột thịt. Sau khi làm lễ giết ngựa tế thần để tỏ lòng xám hối, Yuhi lên ngôi vua trị vì 36 năm liền.

Câu chuyện kết thúc bằng cuộc hành hương của năm anh em Pandava và nàng Đropadi lên đỉnh núi Meru cao chót vót của Himallaya – nơi đó là cõi trời.

Dọc đường đi xa xôi hiểm trở, nàng Đropadi và bốn người anh em Yuhi lần lượt bỏ xác ở trần gian, chỉ còn Yuhi và con chó mà chàng bắt gặp dọc đường lên tới được đỉnh núi Meru. Bấy giờ, thần Indra ra tiếp đón nhưng không chịu cho con chó vào cõi trời. Yuhi quyết định xin ở ngoài cõi trời với con chó trung thành của mình. Lúc ấy con chó hoá trở thành thần Darma và cho biết đây là hành động thử thách đạo đức Yudhi. Thế là Yudhi bước vào cõi trời. Đầu tiên chàng gặp toàn những kẽ thù cũ, sau đó được đưa đến hoả ngục gặp các em và bạn bè của chàng. Yudhi xin các thần :” Tôi xin ở lại chốn này vì những người thân của tôi ở đâu thì nơi đó là thiên đường của tôi “. Nhưng đó vẫn là thử thách cuối cùng –thử thách lòng trung thành. Kết quả cả năm anh em Pandava và vợ con điều được vào chốn vĩnh hằng bất diệt .

3 . Gía trị nội dung và nghệ thuật

Chủ đề của tác phẩm vĩ đại này là cuộc chiến tranh lớn giữa dòng họ Bharata để dành giật đất đai bờ cõi. Nhưng bao quanh chủ đề còn có nhiều nội dung và tư tưởng rộng lớn và sâu sắc.

Bộ sử thi đã đề cao lí tưởng và đạo đức của thời đại. Lí tưởng và đạo đức đã đúc kết trong tập giáo lí Bhaganat Gita gần 19 chương, 700 câu là một bộ phận sử thi MahaBaharata. Chiến thắng của anh em Pandava được coi như là chiến thắng của đạo đức và công lý. Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn phận và danh dự là nội dung của Darma.

Ở đây chúng ta không đi sâu vào phân tích mặt triết lí Darma của tác phẩm mà chỉ bàn về ý nghĩa lịch sử của nó.

Chiến tranh xãy ra trong vòng 18 ngày làm cho hàng triệu người chết là biểu hiện của sự suy tàn của chế độ huyết thống trong công xã đồng thời là dấu hiệu sự phát triển và hưng thịnh của quốc gia nô lệ.

Lúc đầu anh em Korava và Pandava sống chung bình đẳng trong vương quốc Hastinapura của mình nhưng về sau do xung đột về quyền lợi đất đai và nô lệ mà anh em Pandava tách ra thành lập vương quốc mới Indraprasa riêng. Đó là biểu hiện sự phân hoá ra nhiều vương quốc nhỏ. Chế độ dân chủ bộ lạc đã mất hiệu lực, nhường chổ cho chế độ dân chủ quân sự. Vương quốc nào cũng muốn hùng mạnh và phồn vinh, từ đó đẻ ra xung đột và thường giải quyết xung đột bằng chiến tranh để thống nhất và mở rộng quốc gia. Anh em Pandava chiến thắng trở lại thống trị cả hai vương quốc là biểu hiện xu thế ấy.

Sự thắng lợi của anh em Pandava thuộc đẳng cấp võ sĩ Ksatrya cũng nói lên một điều là sự thống trị xã hội đương thời đã không còn phụ thuộc vào đẳng cấp Brahman nữa.

Anh em korava và pandava xâu xé nhau về quyền lợi thông qua chiến tranh chứng tỏ sự tan rã của các phương thức sản xuất dựa trên cơ sở huyết thống.

Qui mô của chiến tranh trong sử thi Mahabharata phá vỡ dần nền văn minh nô lệ, kéo xã hội Ấn Độ chậm lại. Chiến tranh tàn khốc trút lên đầu nhân dân nô lệ, “tiếng khóc của phụ nữ hoà vào tiếng kêu la inh ỏi của coôn trùng trên cánh đồng Kurusetra” ở cuối tác phẩm đã nói lên điều đó.

Trong bối cảnh xã hội đầy rẫy những mâu thuẩn, tội ác xuất hiện ngày càng nhiều. Qua những cuộc chiến tranh giành quyền lợi, thân phận con người lao động ngày bị giày xéo , một ” tinh thần Ấn Độ ” nổi lên, đó là tinh thần nhân văn chủ nghĩa, vốn đã nảy nở từ trong những sáng tác dân gian có trước đó ở khắp miền đất nước được thu hút và tập trung vào thiên anh hùng ca này. Duy trì và thể hiện tinh thần nhân văn chính là nội dung lẽ sống Darma của tôn giáo. Có nghĩa là sống thiện, hoà hợp, bình đẳng và bác ái chính là lí tưởng của bộ sử thi.

Khi quốc gia nô lệ hình thành thì tư tưởng tư hữu (Danda) của phong kiến cũng xuất hiện. Tư tưởng Danda tôn trọng quyền tư hữu, chế độ phụ quyền và dùng sức mạnh quân sự, chính trị của giai cấp Ksatrya và Brahman làm công cụ đàn áp xã hội. Trước đó, mỗi khi giải quyết những mối bất hoà, xung đột về quyền lợi, quần chúng làm trọng tài phán xử còn bây giờ kẻ thống trị nắm quyền quyết định. Mahabharata đã phản ánh mâu thuẫn đó một bên giai cấp thống trị muốn xây dựng hệ thống tư tưởng Danda để bảo vệ quyền lợi của họ. Một bên quần chúng nhân dân lại muốn duy trì truyền thống Darma. Cuối cùng, những người thống trị buộc phải tuyên bố “Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục theo tinh thần Darma”.

Hình ảnh anh em Yudhi từ bỏ ngôi báu sau ba mươi sáu năn trời để cùng nhau hành hương lên cõi trời tìm chốn vĩnh hằng, để sám hối đã nói lên sự thắng thế của tinh thần Đarma-khát vọng của nhân dân đương thời.

Lý tưởng và đạo đức Mahabharata được thể hiện qua hành động và tính cách của năm anh em Pandava và một số nhân vật khác như: Dropadi, Kunti, Krisna, Bhima, ..

Mỗi nhân vật có một tính cách, một đời sống tinh thần riêng chứ không mang tính ước lệ theo khuôn mẫu truyện dân gian – đó là đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật của sử thi.

Yudhi đức độ, sáng suốt bình tĩnh. Acgiuna dũng cảm kiên hùng, Bhima xông xáo sôi nổi quyết giữ trọn lời thề cho đến chết; Kacna hùng dũng và kiêu căng; Krisna tài trí siêu việt; Drita tuy mù loà nhưng vẫn oai nghiêm trong cốt cách ông vua gian hùng, xảo quyệt … mỗi nhân vật đều để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc .

Romesh Dutt -nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét “Trừ tác phẩm Iliad ra, không có tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu tả nhân vật lại phong phú và chân thực như Mahabharata. Nhân vật không đau khổ dằn vặt như nhân vật của Dante, không say mê cực độ như nhân vật của Shakespeare, trái lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy nghiêm, trầm lặng của sức mạnh tinh thần, giống như những hình tượng bất hủ bằng cẩm thạch từ thời xưa để lại mà các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào mô phỏng được”.

Đọc “Mahabharata”, người đọc bị lôi cuốn vào quang cảnh chiến tranh tràn ngập hào khí và sôi động. Người đọc say mê, hồi hộp theo dõi những trận giao tranh ác liệt hoặc những âm mưu gián điệp, tâm lý chiến, địch vận xảy ra suốt mười tám ngày liền. Cảm xúc càng tăng lên khi cuộc chiến tiến dần đến ngày kết thúc,khi các tướng lĩnh dũng mãnh nhất lần lượt ngã gục ở chiến trường.

Một nhà Ấn Độ học phương Tây nhận xét:”Trong văn học thế giới có lẽ khó tìm thấy những đoạn văn mô tả cảnh chiến tranh đặc sắc như vậy “.

Cuộc đua tài đọ sức khá sôi nổi giữa các dũng sĩ khắp bốn phương đến cầu hôn Đropadi, cuộc đụng độ nảy lửa giữa hai dũng sĩ Acgiuna và Kacna được ví như cuộc giao chiến Achin va Herto trong thần thoại và sử thi Hi-lạp, tình cảm và thái độ phản kháng mãnh liệt của nàng Đropadi khi nàng bị anh em Korava định chiếm đoạt sau ván cờ bất hạnh của Yuhi khiến cho cả thần linh cũng phải xúc động và ra tay can thiệp. Đó là những đoạn văn có sức truyền cảm mạnh đối với người đọc.

Mahabharata được coi là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống văn hoá, chính trị và xã hội Ấn Độ cổ đại. Tác phẩm chứa đựng những sự kiện lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo, tập quán sinh hoạt của toàn thể dân tộc Ấn Độ suốt từ chân núi HimAllahya tới vịnh Bengan.

Biruni nhà Ấn Độ học người Ả-rập đã viết trong cuốn ” Ấn Độ “ xuất bản năm 1930 như sau:

“Người Ấn Độ có cuốn sách mà mình tôn kính đến mức khẳng định dứt khoát, rằng tất cả những gì có trong sách khác thì chắc chắn không có trong sách này. Tất cả những gì có trong sách này thì không có trong sách khác. Người ta gọi đó là Mahabharata”.

Do nội dung phong phú bao gồm nhiều hình thức thần thoại, cổ tích, trường ca, bài ca giáo huấn, ngụ ngôn, kinh kệ, triết lý, nghệ thuật khác …, tác phẩm này có lối kết cấu khác biệt hẳn những bản anh hùng ca khác.

Nhược điểm của Maha là kết cấu phức tạp quá mức, có nhiều đoạn trùng lặp, mâu thuẫn và có những đoạn không liên quan đến nội dung tác phẩm.

Tuy vậy, Mahabharata vẫn là tác phẩm mẫu mực về qui tắc anh hùng ca / sử thi của nhân loại.



&















ĐỌC THÊM. TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN ẤN ĐỘ

1. Khái quát

Nói Ấn Độ là kho tàng cổ tích giàu nhất trên thế giới điều đó rất đúng. Kho tàng đó, từ thế hệ này đến thế hệ khác khai thác không bao giờ hết. Đó là thành quả tuyệt diệu của sự thông minh, đầy mưu trí, giàu óc tưởng tượng của nhân dân Ấn Độ.

Ngay từ trước công nguyên cho đến về sau trải qua hàng thế kỷ, truyện kể Ấn Độ đã được ghi chép, được biên soạn lại thành nhiều hợp tuyển bằng nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau rất có giá trị và được lưu hành khắp đất nước Ấn Độ và trên thế giới, đặc biệt ở Đông Nam Á và Trung cận Đông.

Cũng vì sự giàu có và được lưu hành rộng rãi như vậy mà có nhiều nhà học giả nghiên cứu về văn học dân gian trên thế giới cho rằng một số truyện dân gian được lưu hành trên thế giới có những môtíp giống nhau đều bắt nguồn từ Ấn Độ.

Điều này đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi và đầy lý thú trong lĩnh vực nghiên cứu folklore học.

Do qua tay nhiều người sao chép, biên soạn ở nhiều thời đại khác nhau mà làm cho truyện cổ Ấn Độ mang những đặc điểm sau đây:

Trong một số truyện có thay đổi ít nhiều cốt truyện, đôi khi hai ba truyện gộp lại thành một truyện, có khi một truyện được phân ra thành hai ba truyện riêng biệt.

Ngay trong một số hợp tuyển người biên soạn cũng như người phiên dịch ra các tiếng dân tộc khác nhau, nhiều lúc cũng tự ý thêm bớt đôi chỗ làm cho truyện hoàn chỉnh thêm nhưng lại mất đi tính chất nguyên thuỷ của nó.

Có những cốt truyện bị thay đổi thành nhiều dị bản, lại có truyện xen kẽ truyền thuyết, thần thoại, lại có truyện mang dáng dấp truyện ngắn hiện đại, v.v.

Mặc dù trải qua nhiều sự biến đổi về nội dung và hình thức, mặc dầu khoác tấm áo khác nhau của nhiều thời đại, nhưng truyện cổ Ấn Độ căn bản vẫn giữ được cái vẻ trẻ trung, hồn nhiên, chân thực, hóm hỉnh, đầy tính lạc quan của nó.



2. Nội dung và ý nghĩa truyện cổ tích

Nhìn vào kho tàng truyện cổ Ấn Độ chúng ta thấy nhân vật của truyện khá phong phú. Mỗi loại nhân vật đều đại biểu cho mỗi giai cấp trong xã hội Ấn Độ. Đó là các vị vương hầu công tước, các tu sĩ Ba-la-môn, các vị quan toà, các quan hành chính, thầy cò, thầy kiện, các hiền triết, các ẩn sĩ, người đi buôn, kẻ ăn mày, người thợ cày, người thợ thủ công, v.v.

Bên cạnh lại có cả một thế giới súc vật được xây dựng theo sự tưởng tượng của con người, dùng làm tượng trưng, ám chỉ, ngụ ý, ẩn dụ, v.v. Những con vật đó đều giữ đúng đặc tính của nó, ví như rắn độc ác, lừa ngu dốt, cáo ranh mãnh.

Xây dựng những nhân vật đó các tác giả dân gian muốn phê phán thói hư tật xấu của con người và sự bất công trong xã hội.

Truyện cổ tích Ấn Độ cũng giống như các truyện cổ của các dân tộc khác đều phản ảnh hiện thực cuộc sống xã hội. Thói hư tật xấu của con người bao giờ cũng bị đả kích, bị trừng phạt, lòng tốt bao giờ cũng được phát huy và ca ngợi. Thiện bao giờ cũng thắng ác, chính nghĩa bao giờ cũng thắng hung tàn và bạo ngược. Các truyện đều ngụ ý giáo dục và khuyên răn người đời.

Kẻ mạnh bao giờ cũng chiến thắng kẻ yếu, nhưng không hẳn như vậy nếu kẻ yếu biết dùng mưu trí, biết đoàn kết tương trợ với nhau thì nhất định chiến thắng được kẻ mạnh. Chẳng hạn trong truyện “ Đoàn kết thì sống” miêu tả lũ nhái, ong vò vẽ và chim đã đoàn kết đánh chết được voi.

Qua truyện “Nhà vua biết giá mình như thế nào”, chúng ta sẽ hiểu rằng giá nhà vua không đáng một trinh, hoặc trong truyện “Nhà vua với quan đại thần” thì những người tuỳ tùng đối với vua tốt hơn là vua đối lại với họ. Trong truyện “Nhà vua với tên cướp” tên cướp đã ví mình như nhà vua, nhưng tội của y còn nhẹ hơn tội của nhà vua vì nhà vua đi cướp đất đai của thiên hạ.

Nhiều truyện đã giễu cợt bọn tu sĩ. Trong thực tế tu sĩ Ấn Độ không phải đều là những kẻ tu hành chân chính, ngược lại có một số khoác áo thầy tu để lừa phỉnh, dụ dỗ dân lành để trục lợi và làm những điều xằng bậy. Có truyện châm biếm tu sĩ lừa đảo kẻ khác để cướp vợ, có tu sĩ lòng tham vô đáy. Truyện “Tu sĩ và bốn tên lưu manh” đã giễu cợt sự cuồng tin và ngu ngốc của bọn tu sĩ. Truyện “Đôi chim sẻ với tu sĩ” có kèm theo một đoạn nhận xét, bình luận sâu sắc vạch trần sự ti tiện, nhỏ nhen của giới tu sĩ. Truyện “Con mèo ngoan đạo”, dưới hình thức loài vật đã chỉ trích ra bản chất “khẩu phật tâm xà” của giới tu sĩ.

Đối với các vị quan toà, quan hành chính, những kẻ cầm cân nảy mực, điều khiển công lý trong xã hội bị lên án, bị vạch mặt là những kẻ tham lam, bóc lột rất thậm tệ. Có tên quan toà lợi dụng quyền hành của mình lập mưu cướp đoạt người đàn bà đẹp có tên ăn hối lộ căn cứ vào lời khai dối trá của tên lái buôn để kết tội người thợ cạo như trong truyện “Gã lái buôn với người thợ cạo”.

Truyện “Lão ăn mày và đàn chuột” đã vạch trần bản chất lừa đảo, hống hách, đểu trá của những tên thủ quỹ, những tên xã trưởng ở nông thôn Ấn Độ.

Một đối tượng khác thường được tác giả những truyện cổ tích tập trung đả kích là bọn phú thương, bọn lái buôn gian xảo, lắm mánh khoé trục lợi, lừa mua rẻ bán đắt, như trong truyện “ Gã lái buôn với người bạn của y”, truyện “Nhà hiền triết, nhà vua và người bán hương trầm”.

Nhân dân lao động, những người cùng đinh thường đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích Ấn Độ. Trước hết truyện thường tập trung ca ngợi, đề cao nghèo khổ nhưng không hề chịu khuất phục, không hề luồn cúi, họ căm phẫn, và phản kháng những kẻ chuyên ức hiếp và áp bức họ.

Truyện “Ngựa và trâu” đã nói lên chân lý: “Ai có lao động đều mang lại lợi ích cho loài người”. Cánh tay rám nắng vì lao động của cô gái nông dân nghèo đẹp hơn là những cánh tay nõn nà của những cô gái quý tộc như trong truyện “Ba cô gái qúy tộc và bà lão ăn mày ”.

Nhân dân lao động trong truyện bao gồm nhiều thành phần như thợ mộc, thợ nề, thợ dệt, thợ may, thợ đồ gốm, thợ cạo, người đi săn, kẻ đốn củi, v.v. Họ được miêu tả như là những người thợ lành nghề, thông minh và giàu trí tuệ, cần mẫn, chân thực, khéo tay và tháo vát như trong truyện “Tu sĩ, người thợ kim hoàn, thợ mộc và thợ may”.

Các tay thợ vàng bạc vốn là những tên khét tiếng hám tài, xảo quyệt, lừa lọc là đối tượng thường bị đả kích không thương tiếc.

Hoàn cảnh nghèo khổ của những con người lao động sống trong xã hội phong kiến thường được miêu tả một cách sâu sắc và cảm động. Truyện thường bắt đầu bằng cảnh những người nghèo đói lang thang rời bỏ quê hương làng mạc đi kiếm ăn ở nơi khác. Sâu sắc nhất là truyện người thợ Dari trong truyện “Người thợ dệt không may”. Mặc dầu có tài, Dari sống trong kinh thành của mình không tìm được cách bán những tấm vải đắt tiền vì người nghèo không có tiền mua.

Truyện cổ Ấn Độ còn nêu lên những bài học xử thế trong quan hệ bạn bè, anh em, quan hệ giữa người với người, nhằm giáo dục những đức tính tốt chống lại những thói kiêu căng, tự cao tự đại, ích kỷ, hẹp hòi, ti tiện, lừa thầy phản bạn, v.v.

Truyện “Vua Xuhayman và con sếu” tập trung ca ngợi tình bạn, nếu không có bạn bè thì cuộc sống không có ý nghĩa. Bạn bè phải chia bùi xẻ ngọt với nhau, vui buồn có nhau như trong truyện “Hai người bạn và túi tiền”. Sự cãi cọ, mâu thuẫn lẫn nhau chia rẽ nhau sẽ không đem lại lợi ích gì cho nhau, chỉ khiến cho kẻ khác “đục nước béo cò” mà thôi, như trong truyện “Của tôi và của cô”, “Chó, mèo và khỉ.” Tình nghĩa bạn bè có sâu đậm là do tính trung thực, chung thuỷ và biết yêu thương nhau. Truyện “Người thợ kim hoàn và thợ mộc” đã lên án những kẻ phản bội lại tình bạn vì hám lợi. Truyện “Tính vênh váo” vạch trần những kẻ khi đã có địa vị danh vọng trong xã hội rồi thì lên mặt, khinh thường bạn bè, quên cả cảnh sống thuở hàn vi với nhau.



3. Nghệ thuật truyện cổ Ấn Độ

Nhìn chung kết cấu truyện cổ Ấn Độ thường chặt chẽ cô đọng, súc tích, ngắn gọn. Có truyện vẻn vẹn 5, 6 dòng.

Thông thường có 2 cách bố cục:

Một là, bố cục thường bắt đầu cốt truyện chính, sau đó để nhân vật chính trong truyện kể, ngừng kể là kết thúc. Cuối truyện thỉnh thoảng có những câu thơ bình luận ngắn, hoặc ngụ ngôn, hoặc châm ngôn, hoặc một lời bình rút ra cho người đọc một bài học kinh nghiệm.

Cách bố cục thứ hai, thường mở đầu bằng lời giới thiệu của người kể truyện về đề tài chuyện, người kể chuyện có thể là một con vật hay người. Sau đó là cốt truyện, kết thúc truyện có thể là cảm tưởng của người nghe, hay lời bình về thái độ và tâm trạng của người nghe. Nếu người nghe yêu cầu kể tiếp thì truyện lại được nối tiếp bằng một truyện khác.

Về ngôn ngữ thì lời ít ý nhiều, lời lẽ giản dị, dễ hiểu có lúc bóng bảy, hóm hỉnh hài hước tạo ra một mỹ cảm sảng khoái, lạc quan. Văn chương thường uyển chuyển và sinh động.

Có nhiều truyện, nhân vật được khắc hoạ thành những nhân vật điển hình tạo nên ấn tượng sâu sắc cho người đọc, người nghe.

Giàu chất triết lý, dồi dào trí tuệ, nhiều ngụ ngôn là đặc điểm nổi bật trong truyện cổ Ấn Độ. Điều này cũng phản ảnh rõ đặc tính dân tộc Ấn Độ.

Tuy vậy, truyện cổ Ấn Độ cũng bộc lộ một số nhược điểm của nó, có nhiều truyện mang nặng màu sắc huyền bí, chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng tôn giáo đặc biệt là Phật giáo làm cho một số truyện kém phần giá trị hiện thực của nó.



Каталог: 2012
2012 -> Những câu nói tiếng Anh hay dùng hằng ngày
2012 -> I. NỘi dung quy hoạch cao đỘ NỀn và thoát nưỚc mặt bản đồ hiện trạng cao độ nền và thoát nước mặt
2012 -> BÀI 1: KỸ NĂng thuyết trình tổng quan về thuyết trình 1 Khái niệm và các mục tiêu
2012 -> Người yêu lạ lùng nhất
2012 -> Thi thử ĐẠi họC ĐỀ thi 11 MÔN: tiếng anh
2012 -> SÔÛ giao thoâng coâng chính tp. Hcm khu quaûn lyù giao thoâng ñOÂ thò soá 2
2012 -> Commerce department international trade
2012 -> Những câu châm ngôn hay bằng tiếng Anh
2012 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO ĐỀ thi tuyển sinh đẠi họC 2012 Môn Thi: anh văN – Khối D
2012 -> Tuyển tập 95 câu hỏi trắc nghiệm hay và khó Hoá học 9 Câu 1


tải về 1.23 Mb.


Chia sẻ với bạn bè của bạn:

Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của sử thi ấn Độ