Giải pháp nào chính sách tiền tệ việt nam 2023 năm 2024

Điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, kịp thời; bám sát diễn biến từng thời điểm; hướng tới thực hiện hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng vẫn có sự ưu tiên và chọn lọc.

Việc điều hành chính sách tiền tệ luôn hướng tới cân bằng các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Nhưng tùy theo diễn biến tình hình để xác định trọng tâm, trọng điểm ưu tiên trong từng thời điểm.

Thực tế, từ tháng 10 khi sự cố Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) xảy ra tác động mạnh tới thanh khoản hệ thống và thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung ưu tiên hỗ trợ hệ thống các tổ chức tín dụng giải quyết vấn đề quản trị thanh khoản, giải tỏa tâm lý thị trường và các vấn đề còn tồn tại để bảo đảm an toàn hệ thống trước những rủi ro hiện hữu.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã cấp bách triển khai nhiều giải pháp để tập trung ưu tiên cải thiện thanh khoản. Theo đó, chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng trong tháng 10. Sang tháng 11, khi thanh khoản hệ thống được cải thiện, tác động từ bên ngoài dịu bớt, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng trưởng tín dụng thêm 1,5-2%.

Ngoài ra, để ổn định thị trường ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện đồng thời các giải pháp như: Tăng biên độ giao dịch của tỷ giá từ +3% lên +5% để linh hoạt cho phép VND mất giá đến 9%, sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp, hai lần điều chỉnh mỗi lần tăng 1% các mức lãi suất điều hành (trong tháng 9 và 10), nhờ vậy thị trường đã dần ổn định trở lại.

Đặc biệt, tháng 11 vừa qua, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam ra khỏi Danh sách giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ, đồng thời, đánh giá cao công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.

Như vậy, có thể khẳng định trước bối cảnh thế giới biến động mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, kịp thời; bám sát diễn biến từng thời điểm; hướng tới thực hiện hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng vẫn có sự ưu tiên và chọn lọc. Việc kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát là vô cùng quan trọng nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước và thu hút nhà đầu tư nước ngoài.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về các vấn đề kinh tế-xã hội tại phiên họp thứ 27 diễn ra vào sáng 16/10. Tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra nội dung đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, dự kiến Kế hoạch năm 2024; đánh giá giữa nhiệm kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế.

Liên quan đến các nội dung về chính sách tiền tệ, phát biểu tại phiên họp, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, qua lắng nghe báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, ý kiến phát biểu của các thành viên Ủy viên Thường vụ Quốc hội và đặc biệt là ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Ngân hàng Nhà nước thấy rằng, về cơ bản báo cáo thẩm tra đã đánh giá rất toàn diện, chỉ rõ những mặt được và những mặt cần lưu ý để Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước điều hành tốt hơn đối với lĩnh vực chính sách tiền tệ trong năm 2024 và những năm tiếp theo của nhiệm kỳ.

Kiểm soát lạm phát, điều hành lãi suất phải đứng trên cục diện tổng thể

Trước quan điểm cho rằng, việc quá chú trọng đến kiểm soát lạm phát theo nhiều ý kiến cũng là nguyên nhân khiến lãi suất cao, đặc biệt là cuối năm 2022 và đầu năm 2023 trong bối cảnh doanh nghiệp khó khăn, việc điều chỉnh tăng trưởng tín dụng chậm là những bất cập, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng chia sẻ: Những ý kiến nêu trên cũng là những ý kiến nhìn từ các góc độ riêng lẻ. Còn đối với việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước thì phải theo tinh thần bám sát những yêu cầu của Quốc hội và đứng trên cục diện tổng thể của nền kinh tế, đó là Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ yêu cầu phải giảm mặt bằng lãi suất, phải bảo đảm ổn định được thị trường tiền tệ, ngoại hối, cũng như bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Chính vì thế, việc điều hành trong những tháng cuối năm 2022, thế giới tăng lãi suất rất cao và xét thấy trong năm 2022 chúng ta có thể kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu của Quốc hội, cho nên những tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên lãi suất điều hành và không điều chỉnh tăng như các nước.

Tuy nhiên, đến tháng 10, sự kiện của SCB bị rút tiền hàng loạt xảy ra, lúc này Ngân hàng Nhà nước cần tập trung ưu tiên là bảo đảm an toàn hệ thống và ngăn ngừa nguy cơ đổ vỡ như từng xảy ra với các ngân hàng trên thế giới. Mọi biện pháp phải tập trung cho việc ngăn ngừa tính đổ vỡ hệ thống, dù lúc đó các tổ chức tín dụng cũng căng thẳng về thanh khoản, một số tổ chức tín dụng còn bị thiếu dự trữ bắt buộc và nguy cơ mất khả năng chi trả là hiện hữu.

Tại thời điểm đó, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng bởi vì các ngân hàng phải tập trung đáp ứng nhu cầu chi trả cho người dân, mà Ngân hàng Nhà nước tập trung cho thanh khoản của hệ thống.

Đến tháng 10, tháng 11, thanh khoản được cải thiện dần; đầu tháng 12, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh ngay về tăng trưởng tín dụng. Đặc biệt, khi hệ thống ngân hàng có sự cố rút tiền hàng loạt thì tâm lý kỳ vọng của thị trường tiền tệ ngoại hối rất căng thẳng, thậm chí cả tâm lý của nhà đầu tư nước ngoài. Thời điểm tháng 10, tỉ giá tăng rất cao, có lúc tăng đến 10%. Để ổn định tỉ giá, chỉ có một số giải pháp, đó là: Can thiệp ngoại tệ; điều chỉnh tăng lãi suất; làm hạn chế thanh khoản.

"Ngân hàng Nhà nước phải làm cả 3 việc nêu trên, có nghĩa là vừa can thiệp, vừa phải tăng lãi suất 2 lần vào tháng 9, tháng 10; chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng, như vậy tỉ giá ổn định trở lại. Cả năm 2022 tăng 3,5%. Ngân hàng Nhà nước mong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cân nhắc ý kiến này", Thống đốc Nguyễn Thị Hồng bày tỏ.

Ổn định tỉ giá gắn liền với bảo đảm an toàn hệ thống

Về nhận định lạm phát thấp, lãi suất cao là nghịch lý, thể hiện sự bất cập trong công tác điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh: Ngân hàng Nhà nước mong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cân nhắc, bởi vì ý kiến này cũng từ góc độ chỉ nhìn về vấn đề lạm phát và lãi suất. Về lãi suất cũng như các công cụ của chính sách tiền tệ, phải căn cứ vào các nhiệm vụ, căn cứ vào mục tiêu lạm phát; căn cứ vào các dự báo và xu hướng của lạm phát trên thế giới và trong nước.

Đồng thời, phải ổn định tỉ giá cũng như phải bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống. Những nhiệm vụ này không thể hy sinh nhiệm vụ nào cả, phải có sự hài hòa, linh hoạt trong điều hành. Nếu xu hướng lạm phát bùng lên thì chính sách tiền tệ cũng phải nghĩ đến việc phòng ngừa và chuẩn bị cho xu hướng thắt chặt.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đưa ra dẫn chứng: "Cuối năm 2021, Mỹ và một số nước đã đánh giá lạm phát chỉ là tạm thời. Lúc đó, chính sách tiền tệ của họ chưa thắt chặt. Nhưng sang đến năm 2022, lạm phát bùng phát lên, tất cả các nước đều phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt rất nhanh và mạnh. Như vậy, có tác động đến các nền kinh tế và cả nền kinh tế trong toàn cầu. Sau đó năm 2022, bản thân lãnh đạo các bộ chức năng của Mỹ cũng thừa nhận sai lầm, họ đã đánh giá đấy là lạm phát tạm thời. Cho nên, đối với điều hành, chúng ta không thể chủ quan với lạm phát".