Từ những năm 1960, Giáo viên đã làm quen với thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề”, nhưng cho đến nay vẫn chưa vận dụng thành thạo. Có người cho rằng thuật ngữ “nêu vấn đề” có thể gây hiểu lầm là giáo viên nêu ra vấn đề để học sinh giải quyết, do đó đề nghị thay “nêu vấn đề” bằng “gợi vấn đề”. Thực ra, trước hết cần tập dượt cho học sinh khả năng phát hiện vấn đề từ một tình huống trong học tập hoặc trong thực tiễn. Đây là một khả năng có ý nghĩa rất quan trọng đối với một người và không phải dễ dàng mà có được. Mặt khác, sự thành đạt trong cuộc đời không chỉ tùy thuộc vào năng lực phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn mà bước quan trọng tiếp theo là giải quyết hợp lí những vấn đề được đặt ra. Vì vậy, ngày nay người ta có xu hướng dùng thuật ngữ “dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề”. 1, BẢN CHẤT Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó Giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề” (Rubinstein). Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho học sinh những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có. 2, QUY TRÌNH THỰC HIỆN Bước 1. Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề - Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề
- Giải thích và chính xác hóa tình huống (khi cần thiết) để hiểu đúng vấn đề được đặt ra
- Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó
Bước 2: Tìm giải pháp Tìm cách giải quyết vấn đề, thường được thực hiện theo sơ đồ sau: Bước 3. Trình bày giải pháp HS trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề Bước 4. Nghiên cứu sâu giải pháp - Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả
- Đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ xét tương tự, khái quát hóa, lật ngược vấn đề,… và giải quyết nếu có thể
3, ƯU ĐIỂM - Phương pháp dạy học này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho học sinh. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có học sinh sẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết.
- Đây là phương pháp dạy học phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, HS sẽ huy động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
- Thông qua việc giải quyết vấn đề, học sinh được lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức (“giải quyết vấn đề” không còn chỉ thuộc phạm trù phương pháp mà đã trở thành một mục đích dạy học, được cụ thể hóa thành một mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển của xã hội)
4, HẠN CHẾ - Phương pháp dạy học này đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các phương pháp thông thường. Hơn nữa, theo Lecne: “Chỉ có một số tri thức và phương pháp hoạt động nhất định, được lựa chọn khéo léo và có cơ sở mới trở thành đối tượng của dạy học nêu vấn đề”.
Tham khảo thêm: Đặt câu hỏi theo mức độ nhận thức của học sinh Billy Nguyễn – Cẩm nang dạy học Từ VLOS
Từ
những
năm
1960,
GV
đã
làm
quen
với
thuật
ngữ
"dạy
học
nêu
vấn
đề",
nhưng
cho
đến
nay
vẫn
chưa
vận
dụng
thành
thạo.
Cho
người
cho
rằng
thuật
ngữ
"nêu
vấn
đề"
có
thể
gây
hiểu
lầm
là
GV
nêu
ra
vấn
đề
để
HS
giải
quyết,
do
đó
đề
nghị
thay
"nêu
vấn
đề"
bằng
"gợi
vấn
đề".
Thực
ra,
trước
hết
cần
tập
dượt
cho
HS
khả
năng
phát
hiện
vấn
đề
từ
một
tình
huống
trong
học
tập
hoặc
trong
thực
tiễn.
Đây
là
một
khả
năng
có
ý
nghĩa
rất
quan
trọng
đối
với
một
người
và
không
phải
dễ
dàng
mà
có
được.
Mặt
khác,
sự
thành
đạt
trong
cuộc
đời
không
chỉ
tùy
thuộc
vào
năng
lực
phát
hiện
kịp
thời
những
vấn
đề
nảy
sinh
trong
thực
tiễn
mà
bước
quan
trọng
tiếp
theo
là
giải
quyết
hợp
lí
những
vấn
đề
được
đặt
ra.
Vì
vậy,
ngày
nay
người
ta
có
xu
hướng
dùng
thuật
ngữ
"dạy
học
giải
quyết
vấn
đề"
hoặc
"dạy
học
đặt
và
giải
quyết
vấn
đề"
hoặc
"dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề".
1.
Bản
chất[sửa]
Dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
là
PPDH
trong
đó
GV
tạo
ra
những
tình
huống
có
vấn
đề,
điều
khiển
HS
phát
hiện
vấn
đề,
hoạt
động
tự
giác,
tích
cực,
chủ
động,
sáng
tạo
để
giải
quyết
vấn
đề
và
thông
qua
đó
chiếm
lĩnh
tri
thức,
rèn
luyện
kĩ
năng
và
đạt
được
những
mục
đích
học
tập
khác.
Đặc
trưng
cơ
bản
của
dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
là
"tình
huống
gợi
vấn
đề"
vì
"Tư
duy
chỉ
bắt
đầu
khi
xuất
hiện
tình
huống
có
vấn
đề"
(Rubinstein).
Tình
huống
có
vấn
đề
(tình
huống
gợi
vấn
đề)
là
một
tình
huống
gợi
ra
cho
HS
những
khó
khăn
về
lí
luận
hay
thực
hành
mà
họ
thấy
cần
có
khả
năng
vượt
qua,
nhưng
không
phải
ngay
tức
khắc
bằng
một
thuật
giải,
mà
phải
trải
qua
quá
trình
tích
cực
suy
nghĩ,
hoạt
động
để
biến
đổi
đối
tượng
hoạt
động
hoặc
điều
chỉnh
kiến
thức
sẵn
có.
2.
Quy
trình
thực
hiện[sửa]
Bước
1.
Phát
hiện
hoặc
thâm
nhập
vấn
đề
-
Phát
hiện
vấn
đề
từ
một
tình
huống
gợi
vấn
đề
-
Giải
thích
và
chính
xác
hóa
tình
huống
(khi
cần
thiết)
để
hiểu
đúng
vấn
đề
được
đặt
ra
-
Phát
biểu
vấn
đề
và
đặt
mục
tiêu
giải
quyết
vấn
đề
đó[1]
Bước
2:
Tìm
giải
pháp
Tìm
cách
giải
quyết
vấn
đề,
thường
được
thực
hiện
theo
sơ
đồ
sau:
Giải
thích
sơ
đồ
-
Phân
tích
vấn
đề:
làm
rõ
mối
liên
hệ
giữa
cái
đã
biết
và
cái
cần
tìm
(dựa
vào
những
tri
thức
đã
học,
liên
tưởng
tới
kiến
thức
thích
hợp)
-
Hướng
dẫn
HS
tìm
chiến
lược
giải
quyết
vấn
đề
thông
qua
đề
xuất
và
thực
hiện
hướng
giải
quyết
vấn
đề.
Cần
thu
thập,
tổ
chức
dữ
liệu,
huy
động
tri
thức;[2]
sử
dụng
những
phương
pháp,
kĩ
thuật
nhận
thức,
tìm
đoán
suy
luận
như
hướng
đích,
quy
lạ
về
quen,
đặc
biệt
hóa,
chuyển
qua
những
trường
hợp
suy
biến,
tương
tự
hóa,
khái
quát
hóa,
xem
xét
những
mối
liên
hệ
phụ
thuộc,
suy
xuôi,
suy
ngược
tiến,
suy
ngược
lùi,...
Phương
hướng
đề
xuất
có
thể
được
điều
chỉnh
khi
cần
thiết.
Kết
quả
của
việc
đề
xuất
và
thực
hiện
hướng
giải
quyết
vấn
đề
là
hình
thành
được
một
giải
pháp.
-
Kiểm
tra
tính
đúng
đắn
của
giải
pháp:
Nếu
giải
pháp
đúng
thì
kết
thúc
ngay,
nếu
không
đúng
thì
lặp
lại
từ
khâu
phân
tích
vấn
đề
cho
đến
khi
tìm
được
giải
pháp
đúng.
Sau
khi
đã
tìm
ra
một
giải
pháp,
có
thể
tiếp
tục
tìm
thêm
những
giải
pháp
khác,
so
sánh
chúng
với
nhau
để
tìm
ra
giải
pháp
hợp
lí
nhất.[3]
Bước
3.
Trình
bày
giải
pháp
HS
trình
bày
lại
toàn
bộ
từ
việc
phát
biểu
vấn
đề
tới
giải
pháp.
Nếu
vấn
đề
là
một
đề
bài
cho
sẵn
thì
có
thể
không
cần
phát
biểu
lại
vấn
đề.[4]
Bước
4.
Nghiên
cứu
sâu
giải
pháp
-
Tìm
hiểu
những
khả
năng
ứng
dụng
kết
quả
-
Đề
xuất
những
vấn
đề
mới
có
liên
quan
nhờ
xét
tương
tự,
khái
quát
hóa,
lật
ngược
vấn
đề,...
và
giải
quyết
nếu
có
thể.[5]
3.
Ưu
điểm[sửa]
-
Phương
pháp
này
góp
phần
tích
cực
vào
việc
rèn
luyện
tư
duy
phê
phán,
tư
duy
sáng
tạo
cho
HS.
Trên
cơ
sở
sử
dụng
vốn
kiến
thức
và
kinh
nghiệm
đã
có
HS
sẽ
xem
xét,
đánh
giá,
thấy
được
vấn
đề
cần
giải
quyết.
-
Đây
là
phương
pháp
phát
triển
được
khả
năng
tìm
tòi,
xem
xét
dưới
nhiều
góc
độ
khác
nhau.
Trong
khi
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề,
HS
sẽ
huy
động
được
tri
thức
và
khả
năng
cá
nhân,
khả
năng
hợp
tác,
trao
đổi,
thảo
luận
với
bạn
bè
để
tìm
ra
cách
giải
quyết
vấn
đề
tốt
nhất.
-
Thông
qua
việc
giải
quyết
vấn
đề,
HS
được
lĩnh
hội
tri
thức,
kĩ
năng
và
phương
pháp
nhận
thức
("giải
quyết
vấn
đề"
không
còn
chỉ
thuộc
phạm
trù
phương
pháp
mà
đã
trở
thành
một
mục
đích
dạy
học,
được
cụ
thể
hóa
thành
một
mục
tiêu
là
phát
triển
năng
lực
giải
quyết
vấn
đề,
một
năng
lực
có
vị
trí
hàng
đầu
để
con
người
thích
ứng
được
với
sự
phát
triển
của
xã
hội)
4.
Hạn
chế[sửa]
-
Phương
pháp
này
đòi
hỏi
GV
phải
đầu
tư
nhiều
thời
gian
và
công
sức,
phải
có
năng
lực
sư
phạm
tốt
mới
suy
nghĩ
để
tạo
ra
được
nhiều
tình
huống
gợi
vấn
đề
và
hướng
dẫn
tìm
tòi
để
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề.
-
Việc
tổ
chức
tiết
học
hoặc
một
phần
của
tiết
học
theo
phương
pháp
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
đòi
hỏi
phải
có
nhiều
thời
gian
hơn
so
với
các
phương
pháp
thông
thường.
Hơn
nữa,
theo
Lecne:
"Chỉ
có
một
số
tri
thức
và
phương
pháp
hoạt
động
nhất
định,
được
lựa
chọn
khéo
léo
và
có
cơ
sở
mới
trở
thành
đối
tượng
của
dạy
học
nêu
vấn
đề".
5.
Một
số
lưu
ý[sửa]
Lecne
khẳng
định
rằng:
"Số
tri
thức
và
kĩ
năng
được
HS
thu
lượm
trong
quá
trình
dạy
học
nêu
vấn
đề
sẽ
giúp
hình
thành
những
cấu
trúc
đặc
biệt
của
tư
duy.
Nhờ
những
tri
thức
đó,
tất
cả
những
tri
thức
khác
mà
HS
đã
lĩnh
hội
không
phải
trực
tiếp
bằng
những
PPDH
nêu
vấn
đề,
sẽ
được
chủ
thể
chỉnh
đốn
lại,
cấu
trúc
lại".
Do
đó,
không
nên
yêu
cầu
HS
tự
khám
phá
tất
cả
các
tri
thức
quy
định
trong
chương
trình.
-
Cho
HS
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
đối
với
một
bộ
phận
nội
dung
học
tập,
có
thể
có
sự
giúp
đỡ
của
GV
với
mức
độ
nhiều
ít
khác
nhau.
HS
được
học
không
chỉ
ở
kết
quả
mà
điều
quan
trọng
hơn
là
cả
quá
trình
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề.
-
HS
chỉnh
đốn
lại,
cấu
trúc
lại
cách
nhìn
đối
với
bộ
phận
tri
thức
còn
lại
mà
họ
đã
lĩnh
hội
không
phải
bằng
con
đường
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề,
thậm
chí
có
thể
cũng
không
phải
nghe
GV
thuyết
trình
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề.
Tỉ
trọng
các
vấn
đề
người
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
so
với
chương
trình
tùy
thuộc
vào
đặc
điểm
của
môn
học,
vào
đối
tượng
HS
và
hoàn
cảnh
cụ
thể.
Tuy
nhiên,
phương
hướng
chung
là:
Tỉ
trọng
phần
nội
dung
được
dạy
theo
cách
để
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
không
choán
hết
toàn
bộ
môn
học
những
cũng
phải
đủ
để
người
học
biết
cách
thức,
có
kĩ
năng
giải
quyết
vấn
đề
và
có
khả
năng
cấu
trúc
lại
tri
thức,
biết
nhìn
toàn
bộ
nội
dung
còn
lại
dưới
dạng
đang
trong
quá
trình
hình
thành
và
phát
triển
theo
cách
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề.
-
Các
vấn
đề/
tình
huống
đưa
ra
để
HS
xử
lí,
giải
quyết
cần
thoả
mãn
các
yêu
cầu
sau:
-
Phù
hợp
với
chủ
đề
bài
học
-
Phù
hợp
với
trình
độ
nhận
thức
của
HS
-
Vấn
đề/
tình
huống
phải
gần
gũi
với
cuộc
sống
thực
của
HS
-
Vấn
đề/
tình
huống
có
thể
diễn
tả
bằng
kênh
chữ
hoặc
kênh
hình,
hoặc
kết
hợp
cả
hai
kênh
chữ
và
kênh
hình
hay
qua
tiểu
phẩm
đóng
vai
của
HS
-
Vấn
đề/
tình
huống
cần
có
độ
dài
vừa
phải
-
Vấn
đề/
tình
huống
phải
chứa
đựng
những
mâu
thuẫn
cần
giải
quyết,
gợi
ra
cho
HS
nhiều
hướng
suy
nghĩ,
nhiều
cách
giải
quyết
vấn
đề.
-
Tổ
chức
cho
HS
giải
quyết,
xử
lí
vấn
đề/
tình
huống
cần
chú
ý:
-
Các
nhóm
HS
có
thể
giải
quyết
cùng
một
vấn
đề/
tình
huống
hoặc
các
vấn
đề/
tình
huống
khác
nhau,
tuỳ
theo
mục
đích
của
hoạt
động.
-
HS
cần
xác
định
rõ
vấn
đề
trước
khi
đi
vào
giải
quyết
vấn
đề.
-
Cần
sử
dụng
phương
pháp
động
não
để
HS
liệt
kê
các
cách
giải
quyết
có
thể
có.
-
Cách
giải
quyết
tối
ưu
đối
với
mỗi
HS
có
thể
giống
hoặc
khác
nhau.
-
GV
cần
tìm
hiểu
đúng
cách
tạo
tình
huống
gợi
vấn
đề
và
tận
dụng
các
cơ
hội
để
tạo
ra
tình
huống
đó,
đồng
thời
tạo
điều
kiện
để
HS
tự
lực
giải
quyết
vấn
đề.
Một
số
cách
thông
dụng
để
tạo
tình
huống
gợi
vấn
đề
là:
-
Dự
đoán
nhớ
nhận
xét
trực
quan,
thực
hành
hoặc
hoạt
động
thực
tiễn
-
Lật
ngược
vấn
đề
-
Xét
tương
tự
-
Khái
quát
hóa
-
Khai
thác
kiến
thức
cũ,
đặt
vấn
đề
dẫn
đến
kiến
thức
mới
-
Giải
bài
tập
mà
chưa
biết
thuật
giải
trực
tiếp
-
Tìm
sai
lầm
trong
lời
giải
-
Phát
hiện
nguyên
nhân
sai
lầm
và
sửa
chữa
sai
lầm,
Trong
dạy
học,
các
cơ
hội
như
vậy
rất
nhiều,
do
đó
PPDH
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
có
khả
năng
được
áp
dụng
rộng
rãi
trong
dạy
học
nhằm
phát
huy
tính
chủ
động,
sáng
tạo
của
HS.
Xem
thêm:
Tạo
tình
huống
có
vấn
đề
trong
dạy
học
môn
Toán
-
Dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
có
thể
áp
dụng
trong
các
giai
đoạn
của
quá
trình
dạy
học:
hình
thành
kiến
thức
mới,
củng
cố
kiến
thức
và
kĩ
năng,
vận
dụng
kiến
thức.
Phương
pháp
này
cần
hướng
tới
mọi
đối
tượng
HS
chứ
không
chỉ
áp
dụng
riêng
cho
HS
khá
giỏi.
6.
Bốn
mức
độ
dạy
học
PH
và
GQVĐ[sửa]
Mức
độ |
Tổ
chức
và
thực
hiện
hoạt
động
của
GV
và
HS |
Tạo
tình
huống |
Phát
hiện
vấn
đề |
Tìm
giải
pháp |
Thực
hiện
giải
pháp |
Kết
luận,
phát
triển
vấn
đề |
1 |
|
GV
đặt
vấn
đề |
GV
nêu
cách
GQVĐ |
HS
thực
hiện,
GV
hướng
dẫn |
GV
đánh
giá
kết
quả
làm
việc
của
HS |
2 |
|
GV
nêu
vấn
đề |
GV
gợi
ý
để
HS
tìm
ra
cách
GQVĐ |
HS
thực
hiện,
GV
giúp
đỡ
khi
cần |
GV
và
HS
cùng
đánh
giá |
3 |
GV
cung
cấp
thông
tin
tạo
tình
huống |
HS
phát
hiện,
nhận
dạng,
phát
biểu
vấn
đề
nảy
sinh
cần
giải
quyết. |
HS
tự
lực
đề
xuất
các
giả
thuyết
và
lựa
chọn
các
giải
pháp |
HS
thực
hiện
kế
hoạch
giải
quyết
vấn
đề |
GV
và
HS
cùng
đánh
giá |
4 |
HS
tự
lực
phát
hiện
vấn
đề
nảy
sinh
trong
hoàn
cảnh
của
mình
hoặc
của
cộng
đồng |
HS
lựa
chọn
vấn
đề
giải
quyết |
HS
tự
đề
xuất
ra
giả
thuyết,
xây
dựng
kế
hoạch
giải |
HS
thực
hiện
kế
hoạch
giải |
HS
tự
đánh
giá
chất
lượng
và
hiệu
quả
của
việc
GQVĐ |
Phần
đông
GV
chúng
ta
mới
vận
dụng
dạy
học
đặt
-
giải
quyết
vấn
đề
ở
mức
1
và
2.
Phải
phấn
đấu
để
trong
nhiều
trường
hợp
có
thể
đạt
tới
mức
3
và
4,
từ
đó
làm
cho
dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
trở
thành
phổ
biến.
7.
Ví
dụ
minh
họa[sửa]
7.1.
Ví
dụ
về
môn
Toán[sửa]
Xem
chi
tiết:
Dạy
học
phát
hiện
và
giải
quyết
vấn
đề
trong
môn
Toán
học#6.
Ví
dụ
minh
họa
7.2.
Ví
dụ
về
môn
Sinh[sửa]
Phân
loại
vấn
đề[sửa]
Dạng
vấn
đề |
Nội
dung |
Phương
pháp |
Giải
pháp |
GV |
NH |
GV |
NH |
GV |
NH |
1 |
Biết |
Biết |
Biết |
Biết |
Biết |
Chưa
biết |
2 |
Biết |
Biết |
Biết |
Chưa
biết |
Biết |
Chưa
biết |
3 |
Biết |
Biết |
Biết
ít/nhiều |
Chưa
biết |
Biết
ít/nhiều |
Chưa
biết |
4 |
Biết |
Biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
5 |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chưa
biết |
Chú
thích[sửa]
-
↑
Xác
định,
nhận
dạng
vấn
đề/tình
huống
-
↑
Thu
thập
thông
tin
có
liên
quan
đến
vấn
đề/tình
huống
đặt
ra
-
↑
-
Liệt
kê
các
cách
giải
quyết
có
thể
có; -
Phân
tích,
đánh
giá
kết
quả
mỗi
cách
giải
quyết
(tích
cực,
hạn
chế,
cảm
xúc,
giá
trị) ; -
So
sánh
kết
quả
các
cách
giải
quyết; -
Lựa
chọn
cách
giải
quyết
tối
ưu;
-
↑
Thực
hiện
theo
cách
giải
quyết
đã
lựa
chọn
-
↑
Rút
kinh
nghiệm
cho
việc
giải
quyết
những
vấn
đề,
tình
huống
khác
Tài
liệu
tham
khảo[sửa]
-
Modul
số
18:
Phương
pháp
dạy
học
tích
cực;
Tài
liệu
bồi
dưỡng
thường
xuyên
cho
GV
khối
THPT;
Vụ
Giáo
dục
Trung
học;
2013
Xem
thêm[sửa]
-
Lựa
chọn,
sử
dụng
một
số
phương
pháp
dạy
học
toán
ở
tiểu
học
Xem thêm liên kết đến trang này.
|